Xem mẫu

  1. SỰ THAY ĐỔI CỦA ĐƯỜNG CONG SPEE TRONG GIAI ĐOẠN BỘ RĂNG SỮA Ở TRẺ EM TỪ 3 ĐẾN 5 TUỔI TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định hình thể cung răng sữa dưới ở trẻ 5 tuổi khi chiếu trên mặt phẳng dọc giữa và đánh giá sự thay đổi đặc điểm hình thái đường cong Spee trong giai đoạn bộ răng sữa từ 3 đến 5 tuổi. Phương pháp: Với mô thức nghiên cứu dọc, mẫu nghiên cứu gồm 33 trẻ (17 nam và 16 nữ) có bộ răng sữa lành mạnh và đầy đủ 20 răng được theo dõi liên tục từ 3 đến 5 tuổi. Tọa độ các đỉnh múi và bờ cắn răng cửa được qui về hệ trục tọa độ Descartes dựa theo vị trí tương đối của chúng trong không gian và được sử dụng để xác định hình ảnh mặt phẳng nhai của cung răng sữa dưới trên mặt phẳng dọc giữa. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy đường cong Spee thật sự tồn tại ở bộ răng sữa trong suốt giai đoạn từ 3 đến 5 tuổi. Tuy nhiên, có những thay đổi về đặc điểm hình thái của đường cong Spee theo thời gian là: độ sâu của
  2. đường cong Spee giảm (p < 10-4) và bán kính của đường cong Spee tăng (p < 0,005) có ý nghĩa từ 3 đến 5 tuổi. Kết luận: Không có sự khác biệt có ý nghĩa về các trị của đường cong Spee giữa trẻ nam và nữ, cũng như giữa bên phải và bên trái cung răng. ABSTRACT The objective of this study aimed at determining the shape of the deciduous lower dental arch in 5 year-old-children as it is projected on the median sagittal plane and comparing the morphologic characteristics of the curve of Spee in children from 3 to 5 years old. Method: With the longitudinal study design, the sample consisted of 33 children (17 boys and 16 girls) having sound and complete dentition. The 3-dimensional coordinates of vestibular cusp tips and incisor edges were obtained using a measuring device and computer technology. Results: The curve of Spee could be measured in the deciduous dentition of children from 3 to 5 years old. It showed some modifications with time, with increasing curve radins (from 55.924mm at 3 years of age to 63.074mm at 5 years of age, p < 0.005) and decreasing depth curve (from 0.380mm, p < 10-4). 0.399mm to 0.920 1.105
  3. Conclusion: There was no significant difference of the values of the curve of Spee between male and female, right and left side. ĐẶT VẤN ĐỀ Khi xem xét kỹ sự sắp xếp của các răng trên cung hàm, người ta thấy chúng không phải là một tập hợp ngẫu nhiên mà tuân theo những qui luật nhất định. Sự sắp xếp tinh tế về hình thái của các răng trên cung hàm là một trong những yếu tố hàng đầu mang lại sự hài hòa về chức năng cho toàn bộ hệ thống nhai. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, đã xuất hiện những tác giả đầu tiên nhận xét về hình dạng cung răng: Bonwill (1885), Broomell (1902) và Hawley (1905)... theo đó, các cung răng đã được qui xấp xỉ với những đường cong hình học như cung tròn, ellipse, parabole, hyperbole... Đặc biệt năm 1890, lần đầu tiên hình ảnh cung răng khi nhìn từ phía bên tạo thành một đường cong lõm được Von Spee(32) mô tả. Sự phát hiện đường cong này đã đưa việc nghiên cứu bộ răng người sang một giai đoạn mới: giai đoạn nghiên cứu về giải phẫu chức năng của bộ răng trong hệ thống nhai như một thể thống nhất. Tiếp theo Spee, Wilson (1917) đã mô tả hình ảnh đường cong cắn khớp trong mặt phẳng đứng ngang và Monson (1920) cho rằng mặt nhai của các răng dưới thích ứng với một chỏm cầu bán kính 4 inches.
  4. Đã có rất nhiều nghiên cứu về đặc điểm hình thái của mặt phẳng nhai của cung răng vĩnh viễn ở người trưởng thành, nhiều giả thuyết được đề nghị lý giải cho sự hình thành và thay đổi của các đường cong cắn khớp của bộ răng vĩnh viễn trong suốt đời sống. Kết quả của các nghiên cứu này đã đóng vai trò nền tảng lý luận căn bản để giải quyết các vấn đề trong nha khoa. Tuy nhiên, đối với bộ răng sữa hầu hết các tác giả đều cho rằng mặt phẳng nhai của cung răng sữa là một mặt phẳng chứ không phải là một mặt cong như ở bộ răng vĩnh viễn. Hình 1: Mặt phẳng nhai cung răng dưới. Nghiên cứu năm 2001 của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên khẳng định sự tồn tại của đường cong Spee ở cung răng sữa dưới của trẻ 3 tuổi với các giá trị đặc trưng cơ bản được đo đạc định lượng cụ thể. Đường cong này đã thay đổi như thế nào, có trở thành đường thẳng do đặc điểm mòn răng khá nhanh ở bộ răng sữa hay không? Đó chính là mục tiêu của nghiên cứu tiếp theo này của chúng tôi.
  5. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Xác định đặc điểm hình thái đường rìa cắn - đỉnh múi ngoài của cung răng sữa dưới ở trẻ 5 tuổi trên mặt phẳng dọc giữa. Đánh giá sự thay đổi các đặc điểm hình thái đường cong Spee trong giai đoạn bộ răng sữa từ 3 đến 5 tuổi. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mô thức nghiên cứu: là một nghiên cứu dọc thuần túy trên một nhóm trẻ nhất định được theo dõi liên tục từ 3 đến 5 tuổi, các dữ liệu được thu thập lần thứ nhất lúc 3 tuổi và lần thứ nhì lúc 5 tuổi. Mẫu nghiên cứu gồm 33 mẫu hàm dưới “lý tưởng” (17 nam và 16 nữ) được chọn từ 287 mẫu hàm của trẻ em tham gia chương trình “Theo dõi và chăm sóc răng miệng đặc biệt trong 15 năm (1996 – 2010)” do Bộ Y tế quản lý được thực hiện tại khoa RHM Trường ĐH Y DƯỢC TP HCM. Đối tượng nghiên cứu được chọn theo các tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn chung: Có cha mẹ, ông bà nội ngoại là người VN, dân tộc Kinh; Tổng trạng sức khỏe bình thường; Không có chấn thương hàm mặt, dị hình do bệnh lý hoặc các thói quen; Không có sự bất hài hòa của mặt.
  6. Tiêu chuẩn: “Bộ răng lành mạnh”và bình thường về mặt hình thái học: Có bộ răng đầy đủ 20 răng sữa. Không có răng sâu, răng trám. Không có răng bị lệch lạc, mọc sai chỗ. Không bị thiếu hoặc thừa răng bẩm sinh. Các mẫu hàm được lấy dấu bằng Alginate và đổ bằng thạch cao cứng trong vòng 3 phút kể từ khi lấy dấu ra khỏi miệng. Phương pháp nghiên cứu Dụng cụ: Thước trượt điện tử có độ chính xác đến 0,01mm. Mâm định hướng: điều chỉnh mặt phẳng chuẩn song song với sàn nhà. Một song song kế hiệu NEY (Ney surveyor) được gắn với một đồng hồ đo độ cao, có độ chính xác đến 0,01mm. Kỹ thuật đo đạc Bước 1: Chọn các điểm mốc và điểm mốc chuẩn - Các điểm mốc được chọn là: Góc cắn gần và góc cắn xa cho các răng cửa, đỉnh múi răng nanh, các đỉnh múi ngoài của các răng cối sữa. - Ba điểm mốc chuẩn: đỉnh múi răng nanh bên phải (R83), đỉnh múi xa của các răng cối sữa II (R75, 85). - Ba điểm mốc chuẩn xác định mặt phẳng chuẩn cho mỗi mẫu hàm.
  7. Bước 2: Định vị mặt phẳng chuẩn song song với sàn nhà. Dùng mâm định hướng để điều chỉnh sao cho 3 điểm mốc chuẩn có c ùng một độ cao (h) và chỉnh cho h = 0. Bước 3: Đo đạc các kích thước tại mỗi điểm mốc: ba kích thước - Chiều cao: Từ điểm mốc đến mặt phẳng chuẩn(có thể âm hoặc dương). - Khoảng cách từ điểm mốc đến điểm mốc chuẩn phía sau bên phải. - Khoảng cách từ điểm mốc đến điểm mốc chuẩn phía sau bên trái. Như vậy: Chúng tôi có được tọa độ tương đối của các điểm mốc so với 3 điểm mốc chuẩn, từ đó quy về hệ trục tọa độ Descartes (phương pháp này do Hoàng Tử Hùng đề nghị năm 1994). Xử lý số liệu: Dùng phần mềm SPSS 7.5 để xử lý thống kê các số liệu thu thập, trình bày các đặc trưng thống kê cơ bản (số trung bình, độ lệch chuẩn…). Sử dụng phép kiểm định Mann-Whitney để so sánh các đặc điểm nghiên cứu giữa 2 bên phải và trái, giữa nam và nữ. Sử dụng phép kiểm định t và Wilcoxon để so sánh dọc các đặc điểm nghiên cứu từ 3 đến 5 tuổi. Dùng
  8. phần mềm Matlab 6.0 để xây dựng và vẽ đồ thị phương trình đường hồi qui biểu diễn hình ảnh cung răng sữa dưới trên mặt phẳng dọc giữa. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm hình thái đường rìa cắn – đỉnh múi ngoài cung răng sữa dưới ở trẻ 5 tuổi Kết quả tọa độ trung bình các điểm mốc của đường rìa cắn – đỉnh múi ngòai cung răng sữa dưới ở trẻ 5 tuổi theo 3 chiều trong không gian được trình bày ở Bảng 1. Từ kết quả trên, chúng tôi xây dựng và vẽ phương trình đường hồi qui của cung răng sữa dưới trên mặt phẳng dọc giữa. Đồ thị 1: Hình chiếu cung răng sữa dưới của Nam trên mặt phẳng dọc giữa với các đám mây vân điểm ở từng điểm mốc (chung cho Phải và Trái)
  9. Đồ thị 2: Hình chiếu cung răng sữa dưới của Nữ trên mặt phẳng dọc giữa với các đám mây vân điểm ở từng điểm mốc (chung cho Phải và Trái) Đồ thị 3: Hình chiếu cung răng sữa dưới trên mặt phẳng dọc giữa với các đám mây vân điểm ở từng điểm mốc (chung cho Nam và Nữ, Phải và Trái) Qua các đồ thị 1, 2, 3, hình ảnh cung răng sữa dưới ở trẻ 5 tuổi trên mặt phẳng dọc giữa vẫn là một đường cong lõm lên trên, bắt đầu từ đỉnh múi
  10. răng nanh đến đỉnh múi xa răng cối sữa II với điểm sâu nhất của đường cong nằm ở đỉnh múi xa – ngoài của răng cối sữa I, đoạn răng cửa không thuộc đường cong này. Như vậy, đường cong Spee vẫn hiện diện ở cung răng sữa dưới của trẻ 5 tuổi. Về mặt hình thái, không có sự khác biệt có ý nghĩa về các đặc trưng của đường cong Spee gồm độ sâu của đường cong Spee và độ dài của dây chắn cung (tức khoảng cách từ đỉnh múi nhọn răng nanh đến đỉnh múi xa của răng cối sữa II) giữa bên phải và bên trái cung răng (Bảng 2) cũng như giữa nam và nữ (Bảng 3). Kết quả này tương tự như kết quả của đường cong Spee ở trẻ 3 tuổi. Bảng 1: So sánh sự khác biệt giữa 2 bên phải và trái cung răng về độ sâu trung bình của đường cong Spee và độ dài dây chắn cung. Phải Trái Mann-Whitney test ĐL ĐL TB TB U p C C
  11. Phải Trái Mann-Whitney test ĐL ĐL TB TB U p C C Đ - 0,39 - 0,36 454, 0,24 ộ sâu 0,985 3 0,856 2 5 8 đường cong Spee Đ 19,2 1,25 19,2 1,34 540 0,95 ộ dài 81 1 12 6 4 dây chắn cung Bảng 2: So sánh sự khác biệt giữa Nam và Nữ về độ sâu trung bình của đường cong Spee và độ dài dây chắn cung.
  12. Nam Nữ Mann- Whitney test TB TB U p ĐL ĐL C C Đ - 0,42 - 0,32 51 0,71 ộ sâu 0,941 9 0,898 6 5 5 đường cong Spee Đ 19,32 1,32 19,16 1,26 48 0,47 ộ dài 1 4 7 9 8 2 dây chắn cung Bằng phương pháp hồi qui qua các điểm mốc từ đỉnh múi nhọn răng nanh đến đỉnh múi xa của răng cối sữa II, chúng tôi tính được bán kính
  13. đường tròn nhận đường cong Spee làm một cung. Tuy nhiên, vì giá trị thật của bán kính đường cong Spee ở từng cá thể biến thiên khá lớn, nên chúng tôi đã dùng phương pháp lấy Ln (bán kính đường cong Spee) để tính giá trị trung bình của bán kính đường cong Spee cho mẫu nghiên cứu. Bán kính đường cong Spee của nửa cung răng bên phải (tính chung cả nam và nữ): R = 67,627 mm, với hệ số biến thiên = 11,05%. Bán kính đường cong Spee của nửa cung răng bên trái (tính chung cả nam và nữ): R = 58,850 mm, với hệ số biến thiên = 10,20%. Bán kính đường cong Spee của trẻ 5 tuổi (tính chung cho cả phải- trái, nam và nữ): R = 63,055 mm, với hệ số biến thiên = 10,73%. Đánh giá sự thay đổi đặc điểm hình thái của đường cong Spee trong giai đoạn bộ răng sữa từ 3 đến 5 tuổi Để mô tả những thay đổi của đường cong Spee trong giai đoạn từ 3 đến 5 tuổi, chúng tôi chọn các giá trị đặc trưng cơ bản gồm độ sâu và độ dài
  14. dây chắn cung và dùng kiểm định t cặp đôi hoặc Wilcoxon để so sánh (bảng 3). Bảng 3: So sánh sự khác biệt các giá trị đặc trưng của đường cong Spee giữa trẻ 3 và 5 tuổi. 3 tuổi 5 tuổi Khác t test W biệt test TB TB t p z ĐLC ĐLC Độ -1,105 0,399 -0,920 0,380 0,185 - < 5,510 10-4 sâu đ/c Spee Độ 19,249 1,131 19,246 1,290 - - dài d/c 0,003 0,086 cung
  15. Kết quả của bảng 6 cho thấy ở bộ răng sữa sau hai năm thực hiện chức năng từ 3 đến 5 tuổi, đường cong Spee của cung răng sữa dưới đã có những thay đổi nhất định: - Độ sâu đường cong Spee giảm từ 1,105mm xuống 0,920 mm, rất có 10-4). ý nghĩa thống kê (p - Nhưng độ dài dây chắn cung gần như không thay đổi (3 tuổi=19, 249; 5tuổi=19, 246 mm). Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Quỳnh Lan 2001(4) về kích thước cung sữa trong giai đoạn từ 3 đến 5,5 tuổi: chiều dài cung răng gần như không thay đổi hoặc giảm nhẹ. - Bán kính đường cong Spee: do độ dài dây chắn cung gần như không thay đổi, nhưng lại có sự giảm có ý nghĩa về độ sâu, nên bán kính đường cong Spee tăng có ý nghĩa ở trẻ 5 tuổi (từ 55,924mm lên 63,074mm, độ chênh lệch là 7,150 mm với P = 0,001).
  16. Đồ thị 4: Đường cong Spee của cung răng sữa dưới ở trẻ 3 tuổi (đen) và 5 tuổi (đỏ) Đồ thị hình 4: Cho thấy đường cong Spee của trẻ 5 tuổi nằm phía trên đường cong của trẻ 3 tuổi, tức là đường cong Spee của trẻ 5 tuổi cạn hơn so với trẻ 3 tuổi. Như vậy hình ảnh đường cong Spee của cung răng sữa đã thay đổi có ý nghĩa trong khỏang thời gian từ 3 đến 5 tuổi với xu hướng ngày càng phẳng hơn. Cho đến nay, trong y văn thế giới các nghiên cứu định lượng về đường cong cắn khớp hiện có chỉ xem xét cung ở răng vĩnh viễn, không có một nghiên cứu hay phân tích nào mô tả đặc điểm đường cong Spee của bộ răng sữa, vì vậy chúng tôi không thể so sánh được.
  17. Trong một nghiên cứu dọc về đường cong Spee của bộ răng vĩnh viễn, Ferrarrio (1999)(13) cũng nhận thấy có sự thay đổi có ý nghĩa của đường cong cắn khớp giữa trẻ thiếu niên (từ 12-14 tuổi) và người trưởng thành (19-22 tuổi). Bán kính đường cong Spee của trẻ thiếu niên là 80mm, khác biệt 20mm so với người trưởng thành (101mm), xu hướng thay đổi của đường cong Spee cũng là ngày càng trở nên phẳng hơn. Theo tác giả, hai nhóm nghiên cứu đều ở giai đoạn”bắt đầu”và tương đối ổn định của bộ răng vĩnh viễn (răng cối lớn II đã mọc và ăn khớp nhau), trước khi có sự mòn răng diễn ra. Vì vậy, sự thay đổi có ý nghĩa về bán kính đường cong Spee ở đây được giải thích là do sự xoay từ từ trục chính của các răng theo hướng lực tác động theo chiều ngang (do trục răng nghiêng theo chiều ngoài-trong) và chiều trước sau (do trục răng nghiêng gần), làm thay đổi dần độ cong của mặt phẳng nhai như một hàm số theo tuổi (dựa theo lý thuyết của Harris)(14). Trong nghiên cứu này của chúng tôi: nhóm 3 tuổi là thời điểm bắt đầu của bộ răng sữa với đầy đủ tất cả các răng trên cung hàm, khớp cắn được thiết lập, khoảng thời gian từ 3 đến 5 tuổi là thời kỳ của bộ răng sữa thuần túy nhưng lại đi đôi với quá trình tăng trưởng và phát triển liên tục của hệ thống sọ-mặt theo đa hướng, nhóm 5 tuổi với đặc điểm của bộ răng sữa đã và đang thực hiện chức năng qua một thời gian và diễn ra một số những thay đổi như:
  18. - Cung hàm để chứa răng dài ra, nhưng cung răng có xu hướng ngắn lại. - Cung hàm rộng ra theo chiều ngang, cung răng có xu hướng tăng kích thước theo chiều ngang, đặc biệt là vùng răng nanh. - Quan hệ giữa hai hàm thay đổi, vừa do sự thay đổi kích thước và hướng tăng trưởng của hai hàm, vừa do sự mòn men mặt nhai khá nhanh của các răng sữa, các răng cửa trên và dưới có xu hướng tiến đến cắn đối đầu. - Sự di gần sớm của các răng sữa có thể làm thay đổi tương quan của các răng cối sữa. Như vậy, việc giảm độ sâu của đường cong Spee và tăng bán kính ở đây có thể do nhiều yếu tố tác động chứ không đơn thuần là do xoay từ từ trục chính của răng như kết luận của Ferrarrio về sự thay đổi bán kính đường cong Spee ở trẻ thiếu niên và người trưởng thành. Cần có những nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu mối tương quan giữa đường cong Spee của bộ răng sữa với các thành phần khác của hệ thống nhai cũng như ảnh hưởng của tất cả các thành phần của hệ thống nhai tác động lên đường cong Spee của bộ răng sữa trong quá trình phát triển của hệ thống sọ –mặt và cung răng của trẻ ở giai đoạn bộ răng sữa thuần túy từ 3 đến 5 tuổi.
  19. Có nhiều giả thuyết lý giải cho quá trình hình thành đường cong Spee(16,20)…, nhưng đến nay vẫn chưa có giả thuyết nào được chứng minh bằng số liệu cụ thể dù ngay cả trên bộ răng vĩnh viễn đã được nghiên cứu rất nhiều. Giả thuyết của Enlow(9) cho rằng đường cong Spee là một sự tự điều chỉnh để bù trừ cho các rối loạn của các răng trước trong quá trình phát triển của hệ thống Sọ – Hàm – Mặt là một trong những giả thuyết được đa số các tác giả chấp nhận về sự sắp xếp hình thái mang ý nghĩa chức năng của bộ răng người. Bảng 4: Kết quả về tọa độ trung bình các điểm mốc đo theo 3 chiều trong không gian chung cho Nam và Nữ
nguon tai.lieu . vn