Xem mẫu
- Sự so sánh
Văn bản văn học
và tác phẩm văn học
- Mục lục
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................... 3
B. NỘI DUNG ........................................................................................ 4
I. KHÁI NIỆM. .......................................................................................................................4
II. Ý KIẾN CỦA ROMAN INGARDEN. ................................................................................8
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN BẢN VĂN HỌC VÀ TÁC PHẨM VĂN HỌC. ..................9
C. KẾT LUẬN ...................................................................................... 16
- A. MỞ ĐẦU
Lâu nay, không ít người đã đồng nhất hai khái niệm: văn bản học và tác
phẩm văn học. Ở nhà trường phổ thông, cả giáo viên ngữ văn và học sinh không có
ý thức phân biệt hai khái niệm này. Vì sao vậy? Phải chăng họ quan niệm văn bản
văn học là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, vậy thì sản phẩm ấy chính là tác phẩm
văn học? Tuy nhiên trong cái nhìn của lý luận văn học hiện đại, cách hiểu hai khái
niệm của văn bản văn học và tác phẩm văn học không là một, không thể đồng nhất
chúng. Nhà văn là người khai sinh ra văn bản văn học, nhưng sản phẩm này chưa
thể gọi là tác phẩm văn học theo cách hiểu hiện đại. Văn bản văn học mới chỉ là
một “kết cấu vẫy gọi” một “sơ đồ mời gọi”, tác phẩm văn học chỉ thật sự hình
thành thông qua sự đọc và chỉ thực sự trọn vẹn được trong cảm nhận của bạn đọc.
Một trong những cơ sở của nó là vì, chính người đọc bằng toàn bộ kinh nghiệm
thẩm mỹ của mình khi tiếp cận với tác phẩm đã đánh thức “nàng công chúa ngủ
trong rừng”, và lúc đó sinh thể nghệ thuật mới hiện lên trọn vẹn và tác phẩm văn
học mới trở nên đầy đặn. Như vậy, phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, có
thể nói như GS.TS. Trương Đăng Dung: tác phẩm văn học như là quá trình .Trong
cảm quan hậu hiện đại khi nói về tác phẩm văn học, giáo s ư đã khẳng định: văn
bản văn học có tính đa nghĩa và độ mở của nó khiến cho bạn đọc có nhiều cách lý
giải khác nhau và cơ hội tồn tại của các cách cắt nghĩa đều có khả năng. Và do vậy,
không thể có kết luận cuối cùng về tác phẩm văn học.
Như vậy, mối quan hệ giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học hẳn còn
nhiều ẩn số cần được giải mã. Thực ra, sự phức tạo trong mối quan hệ giữa chúng
xuất phát từ cách hiểu: tác phẩm văn học là gì? Theo quan niệm lý liận hiện đại.
Nhiều nhà nghiên cứu khoa học văn học ở Việt Nam đã lưu tâm đi tìm câu trả lời.
Câu nói của Roman Ingarden (người Ba Lan) đã gợi mở nhiều suy nghĩ và cách
hiểu mới về tác phẩm văn học: “Mọi tác phẩm văn học đều dang dở, luôn đòi hỏi
sự bổ sung mà không bao giờ ta đạt tới giới hạn cuối cùng bằng văn bản”. Một khi
cắt nghĩa được các yếu tố nào bên ngoài văn bản tác động đến chúng để văn bản
văn bản văn học thực sự trở thành tác phẩm văn học, chúng ta sẽ xác định đúng
mức mối quan hệ giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học.
- B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM.
I.1. Văn bản.
Văn bản là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên
cứu khác nhau. Do vậy, cách hiểu văn bản có rất nhiều định nhghĩa. Sự đa dạng,
phức tạp của văn bản khiến nhà ngôn ngữ học Nga Z.Vêginxev ngạc nhiên: “Các
nhà khoa học bắt tay vào nghiên cứu văn bản cũng không ngờ rằng họ phải làm
việc với một đối tượng mà về mặt tầm cỡ không thua kém gì vũ trụ. Thực chất đó
chính là vũ trị ngôn ngữ học”.
Theo các nhà ngôn ngữ học nước ngoài, văn bản là “tổng của những quan hệ
cấu trúc tìm được sự thể hiện ngôn ngữ học” (M.Lôtman), “ là một chuổi nào đó
các câu kết hợp với nhau trong khuôn khổ ý đồ chung của tác giả” (M.Nicolaeva).
Một định nghĩa khác được xem là trọn vẹn hơn, được trích dân nhiều hơn trong các
bài nghiên cứu: “Văn bản đó là tác phẩm của quá trình tạo lời, mang tính cách
hoàn chỉnh, được khách quan hóa dưới dạng tài liệu viết, được trau chuốt văn
chương trong các tài liệu viết, được trau chuốt văn chương theo loại hình tài liệu
ấy, là tác phẩm gồm tên gọi (đầu đề) và có một loại đơn vị riêng (những thể thống
nhất trên câu) hợp nhất lại bằng những loại hình liên hệ khác nhau bằng từ vựng,
ngữ pháp, logic, tu từ có một hướng đích nhất định và một mục tiêu thực dụng
(I.R.Gaperin).
Văn bản ,định nghĩa về nó cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học của
Việt Nam quan tâm. Trong dạy học phổ thông văn bản được xác định là: “ Văn bản
là một thể hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về nội dung, thống nhất về cấu trúc và
độc lập về giao tiếp. Dạng tồn tại điển hình của văn bản là dạng viết.
- Cách hiểu về văn bản như trên, ta thấy văn bản văn học là một dạng tiêu
biểu nhất của văn bản. Phân tích định nghĩa trên, ta nhận thấy: như một chỉnh thể
giao tiếp bậc cao, văn bản là một hệ thống vừa khép vừa mở. Tính chất khép của
văn bản thể hiện ở các dấu hiệu hoàn chỉnh về nội dung, hình thức, cấu trúc.
Những văn bản lại là một thực thể khách quan, sau khi ra đời sẽ tồn tại ngoài ý
muốn chủ quan của tác giả. Mỗi người đọc khi tiếp nhận văn bản sẽ có thể lý giải
nói theo những cách khác nhau. Đây là quá trình đồng sáng tạo của người đọc.
Ngay cả đối với người đọc và những thời điểm khác nhau (khi trẻ, lúc già, lúc học
vấn thấp khi học vấn cao, khi vốn sống mỏng, lúc đã từng trải…) cách lí giải (sự
hiểu) văn bản cũng có thể rất khác nhau. Theo lý giải này, văn bản lại là một hệ
thống mở.
Và phải chăng, chính quan niệm về văn bản. Như vậy, khiến cho việc hiểu
băn bản văn học và tác phẩm văn học không có sự phân biệt rạch ròi?
Dù sao, quan niệm đó đã cho thấy một đều rõ ràng: văn bản văn học là một
dạng tiêu biểu của văn bản.
Vậy thực chất văn bản văn học là gì ?
I. 2. Văn bản văn học.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” của ba tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi: “Văn bản văn học là một chỉnh thể nghĩa, một khối thống nhất
có tổ chức của các thành tố họp thành, một thông báo mà tác giả gửi tới người đọc,
người xem. Nghĩa của văn bản được xác định bởi quan hệ của nó mà thực tại ngoài
văn bản, với các văn bản khác, với từng cá nhân, với các ký ức và những phẩm
chất khác nữa của người phát và người nhận thông báo”. Với cuốn “Từ điển văn
học” bộ mới (2004, NXB Thế giới mới) quan niệm văn bản nghệ thuật căn bản
cũng thống nhất với hai ý kiến trên nhưng nhấn mạnh hơn ở vấn đề “văn bản nghệ
thuật thực hiện ba chức năng: truyền thông tin, chế biến thông tin mới, bảo quản
thông tin. Ở mức cao nhất, văn bản nghệ thuật thực hiện chức năng sáng tạo, nó là
“ máy phát” thông tin mới, bởi vậy sự tiếp nhận thông tin ở trong hệ thống của văn
- bản này là không bao giờ mang tính đơn nghĩa, người nhận thông tin “bao giờ cũng
có thái độ tích cực (thậm chí đồng sáng tạo) với thông báo nhận được: anh ta phải
giải mã nó, tức là chọn lấy một mã ý nghĩa thích hợp, hoặc thậm chí tạo ra một mã
mới”.
Còn với các nhà soạn sách giáo khoa Ngữ văn 10 nâng cao tập 1 hiện hành,
văn bản văn bản văn học cần hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng,
văn bản văn học là các loại văn bản ngôn từ trong đó ngôn từ được sử dụng một
cách nghệ thuật, tức là có nhịp điệu, hình ảnh, chức năng biểu cảm. Theo nghĩa hẹp
văn bản văn học là snả phẩm sáng tạo bằng hư cấu, tưởng tượng như thơ ca, tiểu
thuyết, kịch.
Có thể nói, các cách hiểu về văn bản văn học như vậy góp phần gợi ra ranh
giới để phân biệt băn bản văn học và tác phẩm văn học.
II.3. Tác phẩm văn học.
Như đã nói ở phần mở đầu, ở nhà trường phổ thông, giáo viên và học sinh
học ngữ văn chưa thật sự quan tâm phân biệt văn bản văn học và tác phẩm văn học.
Cho nên, khi có sự hiện diện của văn tự (ngôn từ), có kết cấu hoàn chỉnh, có hình
tượng thì học sinh hiểu đó là tác phẩm văn học. Thật ra sự nhầm lẫn này có căn
nguyên từ trong lịch sử lý luận văn học. Trong một thời gian dài, khi chưa có tư
duy lý luận hiện đại và hậu hiện đại, nhiều nhà nghiên cứu văn học đã bối rối trước
các khái niệm. Ngay ở phần “Dẫn luận” của công trình “Tác phẩm văn học”,
Roman Ingarden đã tỏ bày sự thật: “Chúng ta đối diện với một sự thật đáng chú ý:
hầu như hàng ngày chúng ta quan tâm đến tác phẩm văn học, chúng ta đọc, chúng
ta luôi cuốn chúng ta, làm chúng ta thích hoặc không thích, chúng ta đánh giá và
tranh luận, đưa ra những nhận xét khác nhau, viết bài nghiên cứu vẽ từng tác phẩm,
nghiên cứu lịch sử của chúng, (…) thế nhưng nếu có ai đó đặt câu hỏi: thực chất
tác phẩm văn học là gì, thì chúng ta buộc phải ngạc nhiên thừa nhận rằng chúng ta
không tìm được, câu trả lời đích thực và thỏa đáng câu hỏi này. Thật ra tri thức của
chúng ta về bản chất của tác phẩm văn học không chỉ rất thiếu mà trước hết là còn
- rất mơ hồ và bấp bênh” (Dẫn theo GSTS Nguyễn Khắc Sính, tiếp nhận văn học,
2007).
Thực ra, có nhiều ý kiến Đông Tây bàn về tác phẩm văn học. “ Tác phẩm
văn học là cái mà người đọc để cho nó xảy ra từ băn bản” (Heidegger). Quan điểm
có vẻ “nôm nả” này lại định hướng rằng: Thông qua hoạt động đọc của con người
để văn bản văn học biến thành tác phẩm.
Cũng ở cuốn “tác phẩm văn học”, Roman Ingarden đã đưa ra một thông điệp
gợi mở về cách hiểu về tác phẩm văn học cho các nhà nghiên cứu khoa học văn
học ở Việt Nam, đặc biệt là với GSTS. Trương Đăng Dung. Roman Ingarden quan
niệm: “Mọi tác phẩm văn học đều dang dở, luôn đòi hỏi sự bổ sung mà không bao
giờ ta đạt tới giới hạn cuối cùng bằng văn bản”. GS.TS. Trương Đăng Dung đã
nghiên cứu “ Tác phẩm văn học” của Roman Ingarden và từ đó đưa ra ý kiến về
cách hiểu tác phẩm văn học. Theo giáo sư, tác phẩm văn học như là quá trình, tác
phẩm là sự cụ thể hóa của văn bản. Và cho đến nay, quan niệm “ Mọi tác phẩm văn
học đều dang dở”( Roman Ingarden) được nhiều người đồng tình. Cho nên, cách
nói của nhà thơ Chế Lan Viên về văn học được diễn đạt dưới dạng hình tượng thơ
từ lâu rồi đến nay nhiều người lại thấy chí lý:
Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.
Nói chung, tác phẩm văn học là một sản phẩm của sáng tạo ngôn từ nghệ
thuật của chủ thể sáng tác vừa có ý thức ( chủ ý) vừa có trong vô thức. Chính chỗ
vô thức này tạo nên khoảng trống để người đọc tham gia vào văn bản để biến văn
bản thành tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học thường mang bốn đặc trưng cơ
bản. Trước hết, thông điệp ở đó luôn mang tính thẩm mỹ đối với người tiếp nhận.
Hơn nữa, thông điệp ở tác phẩm phải mới, không trùng lại nhàm chán. Đồng thời,
nó chính là sản phẩm riêng của nhà văn ( trừ văn học dân gian). Thêm nữa, tác
phẩm văn học là nơi người đọc khám phá, kí gởi. Dù đơn giản có mức nào, nó
cũng phải khơi gợi người đọc tìm hiểu, khám phá, nghĩa là diễn ra quá trình tiếp
nhận mà không dễ gì có sự thống nhất.
- II. Ý KIẾN CỦA ROMAN INGARDEN.
“ Mọi tác phẩm văn học đều dang dở, luôn đòi hỏi sự bổ sung mà không bao
giờ ta đạt tới giới hạn cuối cùng bằng văn bản”.
Đây là phát biểu của Roman Ingarden – một giáo sư, người Ba Lan – trong
công trình “Tác phẩm văn học” Giáo sư biện luận về phương thức tồn tại, hay còn
gọi là đời sống của tác phẩm văn học. Câu nói trên của ông hàm ý nhấn mạnh tính
“dang dở” của tác phẩm văn học. Vậy, nên hiểu “ dang dở” của tác phẩm văn học
là gì ? “Dang dở” có thể hiểu là tính không cố định, tính đa dạng, mơ hồ của tác
phẩm văn học. Sự tồn tại của nó không tĩnh mà động, không phải là sản phẩm cố
định mà là quá trình. Nó khác hẳn với tính hiện hữu, bất biến của văn bản văn học.
Đời sống của tác phẩm văn học phụ thuộc vào nhiều nhân tố, đặc biệt sự bổ sung
của người đọc quyết định sự tồn tại của tác phẩm văn học. Nếu như sản phẩm của
nhà văn được khai sinh,tức là văn bản văn học, nó sẽ hiện hữu ở giới hạn cuối cùng
của nó là văn bản được in thành sách và xuất bản, thì sự tồn tại của tác phẩm văn
học không có cái gọi là “giới hạn cuối cùng” như thế.
Có thể nói, phát ngôn của giáo sư Roman Ingarden đã mở ra một cách hiểu
khoa học về tác phẩm văn học. Theo đó tác phẩm văn học là quá trình dang dở,
một sinh thể động mà cái quyết định sự tồn tại và chất lượng của nó là sự “bổ
sung” của nhiều yếu tố. Vì sao ông quan niệm về tác phẩm văn học như vậy? Phải
chăng giáo sư Roman Ingarden đã xuất phát từ đặc trưng của tác phẩm văn học để
nêu ra hiện tượng này? Nhà văn khi sáng tác có cả ý thức và có chỗ vô thức. Tác
phẩm văn học, do đó cũng chứa đựng nhiều chỗ mơ hồ, không cụ thể, đa nghĩa.
Tác phẩm là một quá trình, tồn tại qua nhiều giai đoạn: Ý đồ, tưởng tượng, văn
bản, sự khách thể hóa ý đồ trong cấu trúc kí hiệu, sự cảm thụ của đối t ượng người
thưởng thức… mà mỗi giai đoạn ấy đều có thể điều chỉnh, thậm chí thay đổi của
nhà văn do nhiều tác động của yếu tố chủ quan hay khách quan.
Dù xuất phát từ cơ sở khoa học nào để nêu lên kết luận, vẫn có thể
thấy rằng, quan niệm của Roman Ingarden đã mở ra cho lý luận hiện đại
- một tư duy mới, một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ giữa văn bản
văn học và tác phẩm văn học.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN BẢN VĂN HỌC VÀ TÁC PHẨM VĂN HỌC.
III.1. Một số quan niệm về mối quan hệ giữa văn bản văn học và tác phẩm
văn học.
Có rất nhiều nhà lý luận nghiên cứu về mối quan hệ này, có thể tóm lược và
kể ra một số quan niệm sau:
- H.R. Jauss trong một số công trình của ông, đặc biệt trong mỹ học tiếp
nhận, đã phân biệt hai loại tầm đón nhận: tầm đón nhận đời sống và tầm đón nhận
thẩm mỹ. (Một loại là ảnh hưởng xác định thông qua văn bản diễn ra bên trong tác
phẩm, một loại là tiếp nhận xác định thông qua bạn đọc diễn ra bên ngoài tác phẩm
liên quan đến thế giới người đọc).
- J.M. Lotmann cho rằng, một trong những yếu tố cấu thành tác phẩm là văn
bản, nhưng văn bản chỉ tồn tại trong mối liên hệ với thực tại nằm ngoài văn bản,
mối quan hệ này cũng có mặt trong tác phẩm văn học. Cùng một tác phẩm văn học
mà có nhiều ảnh hưởng nghệ thuật khác nhau nghĩa là cùng một tập hợp các yếu tố
của văn bản sẽ có mối liên hệ với thực tại nằm ngoài văn bản của người đọc.
- J.Kristeva quan niệm văn bản luôn ở trong tư thế vận động, kí hiệu trong
văn bản nay nhiều nghĩa và có nhiều yếu tố hòa nhập vào nhau để làm nên tác
phẩm văn học.
Như vậy, các quan niệm trên đây dù chưa bao quát hết vấn đề. Nhưng phần
nào cho thấy mối quan hệ mật thiết mà không thể đồng nhất giữa chúng (văn bản
học và tác phẩm văn học).
III. 2. Mối quan hệ mật thiết giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học.
Theo cách hiểu hiện đại về tác phẩm văn học, thì trong một tác phẩm văn
học có hai phần: phần cứng và phần mềm. Phần cứng là văn bản, tức thông điệp
được nhà văn mã hóa nhằm khái quát hóa đời sống có chiều sâu, có ý nghĩa, có sức
hấp dân. Phần mềm là sự cảm thụ, giải thích đời sống xã hội tùy thuộc vào “lòng”
của người đọc. Nói cụ thể là phụ thuộc vào tuổi tác, nghề nghiệp, thời đại… để giải
- mã khoảng trống trong tác phẩm văn học mà nhà văn để lại. Như vậy, mỗi tác
phẩm không thể thiếu cái phần cứng là văn bản, cái hệ thống kí hiệu thuộc về sản
phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Muốn có ptác phẩm văn học – thông
điệp được giải mã – tất yếu ngay từ đầu phải có văn bản, cái chứa đựng thông điệp
được mã hóa.
Ngược lại, nếu văn bản văn học đã in thành sách mà không có quá trình tiếp
nhận của bạn đọc thì nó chỉ là những dòng kí hiệu khô cứng, câm lặng. Gía trị thực
sự của nó chỉ biểu hiện khi có sự “va chạm”, “giải mã” của người đọc. Nghiên cứu
sơ đồ hoạt động văn học dưới ánh sáng của quan niệm mới, ta càng thấy rõ sự mật
thiết trong mối quan hệ giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học. Ở đó, tác phẩm
văn học chỉ được khai sinh sau khi bạn đọc giải mã thông điệp vốn phong kín, mã
hóa ở văn bản văn học. Còn văn bản văn học chứa thông điệp với mã càng khó,
càng kích thích sự khám phá của người đọc, và như vậy sức hấp dẫn của nó càng
cao.
Bạn đọc
VBVH
Hiện thực Nhà văn (người
(Thông điệp người thụ
(thẩm mỹ) phát ngôn)
được mã hóa) ngôn
TPVH
(thông điệp
được giải mã)
III.3. Thực chất của mối quan hệ giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học:
Rõ ràng, giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học có một mối quan hệ mật
thiết, chi phối phần nào đến nhau. Tuy vậy, vẫn không thể đồng nhất văn bản văn
học và tác phẩm văn học làm một được. Văn bản văn học là sản phẩm của cá nhân
còn tác phẩm văn học là sản phẩm của lớp người đọc đồng đại và lịch đại khi tiếp
- nhận cùng một văn bản đó. Hơn nữa, tác phẩm văn học chứa đựng nhiều chỗ mơ
hồ, đa nghĩa bởi chủ thể sáng tác vừa có ý thức vừa có trong vô thức. Chính chỗ vô
thức này tạo nên khoảng trống để người đọc tham gia vào văn bản. Từ đó mở ra
cho đời sống của tác phẩm văn học một đời sống mới, một quá trình, tồn atị qua
nhiều giai đoạn: ý đồ, tưởng tượng, văn bản, sự khách thể hóa ý đồ trong cấu trúc
có tính kí hiệu, sự cảm thụ của người thưởng thức… mà mỗi giai đoạn đều có sự
điều chỉnh, thậm chí thay đổi của nhà văn do nhiều tác động của nhiều yếu tố chủ
quan hay khách quan. Và như vậy, dễ thấy phương thức tồn tại của tác phẩm văn
học có những nguyên tắc khác với văn bản văn học. Đời sống của tác phẩm văn
học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như bạn đọc, hiện tượng tiêu thụ văn học, thậm
chí ngay ở chính bản thân đặc trưng của tác phẩm văn học cũng làm cho tác phẩm
văn học mang một đời sống mới so với văn bản văn học. Và do vậy, mối quan hệ
giữa chúng được nhiều nhà nghiên cứu lý luận hiện đại khẳng định là không thể
đồng nhất. Sau đây chúng tôi phân tích cụ thể các yếu tố chi phối và tạo ra đời
sống mới của tác phẩm văn học, cũng chính là tạo ra khoảng cách “ranh giới” giữa
văn bản văn học và tác phẩm văn học.
III.3.1. Bạn đọc- đối tượng tiếp nhận văn học- mang đến cho tác phẩm văn
học một đời sống mới.
Có rất nhiều nhân tố tạo nên sự không đồng nhất giữa văn bản văn học và
tác phẩm văn học, mà nhân tố hàng đầu được xem là bạn đọc. Khi nhà văn cho đứa
con mình “chào đời” bằng việc xuất bản, in thành sách thì văn bản văn học mới chỉ
mang dáng vẻ hình thức ( cách nói của TS. Nguyễn Khắc Sính) của một tác phẩm
văn học. Chỉ khi nào người đọc xuất hiện thì mới có tác phẩm văn học theo cách
hiểu của lí luận văn học hiện đại. Nói như GSTS. Trương Đăng Dung “với lớp lớp
câu chữ phi vật thể, ẩn chứa nhiều nghĩa khác nhau, luôn biến động và không thể
khoanh vùng, tác phẩm văn học có phương thức tồn tại riêng thông qua người đọc.
Và giá trị văn học (nếu có) chỉ hình thành trong quá trình đọc và sau (khi đọc mà
thôi “ Trương Đăng Dung, 2004”) tác phẩm văn học như là quá trình.
- Như vậy, nhân tố bạn đọc đã biến sản phẩm của cá nhân (văn bản văn học)
trở thành sản phẩm của lớp người đọc đồng đại và lịch đại khi tiếp nhận văn học.
Sản phẩm ấy trở thành tác phẩm văn học với nhiều cách tiếp nhận khác nhau của
đa dạng đối tượng bạn đọc, sự phong phú của đối tượng bạn đọc thể hiện ở chỗ,
công chúng bạn đọc có sự khác nhau về vốn sống, trình độ văn hóa, học vấn, kinh
nghiệm thẩm mỹ… của từng người thậm chí mỗi người đọc cũng có cách tiếp nhận
một văn bản khác nhau ở từng thời điểm. Rồi thời đại văn học khác nhau cũng chi
phối cách hiểu tác phẩm văn học. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thế kỷ XIX và
đều thế kỷ XIX đã từng có giá trị văn học khác nhau do chính người đọc tạo ra.
Minh chứng cho sự biến đổi, đa dạng “ dang dở” của tác phẩm văn học do
đối tượng tiếp nhận, có thể dẫn ra hàng loạt tác phẩm. Chẳng hạn, bạn đọc đã từng
tiếp nhận bài thơ “Tiếng Thu” của Lưu Trọng Lư ra sao?
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực.
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô…
Đã từng có ý kiến, cho rằng hạn chế của bài thơ nằm ở nhận thức mơ hồ về
chính trị. Bởi có người nghĩ rằng nỗi buồn man mác, mênh mang gieo vào lòng
người từ tiếng thơ này có tác dụng gì trước họng súng phát xít đang chĩa về hành
tinh trong thời đại chiến thế giới, thứ hai. Ngày nay, chúng ta trân trọng vẻ đẹp của
“không khí” mơ hồ nghệ thuật ở phi phẩm. Ít ai đặt bài thơ vào bối cảnh chiến
tranh chống phát xít để “cân đo” giá trị của tác phẩm này !
- Thêm một dẫn chứng nữa nhằm minh hoạ cho sự đa dạng của công chúng
khi tiếp nhận tác phẩm văn học. Truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao, văn bản
được in ở sách giáo khoa trước năm 2000, giáo viên và học sinh đón đọc văn bản
này với kết quả giải mã thông điệp khác nhau. Học sinh sẽ đi đến kết luận cuối
cùng là: truyện ngắn “mở đường” cho giới văn nghệ sĩ về vấn đề nhận đường, nhà
văn phải có cái nhìn đúng về cách mạng, về người nông dân và vai trò của mình.
Còn giáo viên, ngữ văn sẽ nhận ra thông điệp của văn bản là: Cần có “đôi mắt”
đúng đắn, có “cái tâm” đúng đắn để nhìn đời và nhìn người trong mọi lúc mọi nơi.
Ở đây, chúng ta phát hiện ra một mối quan hệ khác của văn bản văn học và
tác phẩm văn học. Giữa chúng không đồng nhất mà xuất hiện mối quan hệ phức
tạp giữa cái ổn định và cái biến đổi. Văn bản văn học là một tồn tại khách quan,
luôn bất biến theo thời gian bởi nó có một hình thức, một cơ sở chữ nghĩa nhất
định, người đọc không có quyền thêm bớt, bịa đặt. Còn tác phẩm văn học thì luôn
luôn biến đổi bởi trong quá trình tiếp nhận, người đọc sẽ có những cắt nghĩa khác
nhau về tác phẩm phụ thuộc vào “lòng” người đọc. “Sự cụ thể hóa” đây là cách gọi
của Roman Ingarden. Chính thông qua sự cụ thể hóa này mà khoảng trống trong
văn bản văn học được bù lấp. Sự cụ thể hóa ấy có khi khác nhau đến mức đối lập
(chẳng hạn, cách tiếp nhận bài thơ “ Ông Đồ “ của Vũ Đình Liên). Vì thế có người
nói, văn bản chỉ có một trong khi tác phẩm có vô hạn.
Vậy yếu tố nào ở người đọc nhằm biến văn bản văn học thành tác phẩm văn
học? Qúa trình phức tạp này phục thuộc vào cảm xúc và lý trí của bạn đọc. Khi “
tiếp cận” tác phẩm, người đọc đi từ bước cảm thụ đến bước tiếp nhận chiều sâu
thông qua phân tích, cắt nghĩa tác phẩm. Nhưng bản chất của văn học là mơ hồ, đa
nghĩa nên những điều nhà văn gởi gắm trong văn bản văn học, không phải bạn đọc
nào cũng “giải mã” được và điều thú vị nữa là, có những điều nhà văn không hề
nghĩ đến trong sáng tác lại được bạn đọc phát hiện, đúng hơn là “sáng tạo” ra khi
đọc tác phẩm. Như vậy, rõ ràng có mối quan hệ giữa văn bản văn học và tác phẩm
văn học, mà thực chất của mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ giữa nhà văn
và bạn đọc thông quan văn bản. Thông qua việc đọc tác phẩm, bạn đọc trở thành
- người tạo nghĩa, bổ sung các giá trị cho văn bản và góp phần thẩm định chất lượng
tác phẩm. Mối quan hệ này rất biện chứng, bình đẳng, có trách nhiệm như nhau,
nếu chỉ nhấn mạnh mặt này hay mặt kia của quan hệ sẽ là cực đoan và vô lý.
III.3.2. Tính mơ hồ, đa nghĩa của tác phẩm văn học một yếu tố góp phần tạo
tính dang sở của tác phẩm văn học.
“Em là ai cô gái hay này tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây hay là mây là suối
Thịt da em là sắt hay là đồng…”
Các cây thơ trên đây của Tố Hữu đã làm nhiều người phân vân. Viết về chị,
người con gái Việt Nam kia mà. Sao lại là em? Là nàng tiên? Vậy điều gì làm câu
chữ tạo ra nhiều băn khoăn cho khách yêu thơ đến vậy? Đấy chính là do một đặc
trưng của thơ, của văn học: tính đa nghĩa, mơ hồ.
Văn chương có tính đa nghĩa, mơ hồ bởi ngay khi sáng tác, nhà văn có chỗ ý
thức và cả phần vô thức. Tác phẩm lại là một quá trình tồn tại qua nhiều giai đoạn:
ý đồ, tưởng tượng, văn bản, sự khách thể hóa ý đồ trong cấu trúc có tính kí hiệu, sự
cảm thụ của người thưởng thức… mà mỗi giai đoạn đều có sự thêm bớt, điều
chỉnh, thậm chí những yếu tố khách quan tác động làm thay đổi…
Văn chương với tính mơ hồ, đa nghĩa tạo nên cái hay, sự độc đáo của chúng.
Văn chương nếu quá cụ thể, rõ ràng, một nghĩa hẳn không có sức hấp dẫn với đông
đảo bạn đọc. Kiểu như: “Con mèo con chó có lông, cây tre có đất nồi đồng có
quai” thì quá đơn giản, chẳng thể mời gọi bạn đọc khám phá. Tác phẩm văn học
với ưu thế đa nghĩa, mơ hồ đã mô tả đúng bản chất con người với các chiều hướng
thiện ác cùng tồn tại. Làm sao có thể đo được đồ thị tâm trạng con người, diễn tả
chính xác các cung bậc trong nội tâm con người? Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác
phẩm “Đời thừa” (Nam Cao) có khả năng kỳ diệu trong việc diễn tả bi kịch tâm
hồn người trí thức, cuộc đấu tranh dai dẳng, đau đớn muốn vượt ra khỏi cuộc sống
đời thừa…
- Đọc bài thơ “Mùa xuân chín” của thi sĩ Hàn Mặc Tử, mấy ai khỏi phải phân
vân: Mùa xuân tự nhiên, mùa xuân ẩn dụ hay mùa xâun tượng trưng? Còn chín ở
đây được hiểu theo nghĩa nào? Trái xuân chín đỏ, ứ mọng sắc xuân hay là khoảnh
khắc duy nhất của đất trời, của lòng người bừng nở, ngân vang và rộn rã tỏa hương
?
Chỉ qua một vài minh chứng, cho thấy chính “độ nhòe” của tác phẩm văn
học tạo ra nhiều cách tiếp nhận khác nhau về một tác phẩm. Và vì vậy, văn bản văn
học có một, còn tác phẩm khi “đi qua” mỗi người đọc sẽ hình thành thêm…và như
thế ,khoảng cách giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học ngày càng xa.
III.3.3. Tiêu thụ văn học – yếu tố góp phần định hướng sự tiếp nhận tác
phẩm văn học.
Tác phẩm văn học cũng là một loại hàng hóa, vì thế nó cũng phải tuân theo
quy luật lưu thông hàng hóa. “Trực tiếp của sản xuất là tiêu thụ, mà trực tiếp của
tiêu thụ là sản xuất: (Marx), sản phẩm văn bản văn học trong cơ chế tiêu thụ cũng
nằm trong quy luật đó. Tuy niên, quy trình tiêu thụ văn học có những điểm không
trùng khớt với quy trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa thông thường.
Sản phẩm được nhà văn sáng tạo ra (văn bản) là sản phẩm chia thành, khi
vừa đến tay người tiêu dung tiêu thụ văn học. Chẳng hạn, một khi đời sống xã hội
của con người “bị bao vây” bởi sự bùng nổ thông tin, nhịp sống hiện đại, các tiểu
thuyết đồ sộ, nhiều tập có còn thích hợp cho bạn đọc ngày nay? Vậy nên, đòi hỏi
nhà văn phải lựa chọn cách viết mới, sản xuất đối tượng sao chophù hợp với yêu
cầu mới của người tiêu dùng…
Thêm nữa, thị hiếu thẩm mỹ và xu thế thời đại cũng định hướng sáng tạo
văn học. Sau những năm 75 của thế kỷ trước, chúng ta đã có độ lùi để nhìn về bản
chất của chiến tranh, nó gây ra bao mất mát đau thương. Do đó, văn học Việt Nam
giai đoạn 1975-2000 có không ít tác phẩm phản ánh thực chất “máu và nước mắt”
đủ dạng trong và sau chiến tranh như: “Họ đã trở thành đàn bà”,“Người sót lại của
rừng cười”…
- Và người đọc lý tưởng thường có nhu cầu đồng sáng tạo, do vậy nhà văn
hiện đại đã “sản xuất” nhiều văn bản có cách kết thúc mở chăng hạn“Mùa hoa cải
ven sông” ( Nguyễn Quang Thiều), “Người sót lại của rừng cười” ( Võ Thị Hảo)…
đã sáng tạo theo hướng đó.
Như vậy, mối quan hệ giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học có sự chi
phối lẫn nhau mà tác nhân tạo ra sự chi phối này có phần của tiêu thụ văn học.
Trong tiêu thụ văn học phải kể đến vai trò của người lãnh đạo, quản lý, định hướng
nghệ thuật. Ta hiểu vì sao những năm 1945 – 1975, dưới sự lãnh đạo văn nghệ của
Đảng, hàng loạt văn bản văn học đã sáng tạo theo hướng phục vụ chính trị, cổ vũ
chiến đấu nên cảm hứng chủ đạo của nhièu văn bản văn học là lãng mạn cách
mạng.
C. KẾT LUẬN
“ Tác phẩm văn học là gì?”, tư duy lí luận hiện đại và hậu hiện đại đã gợi
mở ra câu trả lời. Nhà nghiên cứu khoa học văn học Roman Ingarden quan niệm:
“Mọi tác phẩm văn học đều dang dở, luôn đòi hỏi sự bổ sung mà không bao giờ
- đạt tới giới hạn cuối cùng bằng văn bản”, Giáo sư Roman Ingarden đã nhấn mạnh
tác phẩm văn học luôn ở dạng “dang dở”, không hoàn thành. Người đọc ở các thế
hệ sẽ bằng sự cụ thể hóa của mình, biến mỗi văn bản học học thành cấp số nhân
nhiều lần tạo ra tác phẩm văn bản học. Bởi sự đa dạng của công chúng văn học.
Khách yêu văn chương đủ mọi lứa tuổi, tâm lý, tình cảm, học vấn khác nhau, việc
tiếp nhận chắc nhắn sẽ phong phú vô c ùng. Phát ngôn của Roman Ingarden đã hàm
ý khẳng định, tác phẩm văn học là không cố định, không tĩnh mà động, nó như là
quá trình mà chính người đọc quyết định tính chất “mở”, không có giới hạn cuối
cùng” của tác phẩm văn học. Ngay ở câu nói cũng gợi phần nào mối quan hệ giữa
văn bản văn học và tác phẩm văn học. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết m à
không thể đồng nhất, chúng chi phối lẫn nhau không chỉ do tác động của ban đọc
mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Qúa trình sáng tạo văn bản, nhà văn có
phần ý thức và cả vô thức tạo ra khoảng trống ở văn bản văn học. Bản chất của văn
học lại là tính mơ hồ, đa nghĩa. Thêm nữa là vấn đề tiêu thụ văn học… Có thể nói
quá trình đi từ văn bản văn học và tác phẩm văn học, mối quan hệ của chúng đã có
sự chi phối của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan.
Tóm lại, mối quan hệ mật thiết mà không đồng nhất, chi phối qua lại lẫn
nhau giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học đã được nhiều nhà nghiên cứu
khoa học văn học khẳng định. Mối quan hệ này giữa chúng thực chất là mối quan
hệ giữa nhà văn và bạn đọc thôn qua văn bản. Tác phẩm văn học rõ ràng không có
“giới hạn cuối cùng bằng văn bản”. Câu nói ngắn gọn mà xã nêu đúng bản chất của
tác phẩm văn học theo quan niệm hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Đăng Dung, 1198, Từ văn bản đến tác phẩm văn học.
- 2. Trương Đăng Dung, 2004, Tác phẩm văn học như là quá trình.
3. Nguyễn Khắc Sinh, 2006, phong cách thời đại nhìn từ một thể loại văn
học, NXB văn học, H.
4. Trần Đình Sử, 2004, tuyển tập, tập 1, nxb Giáo dục, H.
5. Trần Đình Sử, lý luận và phê bình văn học, NXB nhà văn, H.
6. Nhiều tác giả, 1983, nhà văn bàn về nghề văn, Hội văn học nghệ thuật
Quảng Nam – Đà Nẵng.
7. Vũ Dương Qũy, 2000, Trên đường bình văn, NXB Giáo dục.
8. Nguyễn Nguyên Trứ, 1994, thơ và thẩm bình thơ, NXB Giáo dục.
9. Roman Ingarden: Tác phẩm văn học (Trương Đăng Dung dịch và giới
thiệu.)
nguon tai.lieu . vn