Xem mẫu

  1. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh MỤC LỤC Lời mở đầu Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  2. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh Lời mở đầu Trong suốt thời gian qua, vấn đề lạm phát đang trở thành đề tài nóng trên cả báo chí và giới học thuật. Lạm phát nhận được công chúng quan tâm bởi nó tác động đến “mâm cơm” của những người lao động nghèo, công nhân, sinh viên, trí thức… những thành phần chiếm đại đa số trong dân cư. Lạm phát đang khiến chất lượng cuộc sống ngày càng suy giảm, trở thành mối đe doạ cho mục tiêu thiên niên kỷ của Việt Nam Do . Cùng với đó thị trường chứng khoán Việt Nam không ổn định với chỉ số VN- Index tụt dốc liên tục. Chính phủ đã th ực hiện các chính sách vĩ mô để giả quyết hai vaavs đề trên . Để xem các chính sách vĩ mô của nhà nước thực hiện như thế nào và giữa chúng có quan hệ ra sao thì chúng ta đi nghiên cứu lý thuyết bộ ba bất khả thi của Robert Mundell và Marcus Fleming, từ đó có thể áp dụng lý thuyết này vào điều hành chính sách vĩ mô của Việt Nam. Lý thuy ết nỳ phát bi ểu nh ư sau:”Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa hai trong ba. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung Quốc ngày nay), nó có thể chọn một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ , nhưng phải th ả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống như Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)"-- trích lời đề tặng Robert Mundell - Paul Krugman, 1999 Chính vì lẽ đó chúng tôi chọn đề tài: “ Thực trạng áp dụng lý thuyết bộ ba bất khả thi ở Việt Nam và một số đề xuất” Đề tài chúng tôi gồm có 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về lý thuyết bộ ba bất khả thi Chương II: Các hàm ý đối với Việt Nam Chương III: Giải pháp để thực hiện hai mục tiêu :Kiềm chế lạm phát , ổn định thị trường chứng khoán ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... Tp , Hồ Chí Minh ngày 17 tháng 4 năm 2011 Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  3. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh ............................................................................................................................ ..............................................................................................Nhóm thực hiện Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Giáo sư Robert Mundell được xem là cha đẻ của lý thuyết bộ ba bất khả thi. Dựa trên những ý tưởng của ông trong tác phẩm nổi tiếng “ Chính sách tài khoá và tiền tệ dưới các chế độ tỷ giá” (1963), Krugman (1979) và Frankel (1999) đã phát triển thành “ mô hình bất khả thi”. Theo lý thuyết này, một quốc gia không thể đồng thời đạt được cả ba mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá cố định và tự do hoá dòng vốn. 1. Mô hình Mundell-Fleming và các hàm ý về chính sách tào khóa , chính sách tiền tệ dưới các chế độ tỷ giá. Khi nghiên cứu tác động của chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đối với việc gia tăng sản lượng quốc gia trong mô hình IS-LM, James Meade(1951) và Jan Tinbergen (1952) đã có những nỗ lực để đưa các yếu tố nước ngoài vào mô hình. Tuy nhiên, phần lớn những đóng góp này đều chỉ dừng lại ở mức là những tranh luận hấp dẫn, chưa thực sự trở thành một lý thuyết vững chắc. Nỗ lực thành công nhất trong việc đưa yếu tố nước ngoài vào hệ thống lý thuyết Keyness hiện đại được xem là của “mô hình Mundell-Fleming”. Đây là kết quả nghiên cứu của Robert Mundell (1962, 1963) và J.M.Fleming (1962) trong thời gian làm việc tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Mô hình Mundell-Fleming là sự mở rộng của nền tảng lý thuyết IS-LM khi có tính đến tác động của cán cân thanh toán. Đây được xem là điểm khởi đầu cho lý thuy ết bộ ba bất khả thi. Mô hình Mundell-Fleming chỉ ra sự hiệu quả hay không hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá dưới các chế độ tỷ giá khác nhau. 1.1. Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định. Đầu tiên, mô hình Mundell-Fleming chỉ ra rằng, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá có thể làm thay đổi các trạng thái của cán cân thanh toán . Bắt đầu tại điểm cân bằng E trong hình 1.1, nơi mà BP=0, nếu chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng (một sự dịch chuyển sang phải từ LM thành LM’) thì sẽ có một điểm F cân bằng mới nằm dưới Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  4. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh đường cong BP, và đó là một cán cân thanh toán thâm hụt. Ngược l ại, bắt đ ầu t ừ đi ểm E, một sự mở rộng chính sách tài khoá (đường IS dịch chuyển sang phải thành IS’) sẽ hướng nền kinh tế đến một cán cân thanh toán thặng dư tại điểm G. Hình 1.1: Mô hình IS-LM của Mundell-Fleming với tỷ giá cố định Mặc dù chính sách tiền tệ và tài khoá có thể dẫn đến một cán cân thanh toán thặng dư hoặc thâm hụt, nhưng hàm ý của mô hình Mundell-Fleming đó là có thể sử dụng sự kết hợp của chính sách tài khoá và tiền tệ để tăng sản lượng mà không tạo nên một cán cân thanh toán thâm hụt hay thặng dư. Điều này được thể hiện rõ trong hình 1.1. Bắt đ ầu t ại đi ểm E, chúng ta có thể thực hiện cả hai chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng (nghĩa là, IS dịch chuyển đến IS’ và LM dịch chuyển đến LM’) nhưng vẫn có được một cán cân thanh toán cân bằng (điểm H trong hình 1.1). Điểm H là một điểm cân bằng bền vững trong dài hạn. Khi cán cân thanh toán thặng dư, NHTW sẽ dùng nội tệ để mua ngoại tệ vào. Ngược lại, khi cán cân thanh toán thâm hụt, NHTW sẽ bán ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu trên thị trường. Do đó, một cán cân thanh toán thặng dư hay thâm hụt sẽ làm tăng hoặc giảm cung tiền của nền kinh tế vì NHTW sẽ mua vào hoặc bán ra ngoại tệ. Kết quả là, một cán cân Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  5. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh thanh toán thặng dư hay thâm hụt sẽ không được duy trì, nhưng điều này lại tác đ ộng đ ến lạm phát trong nước. Luận điểm này sau đó được Frankel và Krugman khai thác và xây dựng nên lý thuyết bộ ba bất khả thi. Nhằm tránh những tác động của việc mua bán ngoại tệ đến lạm phát trong nước như đã nói ở trên, NHTW sử dụng một công cụ gọi là “chính sách vô hiệu hoá”. Giả định, có một sự mở rộng chính sách tiền tệ và tạo ra một cán cân thanh toán thâm hụt như điểm F trong hình 1.1: +Nếu NHTW bán ngoại tệ nhằm đáp ứng cầu ngoại tệ sẽ làm giảm cung tiền nội địa và làm đường LM’ dịch chuyển trở lại đường LM, hay mức cân bằng sẽ trở lại điểm E. Để duy trì vị trí tại F, NHTW phải tiến hành cái gọi là “chính sách vô hiệu hoá”, t ức là NHTW sẽ mua các chứng khoán trên thị trường mở nhằm cung ứng ra lưu thông một lượng nội tệ đúng bằng lượng nội tệ giảm đi khi NHTW bán ngoại tệ để duy trì cán cân thanh toán thâm hụt. + Ngược lại, để duy trì một cán cân thanh toán thặng dư, chính sách vô hiệu hoá c ủa ngân hàng được thực hiện theo chiều ngược lại. Nghĩa là, NHTW sẽ bán các chứng khoán trên thị trường mở để hút lượng nội tệ được dùng mua ngoại tệ trước đó. Thật quan trọng để hiểu các hàm ý về chính sách tài khóa và tiền tệ dưới các mức đ ộ khác nhau của luân chuyển dòng vốn, cơ chế tỷ giá và chính sách vô hiệu hoá. Nếu chúng ta vẫn tiếp tục giả định chế độ tỷ giá hối đoái là cố định và không có chính sách vô hi ệu hoá, thì sau đó tất yếu rằng, chính sách tài khoá trở nên hiệu quả hơn chính sách tiền tệ. Nhìn hình 1.1: + Bắt đầu tại điểm E, một sự mở rộng chính sách tiền tệ sẽ chuyển đường LM sang LM’ và do đó đạt được một cán cân thanh toán thâm hụt tại điểm F. Tuy nhiên, không có s ự vô hiệu hoá, cung tiền sẽ giảm và sau đó LM’ sẽ dịch chuyển sang phía trái tr ở lại LM và điểm F sẽ quay trở lại điểm E. Nghĩa là, sản lượng sau khi gia tăng trong một thời gian ngắn sẽ quay lại điểm cân bằng Y*. Do đó, chính sách tiền tệ không hiệu quả hoàn toàn để làm gia tăng sản lượng quốc gia. +Ngược lại, giả định rằng, bắt đầu tại điểm E, chúng ta thực hiện một chính sách tài khóa mở rộng, đường IS dịch chuyển sang IS’, dẫn tới một cán cân thanh toán thặng dư tại Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  6. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh điểm G. Không có chính sách vô hiệu hoá, một cán cân thanh toán thặng dư hàm ý rằng cung tiền sẽ tăng nhằm đáp ứng cho sự gia tăng trong sản lượng quốc gia. Do đó, đường LM dịch chuyển sang phía phải đến LM’. Tại điểm cân bằng mới, điểm H, là một vị thế dài hạn. Như vậy, sản lượng đã tăng đáng kể trong trường hợp này vì sự dịch chuyển c ủa cung ti ền khi không có vô hiệu hoá bổ sung cho sự mở rộng chính sách tài khoá ban đầu. Điều này đưa ta đến kết luận: dưới chế độ tỷ giá cố định, chính sách tài khoá có hiệu quả cao hơn và chính sách tiền tệ kém hiệu quả hơn. 1.2. Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá linh hoạt. Các hàm ý của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá dưới chế độ tỷ giá linh hoạt có thể được hình dung trong hình 1.2. Giả định chúng ta bắt đầu tại E=(r*, Y*) - phần giao nhau của đường cong IS, LM, BP; và giả định có một sự mở rộng chính sách ti ền t ệ t ừ LM sang LM’. Kết quả, chúng ta dịch chuyển từ E đến F, là một cán cân thanh toán thâm hụt. Tại điểm F, có một cầu thặng dư về ngoại tệ và cung thặng dư về nội tệ trên thị tr ường ngoại hối. Dưới cơ chế tỷ giá linh hoạt, tỷ giá thực sẽ giảm, do đó đường BP dịch chuyển sang phải thành BP’ và IS dịch chuyển sang phải thành IS’, tạo nên một điểm cân bằng sản lượng mới J cao hơn Y*J. Chúng ta có được sự cân bằng bên trong và bên ngoài khi có sự giao nhau của ba đường IS’, LM’ và BP’. Do đó, dưới chế độ tỷ giá linh hoạt, chính sách ti ền t ệ t ỏ ra khá hiệu quả để gia tăng sản lượng. Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  7. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh Hình 1.2: Mô hình IS-LM của Mundell-Fleming với tỷ giá linh hoạt Ngược lại, sự hiệu quả của chính sách tài khoá dưới cơ chế tỷ giá linh hoạt là không rõ ràng. Trong hình 1.2, bắt đầu tại điểm E, giả định có một chính sách tài khoá mở rộng làm cho đường cong IS dịch chuyển đến IS’’ tại điểm G. Tuy nhiên, tại điểm G, chúng ta có một cán cân thanh toán thặng dư và do đó có một sự gia tăng trong tỷ giá thực. Điều này sẽ làm cho đường BP dịch chuyển lên trên thành BP’’ và IS’’ dịch chuyển ngược lại thành IS’. Ta có một điểm cânbằng mới K, là sự giao nhau của đường IS’, LM và BP’’. Như vậy, trong điều kiện tương đối, một chính sách tài khoá mở rộng dưới chế độ tỷ giá linh hoạt là ít hiệu quả hơn dưới chế độ tỷ giá cố định. 2. Lý thuyết bộ ba bất khả thi 2.1. Ba nhân tố của lý thuyết và thước đo của bộ ba bất khả thi. 2.1.1. Độc lập tiền tệ Độc lập tiền tệ giúp cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện chính sách phản chu kỳ kinh tế. Chẳng hạn nếu nền kinh tế có dấu hiệu phát triển nóng, chính phủ sẽ tăng lãi xuất hoặc thắt chặt cung tiền và ngược lại.Trong các trường hợp này chính phủ không quan tâm đến tỷ giá tăng hay giảm và các biến số kinh tế vĩ mô khác. Chính vì sự độc lập tiền tệ này mà nhiều nhà kinh tế tin rằng chúng sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định hơn. Tuy nhiên vấn đề là trong một thế giới mà giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc, độc lập tiền tệ quá mức có thể là một cái cớ để chính phủ lạm dụng thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong ngắn hạn. Độc lập tiền tệ nhiều hơn vì vậy dễ dẫn đến bất ổn định trong tăng trưởng và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Đó là chưa kể độc lập tiền tệ quá mức có khả năng làm cho chính phủ tiền tệ hóa chi tiêu chính phủ bằng cách phát hành tiền trang trải cho thâm hụt ngân sách. Hậu quả là nền kinh tế rơi vào mất ổn định với tình trạng lạm phát hai con số thậm chí siêu lạm phát. Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  8. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh 2.1.2. Ổn định tỷ giá Ổn định tỷ giá giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của nền kinh tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ. Tất cả giúp làm cho môi trường đầu tư tốt lên. Tuy nhiên tỷ giá cố định hay ổn định quá mức có mặt trái c ủa nó. Tỷ giá quá ổn định làm cho chính phủ mất đi một công cụ để hấp thụ các cú sốc bên trong và bên ngoài truyền dẫn vào nền kinh tế. Ví dụ lạm phát cao trong n ước mà t ỷ giá gần như cố định dễ dẫn đến nguy cơ hàng hóa mất sức cạnh tranh trên thị tr ường th ế giới, hậu quả là xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng lên. Ngoài ra tính quá cứng nhắc của tỷ giá còn ngăn cản không cho những nhà làm chính sách sử dụng công cụ chính sách phù hợp với thực tế diễn biến cả nền kinh tế, nhất là khi đang có dấu hiệu bong bóng tài sản. Ví dụ vào những tháng đầu năm 2008 kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng lạm phát tăng tốc 2 con số. Lúc bấy giờ tỷ giá dao động mức 1 USD=16.500 VND. Nhiều nhà kinh tế lúc bấy giờ đưa ra đề xuất để cho tỷ giá giảm xuống mức 1 USD = 15.500 VND để nhập khẩu lạm phát thấp ở nước ngoài về.Tỷ giá giảm làm cho giá hàng nhập khẩu giảm đi. Kết quả của việc giảm tỷ giá, tức để cho đồng nội tệ lên giá, kéo theo giá hàng nhập khẩu giảm đi (nếu các yếu tố khác không đổi). Vào thời điểm này do dòng vốn chảy vào nền kinh tế Việt Nam quá nhiều nên tỷ giá có lúc đã giảm xuống khoảng 1 USD = 15.500 VND. Vấn đề là thay vì nhập khẩu các vật tư cần thiết cho sản xuất giúp hạ nhiệt lạm phát thì các doanh nghiệp Việt Nam lại nhập khẩu quá nhiều ô tô. Nhìn chung t ỷ giá quá cứng nhắc chẳng những có khả năng dẫn đến bất ổn trong tăng trưởng, rủi ro lạm phát cao mà còn dẫn đến phân bổ sai nguồn lực và tăng trưởng không bền vững. 2.1.3. Hội nhập tài chính Hội nhập tài chính là xu thế khó thể cưỡng lại được trong bối cảnh toàn cầu hóa. Lợi ích của hội nhập tài chính đến từ hai mặt: hữu hình và vô hình. Về mặt hữu hình,lợi ích của hội nhập tài chính giúp quốc gia tăng trưởng nhanh hơn và phân bổ nguồn lực tốt hơn. Chúng cũng giúp nhà đầu tư đa dạng hóa đầu tư, nhờ vậy mà họ mới mạnh dạn bỏ vốn vào nền kinh tế. Thị trường tài chính nội địa nhờ đó cũng phát triển theo. Hội nhập tài chính còn giúp giải quyết được phần nào vấn đề mất cân xứng thông tin do từ Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  9. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh khu vực doanh nghiệp đến chính phủ phải minh bạch thông tin nếu muốn thu hút nhiều hơn. Lợi ích lớn nhất-lợi ích vô hình-mang lại từ hội nhập tài chính là tạo ra ộng lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và quản trị tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập. Trên thực tế chính nhờ vào quá trình tự do hóa tài chính cuối những thập niên 1990, nhất là sau trở thành thành viên WTO 2007 mà chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách sâu rộng, trong đó có cải cách thủ tục hành chính và ch ất l ượng th ể chế. Mặc dù vậy hội nhập tài chính cũng được cho là nguyên nhân dẫn đ ến bất ổn kinh tế những năm gần đây. Các cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1990 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng có nguyên nhân từ hội nhập tài chính nhưng thiếu quy t ắc điều tiết kèm theo. Tình trạng bong bóng chứng khoán và bất động sản ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008 dẫn đến những bất ổn kinh tế vĩ mô một phần cũng do tự do hóa tài chính nhưng thiếu cơ chế giám sát tương thích. Dòng vốn gián tiếp chảy vào nền kinh tế đa phần là ngắn hạn và mang tính đầu cơ.  Kết hợp ba nhân tố: Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài. Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá thả nỗi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá. Với lựa chọn này, chính phủ (NHTW) được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của thị trường. Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn đóng. Lựa chọn này có nghĩa chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn. Khi có kiểm soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ. Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  10. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh 2.1.4. Thước đo bộ ba bất khả thi Tỷ giá, yếu tố đầu tiên của bộ ba,dễ đo lường nhất. Độ ổn định tỷ giá được đo lường dựa vào chế độ tỷ giá trên thực tế thay vì chế độ tỷ giá như cam kết của một quốc gia với IMF. Yếu tố thứ hai của bộ ba là độc lập tiền tệ. Rose (1996) có đề xuất đo lường độc lập tiền tệ bằng cách xem phản ứng của tỷ giá đối với những thay đổi trong sản l ượng, lãi suất và cung tiền. Tuy nhiên đối với cung tiền, phương pháp này có nhược điểm là khó thể nào phân biệt được trong thực tế đâu là một cú sốc cung và cú sốc cầu ti ền t ệ, đó là chưa kể phải giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là không đổi. Khác với Rose, Obstfeld, Jay C. Shambaugh và Taylor (2005) đề xuất cách tiếp cận khác để đo lường độc lập tiền tệ bằng cách không dựa trên số lượng mà dựa trên lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Phương pháp này gây tranh cãi vì chỉ dựa chủ yếu vào trực giác khi cho rằng điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào mức lãi suất mục tiêu hơn là dựa trên số lượng tiền tệ. Yếu tố khó đo lường nhất của bộ ba là hội nhập tài chính. Thường thì các nhà kinh tế dựa vào phương thức kiểm soát vốn của mỗi quốc gia theo phân lo ại của IMF để xem xét chỉ số độ mở của tài khoản vốn.Tuy nhiên điều mà các nhà kinh t ế thực sự quan tâm là mức độ hội nhập tài chính trên thực tế. Có thể một quốc gia tuy tuyên bố kiểm soát chặt các giao dịch vốn nhưng trên thực tế các chính sách lại khá thông thoáng. Chinn và Ito đã phát triển ba thước đo để đánh giá mức độ độc lập tiền tệ (MI), ổn đ ịnh tỷ giá ( ERS) và hội nhập tài chính ( KAOPEN). Độc lập tiền tệ MI. Mức độ độc lập tiền tệ được đo lường bằng hàm đảo nghịch của mức tương quan hằng năm của lãi suất hàng tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở. Chỉ số mức độ độc lập tiền tệ được xác định bằng: MI = 1 - Trong đó: i: quốc gia sở tại, j: quốc gia cơ sở. Với công thức như trên, giá trị tối đa, tối thiểu tương ứng là 1 và 0. Gía trị càng tiến về 1 có nghĩa là chính sách tiền tệ càng độc lập hơn. VÍ dụ nếu chúng ta muốn đo lường mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam, Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  11. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh quốc gia sở tại là Việt Nam và quốc gia cơ sở là Mỹ ( nếu chúng ta muốn xem xét thay đổi lãi suất VNĐ với lãi suất USD). Ổn định tỷ giá (ERS). Độ ổn định tỷ giá chính là độ lệch chuẩn của tỷ giá, được tính theo năm dựa trên dữ liệu tỷ giá mỗi tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở.Độ ổn định tỷ giá nằm giữa giá trị 1 và 0, càng tiến về 1 tỷ giá càng ổn định. ERS = Cách thức đo lường độ ổn định tỷ giá như trên có ưu điểm là giúp chúng ta xác định được chính sách tỷ giá trên thực tế mà một quốc gia đang áp dụng chứ không phải dựa trên những gì mà quốc gia đó tuyên bố. Hội nhập tài chính (KAOPEN).Trong các chỉ số đo lường bộ ba bất khả thi,khó nhất là đo lường mức độ hội nhập tài chính. Muốn đánh giá mức độ hội nhập tài chính, chúng ta phải đo lường mức độ mà một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Tuy nhiên việc đo lường mức độ kiểm soát vốn rất phức tạp vì rất khó đ ể phản ánh h ết những phức tạp trong thực tế. Chẳng hạn có quốc gia tuy tuyên bố mở c ửa th ị tr ường vốn bằng những chính sách khá thông thoáng nhưng trong thực tế lại kiểm soát vốn bằng những biện pháp hành chính của các cơ quan chức năng. Chinn và Ito (2006 , 2008) đưa ra đề xuất sử dụng độ mở tài khoản vốn KAOPEN để đo lường mức độ hội nhập tài chính. KAOPEN dựa trên thông tin trong báo cáo hằng năm về cơ chế tỷ giá và những hạn chế ngoại hối do IMF phát hành (Annual Report on Exchange Arrangements and Exchange Restrictions). Nhìn vào KAOPEN ta sẽ thấy một quốc gia trên thực tế có tiến hành chính sách đa tỷ giá hay không. Đây là dạng cơ chế mà một loại tỷ giá áp d ụng cho giao dịch trên tài khoản vãng lai và một loại tỷ giá áp dụng cho tài khoản vốn. Cơ chế đa tỷ giá chính là một dấu hiệu nhận biết một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Vào thời điểm tình trạng lạm phát tăng tốc ở Việt Nam năm 2008, đã có đề xuất từ một số nhà làm chính sách cho rằng nên áp dụng cơ chế đa tỷ giá, trong đó tỷ giá áp dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu phải khác với các doanh nghiệp nhập khẩu ( chính phủ Việt Nam sau đó đã không đồng ý với biện pháp này). KAOPEN vì vậy cho thấy những hạn chế trong các giao dịch trên tài khoản vãng lai. Tài khoản vốn và kết hối ngoại tệ. Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  12. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh Mặc dù vậy, KAOPEN có nhược điểm là không phản ánh đúng mức những gì diễn ra trong thực tế, nhất là việc khu vực tư nhân tìm mọi cách tránh né các biện pháp kiểm soát vốn của chính phủ. Ví dụ chúng ta thấy ở Việt Nam chẳng hạn, các sai số thống kê hằng năm trong cán cân thanh toán quốc tế nhiều khi lên đến hàng tỷ USD. Các sai số này được quy cho khu vựa doanh nghiệp tìm cách chuyển tiền xuyên biên giới vì nhiều mục đích khác nhau.Tuy có một số nhược điểm nhưng chỉ số KAOPEN được nhiều nhà kinh tế đánh giá đã phản ánh được các mục tiêu chính sách quan trọng mà một quốc gia theo đuổi trong tiến trình hội nhập tài chính. Chỉ số Chinn-Ito (KAOPEN) biến thiên giữa 0 và 1.Giá trị càng cao của chỉ số này cho thấy quốc gia mở cửa hơn với những giao dịch vốn xuyên quốc gia. Lưu ý là chỉ số KAOPEN chỉ cho ta thấy độ mở tài khoản vốn theo pháp lý dựa trên các báo cáo của chính phủ cho IMF, WB các chỉ số kinh tế vĩ mô liên quan đến kiểm soát vốn và ngoại hối. Lane và Milesi-Ferretti (2006) có đề xuất sử dụng chỉ số độ mở tài khoản vốn trên thực tế. Chỉ số của Lane và Milesi-Ferretti đo lường khối lượng nợ và tài sản nước ngoài trong cán cân thanh toán. Khi đo lường tổng lượng nợ và tài sản nước ngoài trong cán cân thanh toán, ta sẽ thấy được mức độ kiểm soát vốn trên thực tế mà quốc gia đó đang theo đuổi. Ngoài ra còn một phương pháp thứ hai để đo lường độ mở của tài khoản v ốn trên thực tế, đó là tính toán tỷ số dòng tài chính xuyên biên giới trong cán cân thanh toán quốc tế so với GDP. Thường khi phân tích các chỉ số của bộ ba bất khả thi các nhà kinh tế có xu hướng sử dụng đồng thời cả hai chỉ số độ mở tài khoản vốn theo pháp lý và trên thực tế cùng một lúc. 2.2. Thuyết bộ ba bất khả thi của GS. Robert Mundell Từ những hàm ý của mô hình Mundell-Fleming ở trên ta thấy rằng: hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá hối đoái và mức đ ộ kiểm soát vốn.Ví dụ, quốc gia nào có chuyển dịch dòng vốn tự do và tỷ giá c ố đ ịnh, thì các nhà quản lý tiền tệ không thể theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập. Trong một quốc gia có cơ chế tỷ giá cố định thì không có rủi ro tỷ giá, và lãi suất trong nước Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  13. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh biến động cùng với lãi suất nước ngoài. Từ những nhận định trên, các nhà kinh tế như Krugman (1979) và Frankel (1999) đã mở rộng mô hình Mundell-Fleming thành “mô hình bất khả thi”. Giống như trong hình 1.3, Frankel (1999)cho rằng, một quốc gia phải t ừ bỏ một trong 3 mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, sự ổn định của chính sách tỷ giá, và hội nhập thị trường tài chính.Các nội dung này được tóm tắt trong bảng 1.1 Hình 1.3 là sự minh hoạ về nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi. Mỗi cạnh thể hiện cho các mục tiêu tốt nhất, lần lượt là: chính sách tiền tệ đ ộc lập, s ự ổn định của tỷ giá, và hội nhập tài chính hoàn toàn. Đối nghịch với mỗi cạnh (hay mỗi mục tiêu) là các công cụ chính sách tại các đỉnh. Mục tiêu hội nhập tài chính đ ối ngược v ới đỉnh kiểm soát vốn; mục tiêu ổn định tỷ giá đối ngược với đỉnh thả nổi hoàn toàn; mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối ngược với đỉnh liên minh tiền tệ. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được bởi một đỉnh nằm giữa. Ví dụ,mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá ổn định đạt được bởi đỉnh kiểm soát vốn hoàn toàn.Mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và hội nhập tài chính hoàn toàn có thể khả thi với đ ỉnh thả nổi hoàn toàn. Cuối cùng, mục tiêu tỷ giá ổn định và hội nhập tài chính đạt được bởi đỉnh liên minh tiền tệ. Hoàn toàn không khả thi để đạt được đồng thời cả ba mục tiêu. Chính sách tiền tệ độc lập tỷ giá ổn định Luân chuyển vốn tăng Hội nhập tài chính hoàn toàn Hình 1.3 Tam giác bộ ba bất khả thi Bảng 1.1- Nguyên lý của bộ ba bất khả thi Dòng vốn lưu Chính sách tiền Hệ thống động hoàn toàn tệ độc lập tỷ Ví dụ: giá cố định Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  14. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh Kiểm soávốn Trung Quốc trước Không Có Có cải cải cách tháng 7/2005 Liên minh tiền Có Không Có EU tệ Tỷ giá thả nổi Nhật, Úc Có Có Không 2.3. Chứng minh lý thuyết bộ ba bất khả thi Hình 2.3 Bộ ba bất khả thi 2.3.1. Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  15. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh Hình 2.3.1 Thị trường vốn đóng Xuất phát từ A thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng làm dịch chuyển LM đến LM1 . LM1 cắt IS tại B thì có R thấp hơn, có Y1 >Yo làm cho NX giảm làm mất cân b ằng t ỷ giá . N ếu nhà nước cho hội nhập tài chính làm cho áp lực càng lớn đối với cố định tỷ giá > hội nhập tài chính sẽ không tồn tại. 2.3.2. Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính Xét tại điểm A nếu nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì đ ường LM d ịch chuyển xuống thành LM1. Đường LM1 cắt IS tại B có r thấp làm dòng vốn dịch chuyển ra nước ngoài và tại đó có mức sản lượng Y1 lớn hơn mức sản lượng Yo làm cho xuất khẩu ròng giảm > cung ngoại tệ giảm cầu ngoại tệ tăng > không thể ổn định tỷ giá . Hình 2.3.2 Tỷ giá thả nỗi 2.3.3. Ổn định tỷ giá và hội nhâp tài chính Xét tại điểm A thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ đường LM dịch chuyển LM1 , LM1 cắt IS tại B lúc này tại B có r thấp , xuất khẩu ròng giảm(NX) làm tỷ giá biến đổi . Nhà nước phải bù đắp khoản khoản ngoại tệ này bằng cách bơm ngoại tệ vào thị trường > làm LM1 dịch chuyển LM chính sách tiền tệ vô tác dụng Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  16. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh Hình 2.3.3 Tỷ giá cố định Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  17. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh Chương II. CÁC HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1. Bộ ba bất khả thi ở các nước. Nước Mỹ đã chọn hai mục tiêu đó là sử dụng chính sách tiền tệ và l ưu chuyển dòng vốn tự do vào nền kinh tế.Mọi người Mỹ đều có thể dễ dàng đầu tư ra nước ngoài, đơn giản nhất là gửi tiền cho 1 quỹ đầu tư tương hỗ quốc tế và người nước ngoài có thể dễ dàng mua chứng khoán, trái phiếu tại Mỹ. Mặt khác, Cục dự trữ liên bang Fed cũng sử dụng chính sách tiền tệ để góp phần tạo việc làm và ổn định giá cả. Tuy nhiên, kết quả của quyết định này là sự bất ổn đối với giá trị của đồng đôla trên thị trường ngoại hối. Ngược lại, Trung Quốc lại có 1 cách lựa chọn khác.Ngân hàng trung ương nước này thực hiện chính sách tiền tệ và duy trì kiểm soát chặt chẽ đối với giá trị trao đổi của đồng nhân dân tệ. Nhưng để hoàn thành 2 mục tiêu này, Trung Quốc phải hạn chế dòng vốn quốc tế, bao gồm cả việc hạn chế công dân Trung Quốc chuyển tài sản ra nước ngoài. Nếu không có những hạn chế đó, tiền sẽ chu chuyển ra và vào đất nước, khiến lãi suất trong nước bằng với mức lãi suất do các ngân hàng trung ương nước ngoài thiết lập. Phần lớn các nước châu Âu đã chọn cách thứ 3.Bằng cách sử dụng đồng euro đ ể thay thế cho đồng franc Pháp, mác Đức, lira Italia... những nước này đã loại bỏ những biến động tỷ giá hối đoái trong khu vực của họ.Thêm vào đó, dòng vốn tự do di chuyển trong các quốc gia này.Nhưng cái giá của sự lựa chọn này là việc từ bỏ khả năng sử dụng chính sách tiền tệ. • Kinh nghiệm áp dụng: Kinh nghiệm áp dụng bộ ba bất khả thi của Trung Quốc:Trung Quốc là một quốc gia áp dụng khá thành công bộ ba bất khả thi vẫn chưa tự do hóa dòng vốn. Trong những năm gần đây, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ rất nhanh, thặng dư thương mại với Mỹ trờ thành vấn đề làm cho Mỹ rất lo ngại, gây sức ép để buộc Trung Quốc tăng giá đồng Nhân dân tệ. Vấn đề đang làm đau đầu người Trung Quốc đã được giải quyết bằng cách chấm dứt hành động can thiệp tỷ giá (sterilization) của ngân hàng trung ương nước này (là việc Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  18. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh nhằm vô hiệu hóa ảnh hưởng của sự can thiệp tỷ giá bằng cách tung ra các loại trái phiếu chính phủ để ngăn cung tiền tăng quá nhanh. Người dân Trung Quốc đang trở nên giàu có hơn và đang lập những kỷ mới về gửi tiết kiệm, trong bối cảnh những tài sản tiết kiệm này không dễ dàng gì đầu tư ra nước ngoài được (do tài khoản vốn của Trung Quốc vẫn bị kiểm soát chặt). Bởi vậy, như là một hậu quả tất yếu, lượng vốn nội địa khổng lồ này đã biến thành các khoản đầu tư làm tăng năng lực sản xuất trong nước đến mức quá lớn so với cầu nội địa. Trong khi đó, phần lớn nhất trong khối lượng dự trữ ngoại hối tăng lên là từ FDI chứ không phải từ thặng dư thương mại. Bởi vậy, đồng nhân dân tệ đã bị đặt dưới áp lực tăng giá và quá trình này có tính t ự duy trì, đặc bi ệt kể t ừ khi c ơ ch ế c ố định tỷ giá NDT/USD được chuyển sang cơ chế cho phép tăng giá đồng nhân dân tệ từ từ so với đồng đôla từ năm 2005. Nắm giữ đồng nhân dân tệ đang có chiều hướng lên giá cũng chính là một cách đầu tư sinh lãi hiệu quả của dân chúng. Nói cách khác, nhìn nhận đồng nhân dân tệ như một hàng hóa, và thặng dư cán cân thanh toán của Trung Quốc chỉ là sự phản ánh cầu lớn hơn cung: “Nếu anh tạo ra ti ền trong trạng thái cân bằng thì lượng tiền tạo thêm này sẽ phá vỡ cân bằng đó, và dân chúng sẽ chi tiêu nhiều hơn, dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn, và khả năng là lạm phát sẽ tăng lên. Nhưng nếu anh in thêm tiền để thỏa mãn nhu cầu tăng lên về tiền của dân chúng thì s ẽ không có lạm phát nảy sinh từ việc này”, giáo sư Mundell lập luận. Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  19. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh Với hành động sterilization, Ngân hàng trung ương đã ngăn không cho cung tiền tăng lên mạnh để thỏa mãn nhu cầu về tiền của dân chúng, làm tiếp diễn tình tr ạng bất cân bằng này. Trong trạng thái cân bằng, kết quả của sự bão hòa về c ầu đ ối với đ ồng nhân dân tệ là nhu cầu hàng hóa trong nước cũng như nhập khẩu sẽ tăng lên, làm giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc với thế giới, nhất là với Mỹ. Tuy nhiên, trái với thông thường, giá cả nhiều loại hàng hóa đã giảm đi ở Trung Quốc vì các doanh nghiệp đã tăng quy mô sản xuất đón đầu lượng cầu hàng hóa mới tăng lên này mà không ph ải tăng giá bán do đã hạ được giá thành sản xuất nhờ đạt được kinh tế quy mô (economy of scale), nhờ đó vẫn giữ được biên độ lợi nhuận phù hợp. Vì thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ sẽ giảm đi nên áp lực chiến tranh thương mại với Mỹ cũng vì thế mà giảm đi. Thực tế là mặc dù ngân hàng trung ương của Trung Quốc đã thực hiện sterilization nhưng lượng cung tiền (M2) vẫn tăng 17% so với mức tăng GDP 11%. Dù vậy, l ạm phát ở Trung Quốc vẫn ở mức thấp. Hơn nữa, trong những thời điểm suy thoái nhẹ, áp l ực giảm phát đã tăng lên ở Trung Quốc. Thêm một khác biệt là tình trạng quá “nóng” c ủa kinh tế Trung Quốc không dẫn đến cầu tăng quá mạnh như với trường hợp của các nền kinh tế khác. Nói chính xác hơn thì nền kinh tế Trung Quốc vẫn phải đối mặt với vấn đề là nhu cầu trong nước ở mức yếu. Bởi vậy, khi cầu nội địa tăng lên thì họ dư sức tăng Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
  20. Tiểu luận: Tài chính quốc tế GVHD:Lê Thị Hồng Minh mạnh sản lượng và tức là tăng cung để làm bão hòa toàn bộ lượng cầu mới tăng lên này. Tóm lại, cái gọi là “bộ ba bất khả thi” hoàn toàn có thể là “bộ ba khả thi” trong một số trường hợp. Nền kinh tế Trung Quốc là một minh họa rõ nét cho hiện tượng này. 2. Thực trạng Việt Nam từ 2008 đến nay dưới tác động của lý thuyết bộ ba bất khả thi. Chính sách tỷ giá hối đoái 2.1. http://www.xe.com/currencycharts Biểu đồ 2.1: Diễn biến tỷ giá liên ngân hàng từ năm 2008 -20/3/2011 Hiện nay, ( tính đến 20/3/2011) Việt Nam đang áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết và VND được neo theo USD. Tỷ giá giữa VND so với các đồng tiền khác được quy đổi chéo giữa USD với đồng tiền đó và giữa USD với VND. a. Năm 2008 Năm 2008 được giới phân tích tài chính coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu Nhóm 4 lớp Ngân Hàng 12 –K34
nguon tai.lieu . vn