- Trang Chủ
- Chính trị học
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và tác động của nó đến tương lai của chủ nghĩa xã hội
Xem mẫu
- Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 20
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƢ BẢN
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN TƢƠNG LAI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
ThS. Lê Thị Mến
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản có tính xã hội hóa
cao đã mang tính chất toàn cầu ngày càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư
nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó chỉ có thể giải quyết bằng một cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển.
Từ khoá: Chủ nghĩa tư bản (CNTB), chủ nghĩa xã hội (CNXH), chủ nghĩa
cộng sản, lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ.
1. Đặt vấn đề đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công
giai đoạn là CNTB tự do cạnh tranh và nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ
CNTB độc quyền mà giai đoạn tột cùng công lên kỹ thuật cơ khí, sang tự động
của nó là CNTB độc quyền nhà nước. hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và
CNTB đã đem lại những thành tựu nhất công nghệ là quá trình giải phóng sức
định cho xã hội loài người. Tuy nhiên, lao động, nâng cao hiệu quả khám phá
bên cạnh đó, CNTB cũng đã gây ra và chinh phục thiên nhiên của con
những tiêu cực mang tính toàn cầu. người, đưa kinh tế nhân loại bước vào
CNTB hiện đại ngày nay đã tự điều thời đại của kinh tế tri thức.
chỉnh để thích nghi với điều kiện, tình Thứ hai, chuyển nền sản xuất nhỏ
hình mới của thế giới. Tuy vậy, những thành nền sản xuất lớn hiện đại. Sự ra
yếu tố bất ổn định trong bản thân nền đời của CNTB đã giải phóng loài người
kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn còn nguyên thoát khỏi đêm trường trung cổ của xã
vẹn. Điều đó có ảnh hưởng và tác động hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh
rất lớn cho sự ra đời của CNXH - với tư tế tự nhiên, chuyển sang phát triển kinh
cách là một xã hội tốt đẹp hơn so với tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. CNTB ra
CNTB - trên phạm vi toàn thế giới. đời chưa được 100 năm mà đã tạo ra
2. Sự phát triển của CNTB và tác được đống của cải vật chất khổng lồ
động của nó đến tƣơng lai của chủ bằng tất cả các xã hội trước cộng lại.
nghĩa xã hội Thứ ba, thực hiện xã hội hóa sản
Trước hết, hãy xem xét những mặt xuất. CNTB đã thúc đẩy nền sản xuất
tích cực của CNTB đối với sự phát triển của hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức
sản xuất xã hội. Những thành tựu đó là: điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó
Thứ nhất, về phát triển lực lượng là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về
sản xuất. Quá trình phát triển của CNTB chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là sự phát
- Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 21
triển của quá trình phân công lao động quan hệ sở hữu, tổ chức - quản lý và
xã hội, sản xuất tập trung với qui mô phân phối, nhưng về cơ bản mâu thuẫn
hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp này vẫn chưa được giải quyết. Biểu hiện
tác lao động sâu sắc, mối liên hệ kinh tế cụ thể của những mâu thuẫn đó như sau:
giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực Một là, mâu thuẫn giữa CNTB và
ngày càng chặt chẽ,…Tất cả làm cho các CHXH. Mâu thuẫn này tồn tại xuyên
quá trình sản xuất phân tán, nhỏ lẻ được suốt trong thời đại quá độ từ CNTB lên
liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Biểu
thành một hệ thống, một quá trình sản hiện trong các mưu đồ của thế lực đế
xuất xã hội. quốc, trong diễn biến hòa bình, âm mưu
Tuy nhiên, những thành tựu của lật đổ,…
CNTB đạt được trong sự vận động đầy Hai là, mâu thuẫn giữa tư bản và
mâu thuẫn. Điều đó thể hiện ở hai xu lao động. Mâu thuẫn này thể hiện ở sự
hướng trái ngược nhau là xu thế phát phân cực giàu ngèo và tình trạng bất
triển nhanh chóng và xu thế trì trệ của công xã hội tăng cao. Cụ thể: bộ phận
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sỡ dĩ như các gia đình giàu có ở Mỹ chiếm 10%
vậy là do yêu cầu nội tại và xu hướng dân số nhưng chiếm tới 86% tổng giá trị
tăng nhanh tốc độ phát triển lực lượng cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, tài
sản xuất do sự tác động của cuộc cách chính khác.
mạng khoa học và công nghệ. Ngoài ra, Ba là, mâu thuẫn giữa các dân tộc
còn phải kể đến sự thống trị của độc
thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế
quyền tư bản chủ nghĩa đã gây ra những
quốc. Ngày nay, biểu hiện của mâu
nhân tố ngăn cản của sự tiến bộ kỹ thuật
thuẫn này là giữa một bên là các nước
và phát triển của sản xuất.
nghèo, kém phát triển với một bên là các
Sự tồn tại song song hai xu thế đó
nước giàu, phát triển. Trong khi thu
trong CNTB, một mặt nói lên rằng
nhập bình quân đầu người của các nước
CNTB hiện đại ngày nay vẫn còn sức
giàu lên đến 40 - 50 nghìn USD thì con
sống, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
vẫn còn có thể tự điều chỉnh và trong số này ở các nước nghèo, kém phát triển
giới hạn nhất định, nó còn có thể thích chỉ là vài trăm đến vài nghìn USD.
ứng với nhu cầu phát triển của lực lượng Bốn là, mâu thuẫn giữa các nước
sản xuất và thúc đẩy xã hội tư bản phát CNTB với nhau. Chủ yếu ở các trung
triển. Song, mặt khác điều đó cũng nói tâm kinh tế chính trị hàng đầu thế giới
lên rằng, CNTB đang vấp phải những và giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc
giới hạn nhất định. Giới hạn này bắt gia, thể hiện thông qua các cuộc chiến
nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của CNTB, tranh thương mại, chiến tranh về đầu tư
đó là mâu thuẫn giữa trình độ phát triển, kỹ thuật, tài chính,…
xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất Bên cạnh đó, trong quá trình phát
với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ triển, CNTB cũng đã gây ra những hậu
nghĩa về tư liệu sản xuất. Mặc dù CNTB quả nặng nề cho nhân loại, như hai cuộc
đã có những điều chỉnh nhất định trong chiến tranh thế giới đẫm máu, hàng trăm
- Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 22
cuộc chiến tranh cục bộ khác; chạy đua vũ Rõ ràng là với những thành tựu của
trang, ô nhiễm môi trường; nạn đói nghèo CNTB, đó là sự chuẩn bị tốt nhất những
và bệnh tật của hàng trăm triệu người,… điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của
nhất là ở các nước chậm phát triển. CNXH - với tư cách là một xã hội tốt
Như vậy, mặc dù CNTB còn có đẹp hơn so với CNTB - trên phạm vi
những hạn chế chưa thể khắc phục toàn thế giới. Đây chính là những tiền đề
được, song, có thể nói rằng, CNTB lại vật chất đầy đủ và tiền đễ xã hội chín
vượt qua được những cuộc khủng muồi cho sự ra đời xã hội chủ nghĩa
hoảng, mà có lúc hầu hết các đảng trong bối cảnh của thời đại ngày nay, đó
cộng sản và công nhân trên thế giới là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
cho rằng không có lối thoát, để vươn trên phạm vi toàn thế giới. Các nước đi
lên giành chiến thắng trong cuộc chiến lên CNXH có thể quá độ trực tiếp hay
tranh lạnh. Sỡ dĩ CNTB làm được điều gián tiếp phụ thuộc hoàn cảnh lịch sử cụ
đó vì CNTB đã biết biến đổi để thích thể của từng nước, nhưng dù quá độ kiểu
nghi và tồn tại, phát triển trong điều nào đi chăng nữa thì cũng dựa trên
kiện lịch sử mới. Có thể thấy sự biến những tiền đề của CNTB đã tạo ra.
đổi đó trong thực tế của CNTB, như sự Thực chất chế độ CNXH ở Việt
biến đổi về chất của lực lượng sản Nam là: thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ
xuất, sự đẩy nhanh quá trình quốc tế qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong văn
kiện đại hội lần thứ IX của Đảng ta nhấn
hóa phương thức sản xuất tư bản chủ
mạnh: con đường đi lên của nước ta là
nghĩa, sự thích ứng của giới kinh
sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua
doanh, những cải biến trong các tầng
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
lớp xã hội,…Với chiến lược điều chỉnh
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
để thích nghi đó đã chuyển hướng nền
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa trở
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những
nên năng động, có hiệu quả rõ rệt, đặc
thành tựu mà nhân loại đạt được dưới
biệt, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
thích nghi được và đang tìm cách
khoa học và công nghệ, để phát triển
chung sống hòa bình với những căn
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
bệnh đã thành mãn tính. Đây chính là
kinh tế hiện đại. Thực tiễn cũng cho
sự thích nghi bên trong của nền kinh tế.
thấy, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ
Còn với bên ngoài, CNTB đã lợi dụng qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất
quá trình toàn cầu hóa để mở rộng thị yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp
trường, áp đặt các nước kém phát triển với xu thế của thời đại, với đăc điểm lịch
với những điều kiện ngày càng có lợi sử - cụ thể của cách mạng Việt Nam,
cho các nước phát triển. Điều này đã đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta.
đem lại cho CNTB một sự chiến thắng 3. Kết luận
trong cuộc chiến tranh lạnh. Và dù sao Như vậy, xét đến cùng, với những
thì, hiện tại, CNTB vẫn là chế độ xã thành tựu và hạn chế của CNTB hiện
hội phát triển và giàu nhất hiện nay. đại ngày nay, C.Mác và Ph.Ăngghen
- Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 23
đã rút ra kết luận rằng: hình thái kinh thuốc cứu chữa, quan trọng hơn là mâu
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ thay thuẫn cơ bản của bản thân CNTB vẫn
thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ chưa được giải quyết. Mâu thuẫn đó
nghĩa, đây là tất yếu khách quan, phù chỉ có thể giải quyết bằng một cuộc
hợp với yêu cầu của quy luật quan hệ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập
sản xuất - lực lượng sản xuất. Sự thay hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
thế đó là phù hợp với quy luật tiến hóa nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ
của lịch sử xã hội loài người. Bởi lẽ, nghĩa nhằm mở đường cho lực lượng
những yếu tố bất ổn trong bản thân nền sản xuất phát triển. Vì thế, dù gọi là
kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn còn CNTB hiện đại ngày nay thì bản chất
nguyên vẹn, những mâu thuẫn về kinh của nó vẫn là CNTB để tiến lên một xã
tế - chính trị vẫn còn tiềm ẩn, những hội cao hơn, đó là CNXH và chủ nghĩa
căn bệnh mãn tính vẫn chưa có phương cộng sản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2012. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. 2001. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Trần Thị Vinh. 2011. Chủ nghĩa tư bản thế kỷ XX và thập niên đầu thế kỷ XXI-một
cách tiếp cận từ lịch sử, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
[4] Michel Beand, (Người dịch: Hương Giang). 2002. Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ
1500 đến 2002, NXB Thế giới.
[5] Đỗ Thanh Bình (Chủ biên), Nguyễn Công Khanh, Ngô Minh Oanh, Đặng Thanh
Toán. 2008. Lịch sử thế giới hiện đại, quyển 1, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
nguon tai.lieu . vn