Xem mẫu
- Tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản"
Nguồn: fpe.hnue.edu.vn
Đây là phần giới thiệu một cách chi tiết toàn bộ tác phẩm "Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản". Mặc dù tác phẩm này ra đời đã khá lâu, song nó
mang rất nhiều ý nghĩa lớn lao và có những giá trị lịch sử nhất. Tác phẩm này
được coi là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự phát triển của CNXH từ không
tưởng thành khoa học. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, với tốc độ phát triển
chóng mặt của nền kinh tế tri thức, với sự phát triển không ngừng và đầy biến
động của thế giới, đã làm cho việc nghiên cứu xem xét đánh giá những giá trị
của tác phẩm này càng có ý nghĩa hơn nữa.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng ghen trình bày
trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi
giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng
Đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng
của Đảng ta. Được sự uỷ nhiệm của những người cộng sản, ngày 24 tháng 2 năm
1848, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo được
công bố trước toàn thế giới. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ địa vị đặc biệt
quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự ra đời của tác
phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao
gồm ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn là cương lĩnh chính trị của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, là kim chỉ nam hành động của toàn bộ phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là ngọn cờ
dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp
bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự
do và hạnh phúc. I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Giữa thế kỷ thứ XIX,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt tới trình độ phát triển: đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước châu Âu. Cùng với sự phát
triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bước lên vũ
đài đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ
XIX, ở một số nước tư bản phát triển, giai cấp vô sản đã vùng lên đấu tranh chống
lại giai cấp tư sản đòi thực hiện những yêu sách của mình cả về kinh tế lẫn chính
- trị. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong trào vô sản là những cuộc khởi nghĩa của
công nhân dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm 1837; cuộc nổi dậy của công nhân
dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844; phong trào hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm
(1838 - 1848). Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi
một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh
chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cuối tháng 11, đầu tháng 12
năm 1847, Đại hội lần thứ hai Liên đoàn những người cộng sản đã thảo luận và
thông qua những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do Mác và Ăng ghen trình
bày. Trên cơ sở sự nhất trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được Đại hội ủy nhiệm thảo
ra bản tuyên ngôn chính thức. Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng
là thông báo về sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa
học của chủ nghĩa Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người thực hiện được cuộc
cách mạng tư tưởng với đỉnh cao của trí tuệ khám phá và hệ thống hóa những quy
luật vận động của giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Toàn bộ thành tựu
trí tuệ của loài người được tổng kết, khái quát. II. Tư tưởng chủ yếu và nội dung
của tác phẩm Lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản khẳng định
rằng, giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng
toàn xã hội. Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu
không tổ chức thành chính đảng của giai cấp, Đảng được hình thành và phát triển
xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Quan điểm cơ bản về chủ nghĩa
duy vật lịch sử, về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô
sản, về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân được Mác và Ăngghen trình
bày rõ trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Nội dung Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày thành bốn chương. Ngoài
ra, mỗi lần xuất bản, hai ông còn viết lời tựa để thuyết minh và làm rõ hơn nội
dung tư tưởng của Tuyên ngôn (bổ sung nội dung Tuyên ngôn). Chương I: Tư
sản và vô sản 1. Sự phát triển của xã hội loài người: Lịch sử phát triển của xã hội
loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho tới nay là lịch sử đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp bóc lột.
Đến xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn thù địch với
nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nội dung cơ bản của sự vận động
của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng
lợi của chủ nghĩa cộng sản. 2. Vị trí lịch sử của giai cấp tư sản Nhờ áp dụng
những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, những công trường thủ
công được thay thế bằng những xí nghiệp hiện đại, những chủ công trường thủ
công đã trở thành những chủ xí nghiệp tức là những nhà tư sản hiện đại. Khi mới
ra đời, giai cấp tư sản là lực lượng cách mạng có một vai trò hết sức to lớn trong
lịch sử. Đại diện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất đang lên, giai cấp tư sản
đã làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp phong kiến quý tộc, giành địa vị thống trị.
Sau khi nắm được chính quyền nhà nước, giai cấp tư sản liền phá hủy những quan
hệ sản xuất phong kiến, gia trưởng, thuần phác, thiết lập hệ thống trị của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Chưa đầy
- một thế kỷ, giai cấp tư sản thống trị đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Để đáp
ứng yêu cầu của sản xuất và trao đổi, giai cấp tư sản đã thẳng tay xóa bỏ tình trạng
cát cứ, phong kiến. Trên cơ sở đó, đưa đến sự tập trung về kinh tế chính trị, hình
thành một quốc gia dân tộc thống nhất, phục vụ cho lợi ích của bản thân giai cấp
tư sản. Giai cấp tư sản thiết lập thị trường thế giới. Đồng thời, chúng buộc các dân
tộc chậm phát triển phải du nhập cái gọi là văn minh tư sản, làm nảy nở nền văn
hóa thế giới. Giai cấp tư sản đã thiết lập nền dân chủ tư sản. Tuy là nền dân chủ
cắt xén, nhưng so với chế độ quân chủ chuyên chế thì đó là một tiến bộ trong lịch
sử. Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
Đồng thời sẽ xóa bỏ tất cả những gì không phù hợp với lợi ích của bản thân giai
cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử. Chính
giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên chỉ ra cho chúng ta thấy rõ loài người có khả
năng làm được những gì. Vốn có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai
trò cách mạng của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm
đơn giản hóa giai cấp và đối kháng giai cấp mà thôi. Nó phân chia xã hội ra làm
hai phe thù địch với nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản đấu tranh nảy sinh ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Giai cấp tư
sản không những đã rèn vũ khí để giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng
vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản. 3. Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản Giai cấp vô sản hiện đại là người
có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp
hơn. Đó là điều mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã
hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định. Giai cấp vô sản là sản phẩm của
nền đại công nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp
khác đều dần dần bị phân hóa, suy tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản là lớn
lên cùng với sự phát triển của công nghiệp. Giai cấp vô sản được tuyển lựa trong
tất cả các giai cấp trong dân cư. Sự tiến bộ của đại công nghiệp còn đẩy từng bộ
phận trong giai cấp thống trị vào hàng ngũ giai cấp vô sản, bộ phận ấy cũng đem
lại cho giai cấp vô sản những yếu tố tiến bộ. Hơn nữa, khi đấu tranh chống chế độ
phong kiến, giai cấp tư sản buộc phải kêu gọi sự giúp đỡ của giai cấp vô sản, và do
đó, đã lôi cuốn giai cấp vô sản vào cuộc vận động chính trị, nghĩa là đã cung cấp
cho giai cấp vô sản những yếu tố tri thức chính trị phổ thông, những vũ khí mà sau
này giai cấp vô sản sẽ sử dụng để chống lại giai cấp tư sản. Giai cấp vô sản không
có tài sản, phải bán sức lao động cho tư sản, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của
cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường. Những người vô sản chẳng có cái gì
là của mình để bảo vệ, họ phải phá hủy hết thảy những cái gì từ trước tới nay vẫn
bảo đảm và bảo vệ cho chế độ tư hữu. Giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách
mạng, còn các giai cấp trung gian mang tính bảo thủ, hơn thế họ còn là phản động,
tìm cách làm cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại. Đoàn kết thống nhất là một
thuộc tính cơ bản của giai cấp vô sản để đấu tranh chống giai cấp tư sản. Giai cấp
vô sản luôn bị áp bức cùng cực bởi giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã không đảm
- bảo cho giai cấp vô sản những điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho họ có thể sống
được trong vòng nô lệ. Như vậy, có nghĩa là, sự tồn tại của giai cấp tư sản không
còn tương dung với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Do đó, “Sự sụp đổ của giai
cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Song, để bảo đảm
bảo cho sự thắng lợi đó, giai cấp vô sản phải có những điều kiện đảm bảo cho
công cuộc tự giải phóng mình. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm
1888, Ph.Ăngghen đã chỉ ra điều đó: “Chính do bản thân các sự biến và do những
thành bại trong cuộc đấu tranh chống tư bản - do những thất bại nhiều hơn là do
những thành công - mà công nhân không thể không cảm thấy rằng tất cả các môn
thuốc vạn ứng của họ đều vô dụng, họ không thể không đi tới chỗ nhận thấy tường
tận những điều kiện thực sự của công cuộc giải phóng giai cấp công nhân”. Điều
kiện đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu
để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Những cuộc đấu tranh
đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết thành tổ chức. Sự tổ chức như vậy
thành chính Đảng. Sự tồn tại, phát triển của Đảng vì sứ mệnh của giai cấp vô sản.
Đảng kết thúc vai trò khi sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản hoàn thành.
Trong cuộc đấu tranh, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của mình
giai cấp vô sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp, tiểu
thương, thợ thủ công, nông dân. Song, khi sắp rơi vào hàng ngũ vô sản họ đã tự
nguyện từ bỏ quan điểm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản,
bảo vệ lợi ích tương lai của họ. Hơn nữa, khi cuộc đấu tranh giai cấp tiến gần tới
giờ quyết định, giai cấp thống trị bị phân hóa, một bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai
cấp này đi theo giai cấp vô sản. Đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản vươn lên
nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ cuộc vận động. Thực tiễn đó đã khẳng định
rằng, các tầng lớp trung gian và cả giai cấp thống trị (tầng lớp) trên của xã hội
cũng có thể từ bỏ lập trường giai cấp của mình để tham gia hàng ngũ của giai cấp
vô sản. Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản Chương này
C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày tính tiên phong của Đảng Cộng sản, mối quan hệ
giữa Đảng Cộng sản và giai cấp, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội
khoa học, một số nguyên lý chiến lược, sách lược cách mạng. 1. Tính tiên phong
của Đảng Sự trưởng thành của giai cấp vô sản được đánh dấu bằng sự ra đời của
Đảng Cộng sản. Song, Đảng Cộng sản khác với toàn bộ giai cấp vô sản ở tính tiên
phong. Tính tiên phong của Đảng thể hiện: tiên phong trong hành động thực tiễn,
tiên phong về mặt lý luận. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trình bày: những
người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các
nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ
phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và
kết quả chung của phong trào vô sản. Vai trò tiên phong của Đảng đảm bảo cho
Đảng tập hợp được giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện đảm bảo
cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Nhưng Đảng Cộng
sản không phải là một đảng riêng biệt, Đảng là một bộ phận gắn liền với giai cấp.
Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp: “Họ tuyệt nhiên không có một lợi
ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”. Mục đích của Đảng là mục
- đích của giai cấp, Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Kết
quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra đời của chính Đảng mà còn biểu
hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ
trước hết của Đảng là: Giai đoạn thứ nhất, tổ chức những người vô sản thành giai
cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền;
giai đoạn thứ hai, dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn
bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công nhân sản xuất
vào trong tay nhà nước. Mác - Ăngghen đã định nghĩa: Nhà nước tức là giai cấp
vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị. Với tư cách là giai cấp thống trị, giai
cấp vô sản dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ; đồng thời tiêu diệt những
điều kiện của sự đối kháng giai cấp. Nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng
tiêu diệt cả sự thống trị của chính ngay giai cấp mình. Giai cấp vô sản không cố
chấp về quyền lợi, về vai trò tồn tại của mình. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô
sản để đưa đến xóa bỏ giai cấp và xóa bỏ mình. Đó là giai đoạn cao của chủ nghĩa
cộng sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hình thành. Đảng không còn tồn
tại cùng với sự mất đi của các giai cấp là tất yếu khách quan. 2. Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học Để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa
cộng sản của giai cấp tư sản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định và
bảo vệ một loạt những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Lý luận của
những người cộng sản là sự phản ánh hiện thực khách quan của phong trào vô sản.
Tuyên ngôn đã khẳng định: “lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không
dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát
minh hay phát hiện ra”. Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát những điều
kiện thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một phong trào lịch sử
đang diễn ra. - Vấn đề sở hữu: Lý luận của người cộng sản là xóa bỏ sở hữu tư
bản, xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản. Giai cấp tư sản xuyên tạc rằng, người cộng sản
xóa bỏ cái riêng của cá nhân. Tư bản không phải là lực lượng cá nhân, nó là một
lực lượng xã hội, nhưng nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động chung
của toàn xã hội. Người sở hữu thì không lao động, người lao động thì không được
quyền sở hữu, xã hội vận động trong hai cực đối lập ấy, chỉ có xóa bỏ chế độ tư
hữu mới giải quyết được sự đối lập trong xã hội. - Vấn đề tự do cá nhân: Mác và
Ăngghen khẳng định rằng, trong xã hội tư bản chỉ có nhà tư sản có tính đối lập và
cá tính, còn cá nhân người lao động thì mất độc lập và cá tính. Do đó, phải xóa bỏ
cá tính tư sản, tính độc lập tư sản, và tự do tư sản, thứ tự do buôn bán và bóc lột
sức lao động của người khác để hình thành xã hội mới trong đó sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. - Chế độ
gia đình: Người cộng sản chủ trương xóa bỏ gia đình tư sản, khi chế độ tư bản bị
xóa bỏ thì quan hệ gia đình tư sản cũng tiêu tan. Bởi vì quan hệ gia đình tư sản
dựa trên tư bản, lợi nhuận cá nhân nhà tư sản, người phụ nữ coi như một công cụ
sản xuất, dựa trên chế độ cộng thể, nạn mãi dâm chính thức và không chính thức.
Tư sản đã chà đạp mối liên hệ gắn bó người vô sản với gia đình. - Vấn đề giáo
dục: Người cộng sản không bịa ra tác động của xã hội đối với giáo dục vì nó là cái
vốn sẵn có mà chỉ thay đổi tính chất của sự tác động ấy và kéo giáo dục ra khỏi
- ảnh hưởng của giai cấp tư sản mà thôi. - Vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế: Dưới
chủ nghĩa tư bản, người cộng sản không có tổ quốc, giai cấp tư sản nắm quyền đại
diện cho tổ quốc, dân tộc, lợi ích của tổ quốc và dân tộc mà cơ bản là lợi ích của
giai cấp tư sản cho nên giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính
quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân
tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa mà giai cấp tư sản hiểu. - Vấn đề tôn
giáo: Giai cấp nào thống trị xã hội thì quan điểm, ý thức tư tưởng của xã hội là của
giai cấp đó. Dưới chủ nghĩa tư bản, những tư tưởng về tự do tín ngưỡng, tự do tôn
giáo chẳng qua chỉ nói lên thời kỳ cạnh tranh tự do trong lĩnh vực tri thức mà thôi.
“Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ
sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến
trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế
thừa của quá khứ”. 3. Những nguyên lý chiến lược và sách lược của Đảng - Cách
mạng phát triển qua hai giai đoạn: Giai đoạn l: Xây dựng giai cấp vô sản thành
giai cấp thống trị, giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền. Con đường giành
chính quyền bằng bạo lực. Giai đoạn 2: Giai cấp vô sản sử dụng quyền lực chính
trị của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, tước đoạt kẻ đi tước đoạt.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn nêu mười biện pháp cụ thể mà Mác -
Ăngghen cho rằng có thể áp dụng ở những nước tư bản phát triển nhất lúc bấy giờ
nhằm cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Mười biện pháp đó thể hiện chuyên
chính trong hành động. - Vấn đề chính quyền nhà nước. Chính quyền nhà nước là
vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
C.Mác và Ph. Ăngghen chưa dùng đến thuật ngữ chuyên chính vô sản nhưng tư
tưởng về chuyên chính vô sản đã được hai ông diễn đạt một cách rõ ràng như:
“Giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”; “Giai cấp vô sản đã được tổ chức thành
giai cấp thống trị”. Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời là sự cáo chung đối với tất cả các
trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản trước đó. Các trào lưu xã hội chủ nghĩa xuất
hiện như là một tất yếu lịch sử. Tuyên ngôn xác định thái độ cụ thể với từng trào
lưu: Phê phán các trào lưu xã hội chủ nghĩa phản động của phong kiến tiểu tư sản.
Tuyên ngôn dành sự đánh giá thích đáng chủ nghĩa xã hội. Tất cả các trào lưu xã
hội chủ nghĩa phi vô sản đều là trở ngại cho việc ra đời của chính Đảng. Tuyên
ngôn phê phán những trào lưu đó nhằm bảo đảm thắng lợi cho việc truyền bá học
thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Chương IV: Thái
độ của những người cộng sản đối với các đảng độc lập Chương này khẳng định
lập trường kiên định của Đảng Cộng sản về những vấn đề chiến lược và sách lược
mềm dẻo của Đảng. Nguyên tắc có ý nghĩa chiến lược của người cộng sản là:
Chiến đấu cho mục đích trước mắt của giai cấp vô sản, nhưng đồng thời trong
phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào. Xuất
phát từ thực tế lịch sử của nước Đức và một số nước ở Châu Âu lúc đó, những
mục đích và lợi ích trước mắt của giai cấp vô sản bấy giờ là đấu tranh đánh đổ chế
độ quân chủ chuyên chế thực hiện quyền tự do dân chủ; còn tương lai của phong
trào là đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Ở tất cả các
- nước, những người cộng sản ủng hộ mọi phong trào cách mạng, và trong những
phong trào ấy, họ vẫn đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của
phong trào. Trong khi liên hợp với các đảng phái để chống lại thế lực phản động
đang thống trị, Đảng Cộng sản xác định rằng: giành độc lập, liên minh nhưng phải
có đấu tranh, có thỏa hiệp. Tất nhiên bao giờ Đảng cũng phải giữ vững nguyên tắc
và giữ vững lập trường của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản tuyên bố quan
điểm cách mạng không ngừng, mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách
dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. Trong cuộc cách mạng ấy,
những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Trong
cuộc cách mạng, họ giành cả thế giới cho mình. “Vô sản tất cả các nước đoàn kết
lại”, là khẩu hiệu chiến đấu công khai tuyên bố quá trình quốc tế của phong trào
vô sản. III- Ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là
tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C
.Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử
thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn
đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời. Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và
xây dựng Đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng
Đảng của Đảng ta. - Về vai trò của Đảng: Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đều
khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu trong tất cả các giai đoạn cách mạng. -
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản chất giai
cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng để bảo đảm
cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo. - Sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai
cấp - tư tưởng này làm cơ sở cho những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi
của Đảng. - Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận
bản chất lập trường quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những
kết luận đó vận dụng trong công tác phát triển Đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được
chủ nghĩa thành phần. Những tư tưởng quan điểm về xây dựng Đảng trong Tuyên
ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.
nguon tai.lieu . vn