Xem mẫu

  1. sự SUY GIẢM SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÕ HÀ NỘI DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CỔNG NGHIỆP HÓA- ĐỠ THỊ HÓA • • • P han Thi Ngoe' Tóm tắt: Ở tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam , đất nông nghiệp là tài sản quý giá nhất, nguồn lực quyết định để người nông dân tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt Nam , mà cụ thể là ở khu vực ven đô Hà Nội trong hơn hai thập kỷ vừa qua đã kèm theo quá trình chuyển đổi diện tích rất lớn đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp để phục vụ các mục tiêu phát triển, làm cho diện tích đất nông nghiệp tính trên đầu người và quy mô ruộng đất ở các làng giảm đi nhanh chóng, đồng nghĩa với vị trí nền tảng của nền nông nghiệp bị mất dần và tỷ trọng của nó ngày càng bị thu hẹp. Câu hỏi đặt ra là, trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp còn lại ít ỏi, bị xen ghép với các hoạt động sinh kế khác và hệ thống thủy lợi không còn hoạt động thì người nông dân sẽ duy trì hoạt động canh tác nốn% nghiệp như thế nào, sự biến đổi của "nghề nông" ở các vùng ra sao và đối tượng duy trì làm nghề nông là những ai? Một số vấn đề sẽ được luận giải qua trường hợp nghiên cứu một làng ven đô cụ thể của Hà Nội. Từ khóa: Vùng ven đô, thu hồi đất, nông nghiệp ven đô, sinh kế. 1. MỞ ĐẨU Ở m ột quốc gia nông nghiệp n h ư Việt N am , đ ất nô n g n gh iệp là tài sản quý giá nhất, n g u ồ n lực quyết định để người n ô n g d ân tồn tại và p h át triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa ở Việt N am nói chung, k h u vực các làng ven đô Hà Nội nói riêng (cụ thể là làng Gia Trung, h u y ện Mê Linh, th àn h phố H à Nội) trong kh oảng hai thập kỷ vừa qua đã kèm theo quá trình chuyển đổi diện tích rất lớn đất nông nghiệp để phục vụ m ục tiêu xây dự ng các k hu công nghiệp, khu đô thị và các hoạt động phi nông nghiệp khác. Dẫn đ ến diện tích * Bảo tàng Nhân học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN.
  2. s ự S U Y GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI... 213 đất nông nghiệp tính trên đ ầu người và quy mô ru ộng đ ất ở các làng giảm n h an h chóng, đồng nghĩa với vị trí nền tảng của sản xuất nông nghiệp bị m ất dần và tỷ trọ n g ngày càng bị thu hẹp. Điều này hàm nghĩa, dưới sự thúc đẩy của quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa, nền nông nghiệp ven đô - p h ư ơ n g thức sinh kế truyền thống của người nông dân sẽ ngày càng bị biến đổi và suy giảm. Tùy theo vị trí và năng lực tự thân m à người n ô n g d â n chuyển sang làm nhiều loại hình sinh kế mới (công nhân, kinh d o an h nhà trọ, buôn bán dịch vụ v.v), trong khi còn m ột bộ p h ận nông d ân vẫn d uy trì và bám lấy nghề nông như một ph ư ơ n g thức m ưu sinh "không dễ từ bỏ". Câu hỏi đặt ra là, trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp còn lại ít ỏi, bị xen ghép với các hoạt động sinh kế khác và hệ thống thủy lợi không còn hoạt động thì người nông d ân sẽ duy trì hoạt động canh tác nông nghiệp n h ư thế nào, sự biến đổi của "nghề nông" ra sao và đối tượng d u y trì làm nghề n ô n g là n h ữ n g ai? Báo cáo này m ong m uốn khảo sát n h ữ n g biến đổi của hoạt động sản xuất nông nghiệp, của nghề nông trong chiến lược sinh kế với tham chiếu là n h ữ n g người nông dân sống ở các làng ven đô Hà Nội qua vấn đề nghiên cứu "Sự su y giảm sản xuất nồng nghiệp ở một làng ven đô Hà Nội dưới tác động của công nghiệp hóa - đô thị hóa". 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ KHẮI NIỆM 2.1. Tinh hình nghiên cứu Cho đ ến nay, tầm quan trọng của đất nông nghiệp và nhữ n g biến đổi của đất nông nghiệp đã được đề cập trong các nghiên cứu của nhiều tác giả khác n h au trên thế giới. Lungisile N tsebeza (2010) qua n gh iên cứu "Land and Livelihoods in rural South Aírica: W hat prospects for agricultural activities" chỉ ra rằng, N am Phi cho đ ến nay là ví d ụ rõ ràng n h ất cho việc diễn ra quá trình thu hồi đất đai. Trong nh ữ n g th ập kỷ đầu của thế kỷ XX, ở đất nước này, hơn 90% đ ất đai của d ân bản địa bị cưỡng chế thu hồi, làm giảm số lượng lớn nông dân. N h ữ n g người còn lại tro n g k hu vực nông thôn đã buộc phải dựa vào các h o ạt động phi n ô n g nghiệp chủ yếu dưới h ìn h thức tiền gửi
  3. 214 Phan Thị Ngọc từ n h ữ n g lao động di cư m ang lại. Tinh trạn g thiếu đất sản xuất là tác n h ân ngăn cản sự ngư n g trệ của sản xuất n ô n g nghiệp, d ẫn đến hiện tượng di cư ồ ạt đ ến các khu vực đô thị. Vai trò của đ ất n h ư m ột chiến lược sinh kế của người n ô n g dân ngày càng ít quan trọng. Sự suy giảm giá trị của đất cũng được n h ìn thấy trong bản chất và h ìn h thức tổ chức và đấu tranh chống lại chế độ thực d ân và phân biệt chủng tộc ở N am Phi. N ăm 1994, N am Phi bắt tay vào chư ơ ng trình cải cách ru ộng đất, về m ặt lý thuyết, nó tạo ra m ột tình h u ố n g để người da đen - nh ữ n g người trước đây đã chán n ản các hoạt động n ô n g nghiệp, bây giờ có thể tiếp cập được đất đai, tạo cơ hội sinh kế cho h àn g triệu người đang sinh sống tại các vùng nông thôn. Tuy n h iên trong lời kết bài báo, tác giả đưa ra cảnh báo: cải cách ruộng đ ất ở N am Phi kh ô n g phải là thuốc chữa bách b ện h cho vấn đề thất nghiệp trước sự bất lực trong việc giải quyết việc làm ở khu vực đô thị. Dưới m ột góc n h ìn khác, nghiên cứu "Land, íarm ing, livelihoods and poverty: R ethinking the links in the ru ral South, Jonathan Rigg (2009) lại chỉ ra xu h ư ớng p h át triển hiện nay của sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn p h ư ơ n g N am , đó là cuộc sống và sinh kế của người nông d ân ở nông th ô n phư ơng N am ngày càng tách rời khỏi đ ất đai và nông nghiệp. Theo tác giả, sinh kế ở nhiều nơi và của nhiều hộ gia đình ở nông thôn p h ư ơ n g N am từ trước đến n ay chủ yếu p h ụ thuộc vào nông nghiệp sản xuất nhỏ. Tuy nhiên, trong vài thập thập kỷ trở lại đây, các hoạt động phi nông nghiệp ngày càng giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế và đời sống người n ô n g dân. M inh chứng mà nghiên cứu đưa ra là n h ữ n g kinh nghiệm lịch sử trong sự biến đổi của nông nghiệp ở N hật Bản, Đài Loan và H àn Q uốc, nơi cảnh quan nông thôn đã được chuyển hóa sâu sắc trong 30 hay 40 năm trước. Ngoài ra, Tổ chức Lương thực và N ông nghiệp Liên H ợp Quốc (FAO) trong n h ữ n g năm vừa qua đã tổ chức n hiều chương trình nghiên cứu về nông nghiệp, n h ất là nông nghiệp ven đô ở n hiều kh u vực trên thế giới thông qua các nghiên cứu trường hợp, nhằm cung cấp chính sách và hỗ trợ kỹ thuật, và bắt đầu xây d ự n g m ột cơ sở th ô n g tin về đặc điểm của nền n ô n g nghiệp ở khu vực ven đ ô và đô thị. Các nghiên cứu
  4. s ự SU Y GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI.. 215 đã đóng góp cho sự hiểu biết hơn về các vấn đề và đặc trưng của nông nghiệp ven đô và đô thị. (FAO, 2007). Có thể thấy, các nghiên cứu về hoạt động sản xuất nông nghiệp có đối tượng chủ yếu là vùng nông thôn khu vực Nam Bán cầu, bao gồm vùng nông thôn châu Phi và châu Á, nơi mà nông nghiệp giữ vai trò nguồn sinh kế quan trọng và hình thành bản sắc văn hóa của người nông dân. Dù là phát triển theo xu hướng nào thì đất đai và sản xuất nông nghiệp ở các khu vực trên đều đã và đang bị biến đổi, ngày càng bị thu hẹp, vị trí và vai trò của người nông dân ngày càng giảm và xu hướng hoạt động phi nông nghiệp ngày càng gia tăng và chiếm vị trí quan trọng. Ở Việt N am thời gian qua, m ột số nghiên cứu về khu vực ven đô Hà Nội thư ờ ng bàn về n h ữ n g tác động của quá trình th u hồi đất nông nghiệp đến đời sống người nông dân và trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo về k h u vực ven đô cũng thường nhắc đ ến các từ khóa n h ư "nông n g h iệp ven đô", "đất nông nghiệp", "nông dân". Tuy nhiên, tro n g bối cảnh th u hồi đất nông nghiệp ồ ạt để phục vụ mục tiêu p hát triển công nghiệp, đô thị ở khu vực ven đô hiện nay thì nền "nông nghiệp ven đô" sẽ n h ư thế nào, "đất nông nghiệp" bị biến động đến đâu và cuộc sống của người "nông dân" m ất đất ra sao thì nhữ ng d ẫn chứng đư a ra chưa đú cụ thể, vừa chưa đ ủ sâu sắc để đ án h giá khách quan giả thuyết n g h iên cứu đưa ra. Công trìn h nghiên cứu "Biến đổi kinh tế - xã hội ở vù n g ven đô Hà N ội trong quá trình đô thị hóa" của N guyễn H ữu M inh và đồng nghiệp ngay từ 2005 đã kh ẳn g đ ịn h có sự dịch chuyển cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu nguồn th u và m ức sống của người nông dân sau khi bị thu hồi đất. Xu hướng chuyển đổi n g h ề nghiệp đang hướng đến các hoạt động h ư ởng lương và trợ cấp, sản xuất thủ công và buôn bán dịch vụ. Đ ồng thời cũng chỉ ra sản xuất n ô n g nghiệp ở các vùng ven đô vẫn giữ một vị trí đáng kể trong hoạt đ ộ n g sinh kế của nông dân. Tuy nhiên, vị trí của nền nông nghiệp ven đô được du y trì và sản xuất n h ư thế nào thì nghiên cứu này chưa đề cập tới. N g h iên cứ u " S ử dụng vốn xã hội trong chiến lược sinh kế của nông dân ven đô Hà N ội dưới tác động của đô thị hóa" (2007), N guyễn D uy Thắng
  5. 216 Phan Thị Ngọc cho rằng công nghiệp hóa, đô thị hóa là để p h át triển, n h ư n g sự p h át triển này cũng tạo sức ép và thách thức cho nông d ân v en đô. Việc th u hồi đất đã dẫn đến số hộ th u ần nông giảm m ạnh. T hành p hố đã có chính sách đền bù, hỗ trợ n h ằm chuyển đổi nghề cho các hộ bị thu hồi đất. lu y nhiên, việc đào tạo nghề m ang lại hiệu quả kh ô n g cao, đặc biệt là nh ữ n g lao động n ữ độ tuổi từ 35 đến 40. Nhiều thảo luận về vị trí và xu hư ớng p h át triển của n ô n g nghiệp ven đô cũng được bàn luận, nghiên cứu "N ông nghiệp và phát triển đô thị tại Hà Nội" của Denis Sautier, Đào Thế Anh, Phạm Công N ghiệp, N guyễn Ngọc Mai (2013) đã thừa nhận vai trò tích cực của n ô n g nghiệp ven đô trong việc giải quyết việc làm, cung cấp thực ph ẩm và các dịch vụ phục vụ cho toàn đô thị. Vì vậy, cần d u y trì hoạt đ ộ n g n ô n g nghiệp ở vùng ven đô, đây là vấn đề quan trọng không chỉ về m ặt kinh tế m à cả về xã hội. Có thể thấy, các vấn đề liên quan đ ến đất đai và n ền n ô n g nghiệp ven đô được cả xã hội quan tâm và nghiên cứu với nhiều hư ớng tiếp cận khác n h a u (kinh tế học, xã hội học, q uản lý V.V.). Tuy n hiên, v ẫn chư a có nhiều các công trình nghiên cứu Dân tộc học - N hân học về vấn đề này. Khảo sát của tôi tại địa bàn nghiên cứu cho thấy, các chủ trương, chính sách phát triển của N hà nước có n h ữ n g tác động tích cực đến đời sống người nông dân làng Gia Trung, song việc thu hồi h ơ n 70% diện tích đất nông nghiệp của làng đã khiến cho nền nông nghiệp ở đây bị sụt giảm nghiêm trọng, thậm chí bị "chững lại". Để hiểu được hiện trạng và xu hướng p h át triển của nông nghiệp hiện nay ở Gia Trung, tôi tập trung nghiên cứu vào n h ữ n g biến động đất đai của làng trong lịch sử, đặc điểm của nông nghiệp và vị trí của người nông dân Gia Trung trong khoảng hơn m ột thập kỷ vừa qua. Trong nghiên cứu này, tôi tiến hành điền dã dân tộc học ở địa bàn nghiên cứu. Trên thực địa, các phư ơng pháp nghiên cứu cơ bản của ngành học n h ư quan sát tham gia, phỏng vấn sâu được sử d ụ n g để khai thác và thu thập tài liệu d ân tộc học. Ngoài ra, tôi cũng đã khảo sát và khai thác các nguồn tài liệu thành văn là các văn bản của các cấp chính quyền N hà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương. N guồn tài liệu này cho p h ép tôi có được nhữ ng
  6. s ự SUY GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở M ỘT LÀNG VEN Đ ô HÀ NỘI. 217 thông tin đ ịn h lượng, n h ư m ột số số liệu thống kê, để kết hợp với các tài liệu định tính thu được từ q u an sát tham gia và phỏng vấn. 2.2. Một số khái niệm * Làng ven đô Trong nghiên cứu về làng Việt và những biến đổi kinh tế và xã hội ở làng Việt truyền thống và hiện đại trong gần hai thập kỷ trở lại đây, khái niệm làng không còn là vấn đề mới, nhưng 'làng ven đô' là một khái niệm mới, thể hiện sự giới hạn của các làng Việt thuộc vùng ven các đô thị mà cụ thể trong nghiên cứu này là của thành phố Hà Nội. Bản chất biến đổi của nó là một trong nhữ ng đặc điểm quan trọng nhất để định nghĩa về ven đô. Khi nghiên cứu về v ù n g ven đô trong quá trình tái lãnh thổ ở Đ ông N am Á, M icheal Leaf cho rằn g vùng ven đô Đ ông N am Á có thể coi là n h ữ n g địa giới theo ít n h ấ t 3 nghĩa. Thứ nhất, ch ú n g là n h ữ n g địa giới của sự đô thị hóa theo nghĩa rộng n h ất của từ này, bắt n g u ồ n từ sự m ở rộng ra bên ngoài của cái thường gọi là n h ữ n g chức n ă n g đô thị trên khắp các khu vực với đà gia tăng kh ô n g ngừng. Thứ hai, sự gia tă n g n h a n h c h ó n g các hoạt đ ộ n g p h i n ô n g nghiệp. Thứ ba, vùng ven đỏ còn là đ ư ờ n g ranh giới, địa giới h àn h chính. Đây là kết quả của quá trình tái lãnh thổ do N hà nước thực hiện thông qua chính quyền địa phương. Theo kiểu xác định lại ranh giới đô thị hạt nhân, hoặc được tiến h àn h theo kiểu tăng thêm (trường hợp các quận mới vốn thuộc v ù n g nông th ôn của thành phố Hồ Chí Minh), hoặc theo kiểu sáp n h ập các tỉnh p h ụ cận n h ư chính quyền thành phố Hà Nội đã thực hiện vào tháng 8 năm 2008 (Michael Leaf, 2008, tr.461-481). Dưới góc độ quản lý, các n h à hoạch định chính sách đã đưa ra một số định nghĩa về v ù n g ven đô, có thể tóm tắt n h ư sau: "về m ặt địa lý, vùng ven đô được hiểu là k h u vực kế cận với th àn h phố. V ùng ven đô là nơi vừa có các hoạt đ ộ n g đặc trư ng cho nông th ô n vừa có các hoạt động m an g tính chất đô thị. V ùng ven đô không tồn tại độc lập mà nằm tro n g m ột m iền liên th ô n g nông thôn - ven đô - đô thị. Các mối
  7. 218 Phan Thị Ngọc quan hệ tương tác lẫn n h au của các bộ phận hợp th àn h hệ th ố n g n ô n g thôn - ven đô - đô thị được thể hiện ở chỗ nông thôn và ven đô là nơi cung cấp thường xuyên, lâu dài lương thực thực phẩm , ng u ồ n n g u y ên liệu và nguồn lao đ ộ n g cho đô thị, ngược lại đô thị tạo ra thị trư ờ ng để tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, tạo cơ hội việc làm và nơi ở cho các dòng di dân từ nông thôn đ ến đô thị và cung cấp các sản ph ẩm p h ụ c vụ cho sản xuất nông nghiệp (N guyễn Duy Thắng, 2009, tr.80). N ếu xem xét từ tiêu chí địa giới hành chính thì: "Làng ven đô ở đây được hiểu bao gồm ngoài các làng thuộc các huyện ngoại th à n h n h ư Thanh Trì, Gia Lâm, Sóc Sơn, Đ ông Anh, Từ Liêm còn có tất cả các làng thuộc các quận: c ầ u Giấy, Tầy Hồ, Thanh Xuân, H oàng Mai và Long Biên, vốn là các làng (thuộc xã, huyện) được chuyển thành các làng trong phường (thuộc quận) trong khoảng thời gian mươi năm trở lại đây" (Ngô Văn Giá, 2007, tr.7). Theo quan niệm này thì toàn bộ các làng thuộc các huyện mới sáp nhập năm 2008 của tỉnh Hà lầ y và h u y ện Mê Linh được xác định là ranh giới mới của các làng ven đô. M ột lần nữa, địa giới các làng ven đô của H à Nội được m ở rộng về biên độ và quy mô. N hư vậy, khái niệm làng ven đô được hiểu m ột cách tư ơ n g đối là các làng thuộc k hu vực ngoại th àn h của thành phố Hà Nội. Theo đó, vùng ven đô là m ột k hu vực có địa giới hành chính không ổ n đ ịn h , có thể biến đổi theo hư ớng được tách ra, nhập vào hoặc điều ch ỉn h dưới tác động của chính sách và kế hoạch phát triển của N hà nước. * N ông nghiệp ven đô Hiện nay, vẫn chưa có khái niệm thống nhất về "nông nghiệp ven đô". Trong các chương t ì n h nghiên cứu về nông nghiệp ở khu vực ven đô và đô thị trên thế giới, Tổ chức Lương thực và N ông nghiệp Liên H ợp Quốc (FAO) thường xuyên sử dụng thuật ngữ "UPA" - để chỉ hoạt động nông nghiệp ở khu vực đô thị và khu vực ven đô. Trong đó, "nông nghiệp ven đô là hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra ở ngoại vi các thành phố, có xu hướng thay đổi m ạnh mẽ trong thời gian qua; gắn với dòng dân di cư từ nông thôn vào khu vực đô thị; giá đất nông nghiệp tăng và ngày càng bị thu hẹp. N hững thay đổi này ảnh hưởng đến hệ thống sản xuất nông nghiệp, trong đó rõ nhất là sự chuyển đổi từ cây trồng chủ lực
  8. s ự SUY GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N GH IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI. 219 (cây lúa) sang các loại cây rau màu và sản xuất thực phẩm (thịt, trứng, sữa) gắn với đời sống đỏ thị" (FAO, 2007, tr.5). Ở Việt N am , "nông nghiệp ven đô" là chỉ khu vực nông nghiệp ven các đô thị hay ven các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vùng có đông dân cư. Đặc điểm của nông nghiệp ven đô là ít đất sản xuất trong khi thừa lao động (do lao động nông nghiệp chưa chuyển kịp sang ngành nghề khác bởi nhiều nguyên nhân khác nhau). N ông nghiệp ven đô cực kỳ có ý nghĩa với đô thị, hay khu công nghiệp vì sản phẩm nông nghiệp làm ra sẽ cung cấp trực tiếp cho dân cư vùng đó [http://vi.wikipedia.org]. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra m ạnh mẽ ở nhiều làng ven đô đang đặt ra vấn đề cấp bách là phải xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp p h ù hợp với điều kiện đất đai, thị trường v.v. giúp người dân ổn định cuộc sống. N hữ ng quan sát đương đại trong thời gian qua cho thấy, các lãnh thổ nông nghiệp và hoạt động sản xuất nông nghiệp ở m ột số làng ven đô Hà Nội đang có những chuyển dịch theo hướng nông nghiệp đô thị, sản xuất thực phẩm chất lượng cao, trồng hoa, cây cảnh để cung cấp cho Hà Nội. Đơn cử, tại m ột số xã/phường như Phú Lãm, Biên Giang, Văn Q uán, Mê Linh v.v... cùng với các ngành nghề dịch vụ, buôn bán, việc phát triển các mô hình trồng rau an toàn, hoa, cây cảnh không chỉ tạo việc làm, mà còn góp phần đáng kể tăng thu nhập cho nông dân. H ay xu hướng "trồng cỏ" để trang trí nhà cửa, biệt thực, khách sạn v.v. của nông dân huyện Từ Liêm đã tìm được mô hình nông nghiệp p h ù hợp trong bối cảnh đất chật người đông. Từ nhữ ng thành công này, nhiều hộ nông dân sau thu hồi đất đã tìm được các mô hình sản xuất, kinh doanh p h ù hợp, hiệu quả cao. N hư vậy, nông nghiệp ven đô là m ột n ền nông nghiệp sản xuất hàng hoá cung cấp cho khu vực đô thị, có ý nghĩa quan trọng với khu vực đô thị. 3. LÀNG GIA TRUNG VÀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRƯỚC KHI THU HỐI ĐẮT 3.1. Lịch sử biến đổi hành chính làng Gia Trung Trong lịch sử, chỉ riêng tên gọi và lịch sử h ìn h th àn h làng Gia Trung đã cho thấy có n h iều biến đổi. Căn cứ theo 'Phả k ý' của họ N guyễn (họ có n hiều đời n h ất làng), theo n h ữ n g sắc p h o n g th àn h hoàng còn lại của đ ìn h làng và theo bia "Hậu phật bi ký" ghi ở chùa
  9. 220 P h a n ĩh ị Ngọc Đại Bi của làng thì Gia Trung được th àn h lập năm C hính H òa 11 n h à Lê (1690) với tên th ô n Hạ, xã Gia Thượng, huyện Kim H oa (năm 1841, đổi tên là h u y ện Kim A nh), p h ủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là tỉn h Bắc Ninh). N ăm Q uý Tỵ, niên hiệu T hành Thái th ứ 5 (1893), làng thuộc xã Gia Trung gồm th ô n Hè và thôn Đồng. Thời P h áp thuộc, năm 1901, chính quyền thực d ân Pháp thành lập tỉnh Phù Lỗ. N gày 10/12/1903, tỉn h P hù Lỗ đổi tên th àn h tỉnh Phúc Yên, h u y ện Kim A nh thuộc về tỉnh mới này. Từ sau Cách m ạng tháng 8, địa giới hành chính của làng có n h iều thay đổi. Tháng 4/1946, lúc này có tên Gia Trung, làng được sáp n h ập với các làng bên bờ nam sông Cà Lồ thành lập xã Đại Đồng. Cuối 1954, làng thuộc xã H oà Bình. N ăm 1956, làng sáp nhập vào xã Q u an g M inh. N ăm 1978, xã Q uang M inh và m ột số xã nằm bên bờ sông Cà Lồ của huyện Kim Anh (cũ) được sáp n h ập vào huyện Mê Linh, h u y ện ngoại thàn h H à Nội. Đ ến tháng 7 năm 1991, toàn bộ hu y ện Mê Linh tách khỏi Hà Nội trở về tỉnh Vĩnh Phú (nay là tỉnh Vĩnh Phúc). N gày 29/5/2008, toàn bộ h u y ện Mê Linh được sáp nhập vào thành p hố H à Nội, làn g Gia Trung được đổi th à n h tổ d ân p hố 6 và 7 thị trấn Q u an g M inh1, h u y ện Mê Linh, H à Nội. Trước khi diễn ra quá trình th u hồi đất nông nghiệp và bị sáp nhập vào H à Nội, cảnh q u an làng Gia Trung m ang n h ữ n g nét đặc trư n g của nông thôn Việt. K huôn viên của làng chia làm hai k hu chính: k h u cư trú (xóm/đội) và k hu canh tác (đồng ruộng). Trong đó, khu d ân cư có chiều dài khoảng lk m (từ k hu vườn c ầ u - đầu làng phía Tầy đ ến cổng C hùa - đ ầu làng phía Đông), chiều ngang khoảng 400m, trước m ặ t có các cánh đồng. H ướng p h át triển lúc đầu của làng là từ Tầy sang Đ ông và mỗi họ thư ờ ng quây q u ần trong m ột khu dân cư nhỏ; khi d ân cư đã tương đối đông thì chia làm hai khu vực, lấy con đ ư ờng chạy dọ c giữa làng làm d an h giới, nửa làng phía Bắc gọi là mái sau, nửa làn g phía 1 D ù có đ iề u c h in h v ề m ặ t đ ịa giới h à n h c h ín h , n h ư n g v ớ i n g ư ờ i d â n , G ia T ru n g v ẫ n là m ộ t là n g . T ro n g n g h iê n c ứ u n ày, tôi coi G ia T ru n g là m ộ t c ộ n g đ ồ n g là n g c h ứ k h ô n g s ử d ụ n g tê n gọi h à n h c h ín h m ới.
  10. s ự SUY G IẢ M SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI... 221 Nam gọi là mái trước, d ân cư mái sau đông hơn mái trước, về sau gọi là đằng Đ ình (nay là tổ d ân phố số 6) và đằng C hùa (tổ dân ph ố số 7Ỵ. N h ư vậy, lịch sử h ìn h th àn h của làng Gia Trung là quá trình p h át triển trải qua n hiều biến đổi về h àn h chính, một quá trình p h át triển liên tục n h ư n g hay bị đ ứ t quãng. N ếu tính từ khi lập làng (năm C hính Hòa 1690) cho đ ến thời N guyễn và Pháp thuộc (trên 300 năm), Gia Trung chỉ có 2 lần thay đổi địa giới h àn h chính thực sự, thì từ năm 1946 đến năm 2008 (khoảng 50 năm ), làng đã chứng kiến đ ến 6 lần thay đổi lớn nhỏ. Đây vừa là quá trình có tính cưỡng bức vừa có tính định hướng, đ ồ n g thời bản th â n cộng đ ồ n g làng cũng không ngừ n g tự điều chỉnh đ ể thích nghi với n h ữ n g điều kiện mới. 3.2. Biến đông đất đai và một số đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở Gia Trung trước khi thu hồi đất * S ự biến động đất đai làng Gia Trung trước khi thu hồi đất Vào đầu th ế kỷ XIX, diện tích đất tự nhiên (còn gọi đ ất bao đạc) của làng Gia Trung là 252,36 ha (701 m ẫu Bắc Bộ)2, gồm 30,96 ha (86 mẫu) đất thổ cư và 221,76 ha (616 m ẫu) đất trồng trọt. Riêng ru ộng đất trồng trọt được p h ân bổ n h ư sau: 1 Theo Nghị định số 39/2008/NĐ -C P của Chính phủ về việc điều chỉnh đ ịa g iớ i h à n h c h ín h xã, p h ư ờ n g , t h à n h lậ p th ị trấ n , p h ư ờ n g th u ộ c h u y ệ n M ê L in h , H à N ộ i. T h à n h lậ p th ị trấ n C hi Đ ô n g th u ộ c h u y ệ n M ê L in h trê n cơ sở đ iề u c h ỉn h 486 h a d iệ n tíc h tự n h iê n v à 9.861 n h â n k h ẩ u c ủ a xã Q u a n g M in h ; th à n h lậ p th ị tr ấ n Q u a n g M in h th u ộ c h u y ệ n M ê L in h tr ê n cơ sở 889,6 h a d iệ n tích tự n h iê n v à 19.126 n h â n k h ẩ u c ò n lại c ủ a xã. T hị tr ấ n Q u a n g M in h h iệ n n a y là s ự h ợ p n h ấ t 6 th ô n /là n g c ủ a xã Q u a n g M in h trư ớ c kia: G iai L ạc, Ấ p Tre, G ia Tần, G ia T ru n g , G ia T h ư ợ n g v à th ô n Đ ồ n g . 2 Mẫu là một đ ơ n v ị đ o lường diện tíc h c ũ c ủ a m ộ t số nước như T ru n g Quốc v à Việt N a m . T ro n g h ệ th ố n g đ o lư ờ n g cổ c ủ a V iệt N a m , m ẫ u là m ộ t đ ơ n vị đ o diện tích. M ộ t m ẫ u b ằ n g 10 s à o h a y b ằ n g 10 c ô n g (1 c ô n g = 1 sào), 1 c ô n g h a y 1 sà o đ ấ t N a m b ộ là 1000 m 2, T ru n g b ộ là 500 m 2, Bắc b ộ là 360 m 2. T ù y th e o t ừ n g v ù n g m à đ ơ n vị đ o lư ờ n g c ủ a m ẫ u đ ư ợ c tín h k h á c n h a u , c h ẳ n g h ạ n , 1 m ẫ u ở Bắc Bộ = 3600 m2, Trung Bộ = 4.970 m 2, Nam Bộ = 10.000 m 2.
  11. 222 Phan Thị Ngọc Bảng 1: Ruộng đất trổng trọt ở Gia Trung đẩu thế kỷ X IX D iên • tích Quy đổi Tỷ lệ Stt Loại ruộng hecta(ha) (mẫu Bắc Bộ) (%) 1 Ruộng công 70 25,2 11,3 2 Ruộng tư (ruộng của tư gia) 335 120,6 54,3 3 Ruộng xâm canh 151 54,36 24,5 4 Ruộng chùa họ (nửa công, nửa tư) 60 21,6 9,7 Nguồn: Theo tài liệu địa bạ làng Gia Trung năm 1805. Số liệu từ Bảng 1 cho thấy vào đầu thế kỷ XIX, ngoài 86 m ẫu đất thổ cư thì diện tích đất trồng trọt của làng Gia Trung có sự p h ân hóa lớn, trong đó, ru ộng đất tư hữu (thực chất là ru ộ n g của các tư gia trong làng) đã tương đối cao và phức tạp, được phân bố ở tất cả các xứ đồng của làng. Ruộng đất xâm canh (tức p h ần diện tích đất của làng do người làng khác sở hữu và canh tác hoặc cho thuê) lúc n ày đã p hát triển m ạnh (151/616 mẫu), trong đó phần diện tích đất do người làng T hụy H à (Đông Anh) canh tác là 49 m ẫu, diện tích đất do người làng Đ ông Đồ sở hữu và canh tác là 80 m ẫu v.v. N h ữ n g con số này cho thấy, ruộng đất tư hữ u và hiện tượng xâm canh thời điểm này ở Gia Trung đ ã c ó th ể c h u y ể n n h ư ợ n g h o ặ c m u a b á n . M ộ t h iệ n tư ợ n g k h ô n g c h ỉ xuất hiện ở Gia Trung m à còn nhiều địa ph ư ơ n g khác ở đ ồ n g bằng sông H ồng, đ ồ n g nghĩa với ru ộng đất công ngày càng giảm, bị thu hẹp và p h ân bố không đ ều ở các xứ đồng. Sang thời kỳ tập thể hóa nông nghiệp (từ 1960), làng Gia Trung được tổ chức th àn h H ợp tác xã với quy m ô đến từ n g đội sản xuất1, thời điểm này tình h ìn h ru ộ n g đất của làng có nhiều biến đ ộ n g theo hướng th u giảm diện tích đất n ô n g nghiệp. 1 T h ờ i k ỳ n ày , là n g G ia tr u n g đ ư ợ c c h u y ể n t h à n h 8 đ ộ i s ả n x u ấ t (đ ộ i 1 đ ế n 8), tro n g đ ó đ ộ i 1-4 th u ộ c v ề n ử a là n g p h ía đ ằ n g Đ ìn h (n a y là tổ d â n p h ố số 6), đ ộ i 5-8 n ằ m ở n ử a là n g p h ía đ ằ n g C h ù a (tổ d â n p h ố số 7).
  12. sự SU Y GIẢM SẢN XUẤT NỒNG NGH IỆP ở M ỘT LÀNG VEN Đ õ HÀ NỘI.. 223 Bảng 2; Sự thu giảm diện tích đất nông nghiệp ở Gia Trung trong thời kỳ tập thể hóa nông nghiệp Diện tích Quy đổi Thu giảm diện Năm Lý do thu giảm diện tích thu giảm hecta tích ở xứ đổng (mẫu Bắc Bộ) (ha) Xây dựng hệ thống kênh 1963 Đổng Đám Da 40 14,4 mương (kênh Tây) Xây dựng con đường đi 1965 Đổng Hối 3,2 1,15 lại sau làng 1965 Mở đường đi Do Nhân 2 0,72 Chính quyến lấy đất giao Đổng Hối 5,8 2,09 cho làng Gia Thượng Vườn Cẩu 3,8 1,37 Đông Bậm, 1977 Giao cho làng Gia Tân 5,8 2,09 Đổng Lân Đám Da, Giao cho làng Chi Đông A' r-Ị-1 / 50 18 Cãu láo N guồn: Số liệu được tổng hợp từ tuyển tập “Quê hương Gia Trung" năm 1985. N hư vậy, trong n h ữ n g năm p h át triển kinh tế theo m ô hình hợp tác xã n ô n g nghiệp ở Gia Trung không chỉ làm "chuyển đổi n ền sản xuất n ông nghiệp lấy hộ gia đ ìn h làm đơn vị kinh tế cơ bản sang nền k inh tế n ô n g nghiệp lấy hợp tác xã là đơn vị sản xuất chính" (N guyễn Văn Sửu, 2013, tr.139), mà còn làm cho diện tích đ ất nông nghiệp làng Gia Trung bị chia nhỏ, gây trở ngại không ít cho việc cải tiến kỹ thuật trồ n g trọt và đặc biệt là cho việc cơ giới hóa. Đ ầu n h ữ n g năm 1990, với m ục đích giảm xung đột trong nông nghiệp, C h ín h p h ủ đã ban h à n h N ghị đ ịn h 64/CP (năm 1993) về việc giao đất n ô n g nghiệp cho hộ gia đình, cá n h ân sử d ụ n g ổn đ ịn h lâu dài. Trong đợt giao quyền sử d ụ n g đất này, Gia Trung có 129 ha đất nông nghiệp, tro n g đó 95% quỹ đ ất được giao ổn đ ịn h cho các hộ gia đình, 5% còn lại do xã quản lý. Trung bình, mỗi n h ân khẩu được n h ận 1 sào 6 thước (tương đư ơng 504m2), trong đó, 10-15% hộ gia đ ìn h có diện tích từ 1 đến 3 sào, từ 3 đ ến 6 sào chiếm khoảng 60% số hộ, khoảng 15%- 20% hộ được chia 7 sào đ ến 1 m ẫu. Do n h ấn m ạnh đ ến tính công trong quá trình giao đất, n ên diện tích đ ất nông nghiệp được chia nhỏ, vì thế
  13. 224 PHianThị Ngọc mỗi hộ gia đình được giao đất d ù chỉ với mức tru n g bình Iơín 500 m 2/ khẩu n h ư n g lại có từ 4 đến 8 m ảnh ruộng. Tóm lại, quá trình p h át triển của làng Gia Trung từ đầi tlhế kỷ XIX đến n h ữ n g năm 90 của thế kỷ XX cùng với n h ữ n g biến lổ i liên tục về h àn h chính thì diện tích đất đai, nhất là đất nông n g h ệ p của làng cũng bị biến động theo hư ớng thu giảm diện tích. Khi hoài th à n h quá trình giao quyền sử d ụ n g đất n ô n g nghiệp cho các gia đn_h cũ n g là thời điểm các chương trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đ iợ c th ú c đẩy bởi chính quyền N hà nước diễn ra ở khu vực ven đô Hà M i, làm ản h hưởng trực tiếp và m ạnh mẽ đ ến cộng đồng làng Gia Trurg, m ột cộng đồng làng chỉ cách tru n g tâm Hà Nội 15 km và cách sân :>ay Nội Bài 10 km. Hệ quả từ các chương trình này là đã thu hồi đất rô n g n g h iệp ồ ạt ở Gia Trung và các cộng đồng làng xung qu an h được Tiển khai từ cuối n h ữ n g năm 1990 trở đi. * Đặc điểm nền nông nghiệp truyền thống làng Gia Trung Trước khi diễn ra quá trình th u hồi đất, diện tích đất r ô n g n g h iệp và đất ở của làng Gia Trung được bố trí thành n h ữ n g khcng gian khá riêng biệt, vì thế n h ìn từ trên cao chúng ta có thể n h ận thấy n h ữ n g không gian sản xuất gắn với không gian cư trú n h ư n g khcng đan xen, hòa trộn với nhau. Với m ột m ật độ d ân cư khá cao, cộng với hệ th ố n g thủ y lợi hoàn thiện, hầu hết diện tích đất nông nghiêp của làng Gia Trung đều được sử d ụ n g để sản xuất nông nghiệp, mỗi năm canh tác 2 đến 3 vụ lúa và màu. Gồm các loại cây trồng chủ yếu như: (1) Cây lúa: là cây ữ ồ n g chính trong mọi thời kỳ p h át triển của d ân làng, đồng thời là căn cứ để tính "Bãibỏ thuế". Tùy theo n ăn g suất cây trồng hàng năm m à có n h ữ n g quy đ ịn h riêng. C hính quyền p h o n g kiến không đ án h th u ế hoặc đánh thuế thấp n h ữ n g năm n ăn g suất cây trồng thấp hay m ất mùa; còn n h ữ n g năm được m ùa thì n ăn g suất của cây lúa trên các loại ruộng được chia làm 3 loại để đ ịn h th u ế điền: nhất đẳng điền 1tính thuế 3 thăng/1 sào Bắc Bộ, nhị đẳng điền 2 thăng/1 sào, tam đẳng điền 1 thăng/1 sào2, 1 Cách tính thuế điền vào thời Nguyễn. 2 Thăng h a y T h ư n g : Đơn v ị đ o t h ể tíc h cổ c ủ a V iệt N a m .
  14. s ự SU Y GIẢM S Ầ N XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI... Với n h ữ n g cải tiến và hoàn thiện hệ thống thủy lợi trong thời kỳ tập thể h ó a nông nghiệp đã thay đổi hoạt động canh tác trồng trọt của người n ô n g dân Gia Trung. N ếu trước kia chỉ cấy vụ đông, các vụ khác trồng rau m àu; cây lúa và hoa m àu đều trông chờ vào nước tự nhiên thì thời đ iểm này cấy 1 năm 2 vụ lúa, các loại cây hoa m àu và cày công nghiệp n g ắ n ngày khác đều có nước tưới chủ động. (2) C ây thầu dầu: được trồng phổ biến ở Gia Trung, cả ở chân ruộng tốt v à xấu và chiếm m ột diện tích lớn so với các cây hoa màu khác bởi đ ây là loại cây tập quán của làng. Ngoài ra, nông dân Gia Trung cũ n g trồng thêm các loại đậu, khoai (khoai lang, khoai sọ) v.v. như ng với quy mô tự ph át, n hỏ lẻ ở hộ gia đình và p h ân tán ở nhiều cánh đồng. Việc chăn nuôi ở đây không m ang tính chất kinh doanh, c h ỉ p h ụ c V Ị1 c h o s ả n x u ấ t n ô n g n g h i ệ p v à t i ê u d ù n g t r o n g g i a đ ì n h . Q ua cơ cấu vật nuôi, cây trồng ở Gia Trung, thấy rằng ở đây tồn tại một nền sản xuất nông nghiệp truyền thống m ang đặc trưng của làng xã vùng đồng bằng Bắc bộ là cây lúa, con lợn ở quy mô nhỏ, chưa có tính chất của một n ền sản xuất hàng hóa. Sản xuất nông nghiệp không chỉ thu hút một phần cơ bản lực lượng lao động của các hộ gia đình nông dân mà còn là một ngu ồ n sinh kế quan trọng của nhiều hộ gia đình ở cộng đồng làng trước khi bị tác động bởi quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. 4. HOẠT • ĐỘNG • SẢN XUẤT NÕNG NGHIỆP • ở GIA TRUNG ỈAU KHI BỊ• THU HỐI ĐẤT 4.1. Quá trình chuyển đổi đất nỏng nghiệp Sau khi tình Vĩnh Phúc được tái lập (1997 )\ ủ y ban nhân dân tính đã ban h àn h nhiều quy định, quyết định liên quan đến vấn đề chuyển đổi m ục đích sử d ụ n g đất để phát triển công nghiệp của tính. Q uy hoạch 1 Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết (ngày 26/11/1996) v ề v iệ c tá i l ậ p t í n h V ĩn h P h ú c v à t ì n h P h ú T h ọ . T ỉn h V ĩn h P h ú c c h ín h th ứ c đ ư ợ c tá i lậ p v à đ i v à o h o ạ t đ ộ n g t ừ n g à y 01/01/1997. K h i tá c h ra , t ỉ n h V ĩn h P h ú c c ó d i ệ n tíc h 1.370,73 k m 2, d â n số 1.066.552 n g ư ờ i, g ồ m 6 đ ơ n v ị h à n h c h í n h c ấ p h u y ệ n : th ị x ã V ĩn h Y ê n , v à 5 h u y ệ n L ậ p T h ạ c h , V ĩn h T ư ờ n g , Y ê n L ạ c , T am Đ ả o v à M ê L in h .
  15. 226 Phan Thị Ngọc p hát triển công nghiệp phải dựa trên cơ sở phân bổ hợp lý các ng ành nghề trong từng khu, cụm công nghiệp theo hướng các n g àn h nghề phải p h ù hợp với nhau, hỗ trợ nhau, thúc đẩy các thành p h ần kinh tế p hát triển. Tính đến hết năm 2004, tổng diện tích đất d àn h cho các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh là 2.542,28 ha (chiếm 1,85% tổng diện tích đất tự nhiên) trong đó đất nông nghiệp bị thu hồi là 1.522,76 ha. Với n h ữ n g th u ận lợi do vị trí địa lý m ang lại, tỉnh V ĩnh Phúc đã quy hoạch xã Q u an g M inh th àn h m ột xã trọng điểm về công nghiệp, đô thị và dịch vụ, tru n g tâm kinh tế - xã hội phía đông nam của tỉnh. Làng Gia Trung được xác đ ịn h là địa bàn p h át triển công n g h iệp trọng điểm của khu công nghiệp Q uang M inh, vì thế làng có diện tích đ ất nông nghiệp bị th u hồi lớn và triệt để n h ất xã Q u an g M inh. Q uá trình thu hồi đ ất nông nghiệp đầu tiên ở Gia Trung là việc th u hồi 24 ha đ ất n ô n g nghiệp để xây dự ng đ ư ờng cao tốc Bắc T hăng Long - Nội Bài (1996). Tuy nhiên, việc thu hồi với quy m ô lớn, tốc độ n h an h và ồ ạt chỉ diễn ra từ năm 2001 - 2005. Trong k h oảng thời gian này, h ơ n 70% (91/129 ha) quỹ đất d ù n g cho sản xuất n ô n g nghiệp của làng bị th u hồi, là n h ữ n g diện tích đất ven lộ, đất m àu m ỡ „bờ xôi ru ộ n g mật" và chủ yếu là đất n ô n g nghiệp quỹ I đã giao ổn đ ịn h cho các hộ gia đình. D ẫn đ ến sự sụt giảm n h an h chóng về qu y mô, diện tích đất n ô n g nghiệp và lực lượng lao động nông nghiệp. Thời điểm này, tâm lý bám "đất" của người nông d ân bị lay chuyển tậ n gốc. N hư vậy, đi ngược lại xu hướng của các năm 1990 và do các chính sách quy hoạch xây dự ng công nghiệp và đô thị, các năm đầu thế kỷ XXI sẽ chứng kiến m ột sự sụt giảm đáng kể diện tích đất nông nghiệp ở làng Gia Trung nói riêng và nhiều làng ven đô giáp ranh Hà Nội nói chung. 4.2. Nông nghiệp Gia Trung trong bối cảnh hiện nay Sau khi được sáp n h ập vào th àn h phố H à Nội (2008), làng Gia Trung còn 38 ha đất nông nghiệp (chủ yếu là đ ất nông n g h iệp h ạn g 3, 4, 5 và 6) n h ư n g nằm rải rác và m anh m ún ở nhiều cánh đ ồ n g và bị xen ghép với nhiều h o ạt động kinh tế khác (nhà máy, xí nghiệp, đ ư ờ n g bẻ tông, đường ống dẫn nước thải V.V.).
  16. s ự S U Y GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N GH IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI.. 227 N ếu trước đây, 70% diện tích đất nông nghiệp của làng do kênh m ương cu n g cấp nước, 30% diện tích phải bơm hoặc chờ nước tự nhiên thì nay hệ th ố n g kênh m ư ơ ng đã bị san lấp hoặc bị ngăn cách. N ông dân m uốn canh tác được phải tự be bờ lấy nước ở n h ữ n g thửa ruộng gần n g u ồ n nước hoặc trông chờ nước tự nhiên. Ngoài ra, cùng với quá trình đô thị hóa và p h át triển công nghiệp đã làm cho p h ần diện tích đất nôn g nghiệp còn lại ở Gia Trung không chỉ bị giảm sút về số lượng, chất lư ợ ng đ ất m à độ phì của đất cũng giảm d ần do bị ô nhiễm năng. N h ữ n g n g u y ên n h ân này làm cho người nông dân lo lắng không dám đầu tư h ết khả năng vào sản xuất và xuất hiện tâm lý làm nông nghiệp "cầm chừng". Hệ quả là "cây lúa" không còn được người nông dân Gia Trung coi trọng và m ang giá trị kinh tế n h ư trước kia nữa, mà chuyển sang trồ n g các loại rau m àu để phục vụ nhu cầu tại phương. K hoảng 30% hộ d ân Gia Trung vẫn canh tác và sống dựa vào nông nghiệp ở n h ữ n g mức độ khác nhau. Lực lượng tham gia chủ yếu là lao đ ộ n g n ữ tru n g tuổi (từ 35 đ ến 60 tuổi), họ là n h ữ n g người khó tìm được việc làm mới n ên vẫn bám trụ với m ảnh đất ít ỏi còn lại. Ngoài canh tác trên p h ần đ ất còn lại của gia đình, nhiều người d ân còn tận d ụ n g n h ữ n g m ảnh ru ộ n g bỏ hoang để canh tác mà không phải đóng thuế hay chi trả bất cứ m ột khoản nào. Tuy nhiên, do tính chất của nền n ô n g n g h iệ p m ớ i n ê n n g o à i t h ờ i g ia n là m n ô n g , n h iề u la o đ ộ n g n ô n g nghiệp còn kiêm thêm n h iều công việc khác để tạo ng u ồ n th u nhập như: chăn nuôi với quy m ô nhỏ, xây n hà trọ cho th u ê hoặc làm n h ữ n g công việc tự do khác. 5. KẾT LUẬN Làng Gia Trung được lựa chọn n h ư m ột ví d ụ m inh họa cho n h ữ n g biến đổi về diện tích đất nông nghiệp và sự mai m ột của nghề nông trước tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa. Do diện tích canh tác n ô n g nghiệp còn lại quá ít và do quy hoạch chưa hoàn tất nên lãnh thổ sản xuất n ô n g nghiệp hiện nay ở Gia Trung không ổn định, bị biến động m ạn h và bị xen ghép với nhiều hoạt động kinh tế nhau, tạo th àn h m ột d ạn g kiến trúc "da báo" với các m ảng không gian nông nghiệp, công nghiệp, nhà ở, dịch vụ v.v... nằm xen cài với nhau,
  17. 228 Phan Tfiị Ngọc gây n ên sự m ất cân đối tro n g p h á t triển trong khi vẫn không đ áp ứ n g đủ n h u cầu không gian của người dân. Việc giảm tỷ lệ cư d ân n ô n g n g h iệp là rõ n ét n h ấ t và ph ù h ợ p với xu thế công nghiệp hóa, đ ô th ị hó a ở Gia Trung. Tuy nhiên, sự th o á t ly với nghề n ô n g của ngư ời n ô n g dân Gia Trung chưa xuất p h á t từ n h u cầu nội tại, có ch u ẩn bị, m à là sự bắt buộc. H oạt đ ộ n g sản xuất n ô n g nghiệp được d u y trì h iện nay đ an g đối m ặt với sự phát triển không b ền vững, n g u y cơ m ất đi sinh kế tru y ề n th ống đang d iễ n ra từng ngày. Khẩu hiệu "người cày có ruộng" đ an g dần trở thành xa lạ với người n ô n g dân, cái "m ác" n ô n g dân h iệ n nay thực chất k h ô n g p h ản ánh đầy đ ủ các đ ộ n g thái p h á t triển b ên trong của cộng đ ồ n g làng này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ngô Vương Anh (1998), Sự biến đổi của Phú Thượng - một xã nông nghiệp ven đô trong quá trình đô thị hóa, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ I, tập I: tr. 400-407. Nguyễn Sinh Cúc (2010), Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam trong quá trình đổi mới qua con số thống kê - thực trạng và giải pháp, in trong Kỷ yếu hội thảo Khoa học "Những vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.77. Denis Sautier, Đào Thế Anh, Phạm Công Nghiệp, Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nông nghiệp và phát triển đô thị tại Hà Nội, in trong Kỷ yếu "Phát triển bền vững vùng ven các đô thị tại Việt Nam", Diễn đàn Kinh tế và Tài chính Việt - Pháp (khóa IX), Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.108-148. Department for International Development (DFID). 2002a. Better livelihoods for poor people: the role of land policy. London. Downloaded from h t t p : / / w w w . d f i d .g o v . u k / . Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO). 2007. Proíitability and Sustainability of Urban and Peri-urban Agriculture, by René van Veenhuizen George Danso. Rome. Jonathan Rigg. 2009. Land, íarming, livelihoods, and poverty: Rethinking the links in the rural South. VVorld Development, 34.1:180-202. Dovvnloaded from http://agris.fao.org/agris-search/search.do? truy cập ngày 30.06.2016.
  18. s ự SU Y GliM SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN Đ Ô HÀ NỘI... 229 Phạm Sự Liêm, Làng ven đô, làng nội đô và nông nghiệp đô thị, Nguồn: http:// wvw.tonghoixaydungvn.org. MichaelLeaí, (2000), ''Vùng ven đô của Việt Nam: việc quản lý hành chính sự phát trùn đô thị của Hà Nội", Tạp chí Xã hội học, số 3 (71), tr. 11-22. Nguyễi Hữu Minh (2005), Biến đổi kinh tế - xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá trhh đô thị hóa". Lungisie xNJtsebeza, 2010, Land and Livelihoods in rural South Aírica: What prospects for agricultural activities? Downloaded from http://www. rinisp.org. Nông nỷĩiệp ven đô, Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki. Trần Th Minh Ngọc (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiệĩ áại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hè Nội. Lê Dư Phong (2007), Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựĩgcác khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trhhcông cộng phục vụ lợi ích quốc gia, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Vủ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XỈX, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Nguyễr Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường (chủ biên) (2009), Tác động của đô thịhca - công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và biến đổỉ văn hóa - xã hội ở tỉnh Vhh Phúc, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Nguyễr Euy Thắng (2009), "Tác động của đô thị hóa đến các mặt kinh tế - xã h ạ cia vùng ven đô và những vấn đề cần quan tâm", Tạp chí Xã hội học, s ố l (105), tr. 80-86. Lê Văn rnrởng (2008). Nhận dạng nông nghiệp đô thị Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ III, tập IV, tr. 299-308. Báo cáokhh tế - xã hội làng Gia Trung từ 2001 - 2010. Nguyễr. \ă n Sửu (2014). Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà bồi, Nxb. Tri thức, Hà Nội. The Speciil Programme for Food Security (FAO). 2001. Urban and Peri-urban Agriailture. Downloaded from http://www.fao.org.
nguon tai.lieu . vn