Xem mẫu

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

SỰ PHÂN BỐ GENOTYPE HPV TRÊN BỆNH NHÂN  
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
Cao Minh Nga*,**, Trần Thiện Toàn** 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Ung thư cổ tử cung là loại ung thư được xếp hàng thứ hai trong số các ung thư phổ biến của phụ 
nữ trên thế giới. Ung thư cổ tử cung có liên quan chặt chẽ với nhiễm các type Human papillomavirus (HPV) 
nguy cơ cao đường sinh dục, cùng với các yếu tố ký chủ và những thay đổi về di truyền/tế bào. Khoảng 50% số 
người bị ung thư cổ tử cung nhiễm HPV 16. HPV 16 và HPV 18 là hai type gây ung thư cổ tử cung chủ yếu.  
Mục tiêu: xác định tỉ lệ nhiễm HPV, sự phân bố các genotype HPV và các yếu tố liên quan ở những phụ nữ 
được làm xét nghiệm HPV‐DNA từ dịch phết cổ tử cung. 
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang trên các phụ nữ từ 18 ‐ 89 tuổi được lấy mẫu phết cổ 
tử  cung  để  phát  hiện  HPV‐DNA  tại  Bệnh  viện  Đại  học  Y  Dược  TP.  HCM  trong  ba  năm,  từ  1/7/2010  đến 
30/6/2013.  Phát  hiện  HPV‐DNA  bằng  kỹ  thuật  real‐time  PCR  sử  dụng  mẫu  dò  Taqman  đặc  hiệu.  Định 
genotype HPV bằng phương pháp lai phân tử (reverse dot‐blot). 
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV trong nhóm đối tượng nghiên cứu là 18,03%, trong số đó nhiễm các type HPV 
nguy cơ cao chiếm 79,14%; nhiễm các type HPV nguy cơ thấp và đồng nhiễm cả 2 nhóm đều cho tỉ lệ là 10,43%. 
Các  genotype  thường  gặp  trong  nhóm  nguy  cơ  cao  là  16,  18,  58;  trong  nhóm  nguy  cơ  thấp  là  11,  81.  Đồng 
nhiễm từ 2 loại genotype trở lên chiếm tỉ lệ khá cao (26,96%).  
Kết  luận: Tỉ lệ nhiễm các type HPV nguy cơ cao khá phổ biến. Cần có kế hoạch giám sát chặt chẽ những 
trường hợp này để phát hiện sớm ung thư cổ tử cung.  
Từ khóa: HPV, nhiễm HPV, ung thư cổ tử cung 

ABSTRACT 
THE HPV GENOTYPE DISTRIBUTION AMONG WOMEN PATIENTS  
AT THE UNIVERSITY MEDICAL CENTER IN HO CHI MINH CITY 
Cao Minh Nga, Tran Thien Toan  
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 372 ‐ 377 
Background: Cervical Cancer is second most common cancer among women worldwide. Cervical cancer is 
caused  by  persistent  high‐risk  HPV  infection,  along  with  host  factors  and  cellular/genetic  changes.  HPV  16 
accounts  for  approx.  50%  of  all  cervical  cancers  worldwide.  HPV  16  and  HPV  18  are  the  most  prevalent 
carcinogenic types  
Objectives:  In  order  to  investigate  the  HPV  infection  rate,  the  genotype  distribution  of  HPV  and  the 
correlation factors among women which were tested HPV‐DNA from cervical samples 
Methods: Retrospective, descriptive and cross‐sectional method from cervical samples of women 18  to  89 
years of age at University Medical Center HCM city. Data of HPV genotypes and of some other factors from July 
1st, 2010 to June 31th, 2013 were analyzed. Detecting HPV‐DNA by real‐time PCR method with specific probe 
Taqman. HPV genotyping was done by dot blot hybridization. 
Results: the HPV infected rate was 18.03%, widespread high risk HPV types were 79.14% and low risk 
* BM Vi sinh – Khoa Y – Đại học Y Dược TP. HCM** Khoa XN ‐ Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Cao Minh Nga  ĐT: 0908361512 
Email: pgscaominhnga@yahoo.com 

372

Chuyên Đề Nội Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

HPV types were 10.43%, confection of both groups was 10.43%. The common HPV genotypes in high risk group 
were 16, 18, 58; in low risk group were 11, 81. Confection of more one HPV genotypes were 26.96%.  
Conclusions: The HPV 16 and HPV infected rate was high. These cases need finding the changes in the 
cells of the cervix by Pap test to detected early cervical cancer. 
Keywords: HPV, HPV infection, cervical cancer. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung  thư  cổ  tử  cung  là  một  trong  những 
bệnh  ung  thư  liên  quan  đến  nhiễm  vi  sinh  vật. 
Từ  thập  niên  70  của  thế  kỷ  XX,  human 
papillomavirus  (HPV)  được  coi  như  một  trong 
những tác nhân gây biến đổi tế bào cổ  tử  cung 
(dị  sản  cổ  tử  cung),  tiền  đề  của  ung  thư  cổ  tử 
cung. Khoảng trên 90% trường hợp ung thư  cổ 
tử cung được phát hiện có liên quan đến nhiễm 

‐  Xác  định  tỉ  lệ  nhiễm  HPV  trên  các  đối 
tượng  phụ  nữ  có  chỉ  định  xét  nghiệm  tại  Bệnh 
viện Đại Học Y Dược TP. HCM cơ sở 1.  
‐ Tìm hiểu sự phân bố các genotype HPV.  
‐  Tìm  hiểu  mối  liên  quan  giữa  nhiễm  HPV 
và các yếu tố khác. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hồi cứu và thiết kế cắt ngang 

HPV(1,4). Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới 

Đối tượng nghiên cứu: 

(WHO), trong các nguyên nhân của ung thư cổ 

Phụ  nữ  từ  18  trở  lên,  được  làm  xét  nghiệm 
phết cổ tử cung để phát hiện và định genotype 
HPV  tại  Phòng  Sinh  học  phân  tử  ‐  Khoa  Xét 
nghiệm ‐ Bệnh viện Đại Học Y Dược TP. HCM 
(cơ sở 1) trong 3 năm, từ 1/7/2010 đến 30/6/2013. 

tử  cung  ở  phụ  nữ  thì  82%  là  có  liên  quan  đến 
nhiễm  HPV  ở  các  nước  đang  phát  triển.  Nhiều 
nghiên cứu trên  thế  giới  đã  khẳng  định  sự  liên 
quan mật thiết giữa HPV và ung thư cổ tử cung. 
Ngoài ra HPV còn có vai trò trong ung thư vùng 
hậu  môn,  âm  hộ,  âm  đạo  và  dương  vật  cũng 
như  một  số  ung  thư  vùng  hầu  họng.  HPV  có 
khoảng  120  type,  trong  đó  có  các  type  nguy  cơ 
cao  thường  gây  ung  thư  và  các  type  nguy  cơ 
thấp ít khi gây tiến triển đến ung thư. 
Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung chiếm tỉ lệ 
cao nhất trong tổng số các loại ung thư và là loại 
ung thư sinh dục thường gặp nhất và chiếm tỉ lệ 
53,5% các loại ung thư ở nữ giới. Đây là bệnh lý 
ác  tính  có  tỷ  lệ  mắc  đứng  hàng  đầu  ở  phụ  nữ 
miền Nam và hàng  thứ  tư  ở  phụ  nữ  miền  Bắc. 
Theo  thống  kê  về  ghi  nhận  tần  suất  ung  thư  ở 
thành phố Hồ Chí Minh (1998) thì thành phố có 
thêm  28,6  người/100.000  phụ  nữ  mắc  bệnh  này 
mỗi năm(1).  
Như vậy, việc tìm hiểu về tình trạng nhiễm 
các genotype HPV ở phụ nữ là vấn đề rất đáng 
quan tâm. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này 
nhằm mục đích:  

Nhiễm

Phương pháp nghiên cứu: 
Phát  hiện  HPV‐DNA  bằng  phương  pháp 
Real‐time  PCR.  Đối  với  những  trường  hợp  có 
HPV‐DNA  (+):  định  genotype  HPV  bằng  kỹ 
thuật lai phân tử (Reverse dot‐blot), có thể phát 
hiện  được  24  genotype  của  HPV,  gồm:  8  type 
nguy cơ thấp (6, 11, 42, 43, 61, 70, 71, 81) và 16 
type nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 
53, 56, 58, 59, 66, 68, 82). 
Ghi nhận số liệu vào “Bảng thu thập số liệu”. 
Xử  lý  số  liệu  bằng  phần  mềm  SPSS  17.0  và 
vẽ biểu đồ bằng Excel 2010. 

KẾT QUẢ 
Có  638  phụ  nữ  được  làm  xét  nghiệm  phát 
hiện  HPV‐DNA,  chúng  tôi  ghi  nhận  được  kết 
quả như sau: 

Tuổi 
Các bệnh nhân nữ trong lô nghiên cứu được 
phân bố theo các nhóm tuổi như sau (Biểu đồ 1) 

373

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Tỉ lệ nhiễm các genotype HPV  
Từ  115  phết  cổ  tử  cung  có  HPV‐DNA  (+), 
chúng  tôi  xác  định  được  158  chủng  HPV.  Sự 
phân bố genotype HPV được thể hiện ở bảng 1.  
Bảng 1: Phân bố tỉ lệ nhiễm các genotype HPV 
(n=158) 
Genotype HPV

 

Biểu đồ 1: Phân bố tỉ lệ nhiễm HPV theo nhóm tuổi 

Tỉ lệ nhiễm HPV  

 

Type 6
Type 11
Type 42
Type 61
Type 81
Type 16
Type 18
Type 33
Type 35
Type 45
Type 51
Type 52
Type 53
Type 58
Type 59
Type 68
Tổng cộng

Số lượng
Nguy cơ thấp
3
17
1
1
5
Nguy cơ cao
38
29
9
8
5
6
7
1
24
3
1
158

Tỷ lệ %
1,90
10,76
0,63
0,63
3,16
24,05
18,35
5,70
5,06
3,16
3,80
4,43
0,63
15,19
1,90
0,63
100,00

Biểu đồ 2: Tỉ lệ nhiễm HPV là 18,03% (115/638 
trường hợp)  

Tình hình nhiễm các type HPV theo nhóm 
nguy cơ 

Tỉ lệ Genotype HPV 

Bảng 2: Tỉ lệ nhiễm các type HPV theo nhóm nguy 
cơ (n=115) 
Nhóm nguy cơ
Nguy cơ cao
Nguy cơ thấp
Đồng nhiễm cả 2 nhóm
Tổng

Tần suất
91
12
12
115

%
79,14
10,43
10,43
100

Nhận xét: Nhóm nguy cơ cao (NCC) chiếm tỉ 
lệ cao nhất: 79,14%. 

Mối  liên  hệ  giữa  nhiễm  HPV  và  các 
genotype theo lứa tuổi 
 

Tỷ lệ nhiễm các genotype HPV trên một mẫu 
bệnh phẩm 
Một  bệnh  phẩm  có  thể  nhiễm  1  hay  nhiều 
genotype  trong  một  lần  xét  nghiệm  xác  định 
genotype HPV (Biểu đồ 3). 

374

Mối liên hệ giữa nhóm tuổi và tỉ lệ nhiễm HPV 
Bảng 3: Liên hệ giữa nhóm tuổi và tỉ lệ nhiễm HPV 
(n=115) 
Nhóm tuổi
18 – 29 (n=119)
30 – 59 (n=194)
>50 (n=129)
Tổng

Tần suất
30
67
18
115

%
26,25
34,54
13,95
100

Chuyên Đề Nội Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Nhận xét: Nhóm tuổi 30‐59 nhiễm HPV với 
tỉ lệ cao nhất (34,54%). 

Phân  bố  nhóm  genotype  HPV  NCC  –  NCT 
theo nhóm tuổi 
Bảng 4: Phân bố nhóm genotype cao – thấp theo 
nhóm tuổi (n=115) 
Nhóm tuổi
18 – 29
(n=30)
30 – 59
(n=67)
>50 (n=18)
Tổng

Nhóm NCC
Nhóm NCT
Cả 2 nhóm
Tần suất % Tần suất % Tần suất %
19

63,33

6

20,00

5

16,67

57

85,00

5

7,50

5

7,50

14
90

77,77

0
12

0,00

3
13

22,23

Nhận  xét:  Ở  mọi  nhóm  tuổi,  nhiễm  HPV 
nhóm  NCC  đều  chiếm  tỉ  lệ  cao,  đặc  biệt  là  ở 
nhóm tuổi 30‐59 (85%). 

BÀN LUẬN 
Về tuổi của bệnh nhân 
Qua  biểu  đồ  1,  chúng  ta  thấy:  Tuổi  của  đối 
tượng nghiên cứu tập trung ở nhóm 30 – 49 tuổi 
(61,13%), tiếp theo là nhóm trên 50 tuổi (30,41%), 
nhóm  tuổi  từ  18  –  29  chiếm  tỷ  lệ  thấp  nhất 
(18,65%). 

Về tỉ lệ nhiễm HPV 
Trong  638  mẫu  bệnh  phẩm  được  làm  xét 
nghiệm, tỷ lệ nhiễm HPV là 18,03% (115 trường 
hợp)  (Biểu  đồ  2).  Tỉ  lệ  này  cao  hơn  hẳn  so  với 
một  số  tác  giả  trong  và  ngoài  nước(7,8,11,12,13).  Sự 
khác biệt có thể là do tiêu chuẩn chọn mẫu. Các 
tác  giả  trên  chọn  mẫu  nghiên  cứu  trong  một 
cộng đồng dân cư, có thể có hoặc chưa có bệnh 
lý về phụ khoa. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
bệnh  phẩm  được  thu  nhận  tại  cơ  sở  y  tế,  nơi 
bệnh nhân đến để kiểm tra những bất thường đã 
hiện hữu, do vậy tỷ lệ nhiễm HPV của chúng tôi 
cao hơn so với các nghiên cứu khác. 

Về tỷ lệ genotype HPV 
Phân  bố  tỉ  lệ  nhiễm  các  genotype  HPV  trên 
một mẫu bệnh phẩm 
Số liệu nghiên cứu (Biểu đồ 3) cho thấy, có 
73,04%  bệnh  nhân  nhiễm  1  type  và  26,96% 
bệnh nhân đồng nhiễm từ 2 type HPV trở lên, 

Nhiễm

Nghiên cứu Y học

trong đó có 1 trường  hợp  đồng  nhiễm  4  type. 
Kết  quả  này  có  tỉ  lệ  đồng  nhiễm  thấp  hơn  so 
với  nghiên  cứu  của  tác  giả  M  Dai(4)  tại  Trung 
Quốc  (30,6%),  và  cao  hơn  so  với  nghiên  cứu 
của JN I Vet(12) tại Indonesia (20,7%). Có thể lí 
giải cho điều này là do kĩ thuật sử dụng trong 
các nghiên cứu là khác nhau. Kỹ thuật Reverse 
Dot Blot trong nghiên cứu của chúng tôi và kỹ 
thuật  Reverse  Line  Blot  trong  nghiên  cứu  của 
M  Dai  có  tỉ  lệ  đồng  nhiễm  cao  (30,6%  và 
26,96%),  trong  khi  kết  quả  giải  trình  tự  ‐  tỉ  lệ 
đồng nhiễm chỉ chiếm 14%. 

Phân  bố  tỉ  lệ  nhiễm  các  genotype  HPV  nguy 
cơ cao và nguy cơ thấp 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, 
một  mẫu  bệnh  phẩm  có  thể  nhiễm  1  hay  đồng 
nhiễm nhiều loại genotype cho 1 lần xét nghiệm 
định  type.  Trong  115  mẫu  bệnh  phẩm  có  HPV 
(+),  chúng  tôi  có  158  lượt  HPV/115  trường  hợp 
(Bảng  1).  Các  type  HPV  nguy  cơ  cao:  HPV  16 
chiếm tỷ lệ cao nhất (24,05%), tiếp theo là HPV 
18 (18,35%) và HPV 58 (15,19%). Các type nguy 
cơ  thấp:  HPV  11  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  (10,76%), 
kế đến là HPV 81 (3,16%) và HPV 6 (1,90%). Kết 
quả của chúng tôi có sự khác biệt với nghiên cứu 
của  nước  ngoài(1,4)  nhưng  không  khác  biệt  với 
nghiên  cứu  của  các  tác  giả  Việt  Nam(7,11,13)  ‐  các 
type thường gặp nhất là 16, 18, 58. Qua đó, ta có 
thể thấy sự phân bố các type HPV là khác nhau 
tùy thuộc vào dân tộc và vùng địa lý. 
Qua kết quả trên ta thấy type 16 luôn giữ vai 
trò quan trọng, luôn xuất hiện trong 3 type hay 
gặp  nhất.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  ghi 
nhận  bất  cứ  trường  hợp  nào  nhiễm  genotype 
HPV 56. Tác giả Vũ Thị Nhung(13) ghi nhận được 
3  trường  hợp  nhiễm  HPV  type  56,  Phạm  Thị 
Hoàng  Anh(8):  có  7  trường  hợp,  Trần  Thị  Lợi(11) 
không  ghi  nhận  được  trường  hợp  nào  nhiễm 
HPV  type  56.  Như  vậy,  tần  suất  nhiễm  type 
HPV 56 ở Việt Nam rất thấp. 
Từ  các  ghi  nhận  trên,  chúng  ta  có  thể  ứng 
dụng  vào  việc  xây  dựng  các  xét  nghiệm  định 
type  cho  phù  hợp  với  tần  suất  các  type  HPV  ở 
Việt Nam. 

375

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Phân  bố  tình  hình  nhiễm  các  type  HPV  theo 
nhóm nguy cơ. 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  (Bảng  2)  cho 
thấy, tỷ lệ nhiễm các type HPV nguy cơ cao là 
79,14%  ‐  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất,  tiếp  theo  là 
nhiễm  cả  2  nhóm  vừa  nguy  cơ  cao  vừa  nguy 
cơ thấp (chiếm 10,43%), nhiễm type HPV nguy 
cơ thấp (10,43%). Kết quả này tương tự với các 
nghiên  cứu  trong  và  ngoài  nước(4,8,11,13):  tỷ  lệ 
nhiễm các type nguy cơ cao là cao nhất, chiếm 
tỷ lệ vượt trội hơn rất nhiều so với type nguy 
cơ thấp và chúng giữ vai trò quan trọng trong 
ung  thư  cổ  tử  cung,  do  đó  việc  tầm  soát  ung 
thư cổ tử cung nên đặt trọng tâm vào việc phát 
hiện sớm các type HPV nguy cơ cao. Các type 
HPV nguy cơ thấp chiếm tỷ lệ thấp và chỉ gây 
những mụn cóc hoặc khối u lành tính. 

Phân  bố  các  genotype  HPV  nguy  cơ  cao  – 
nguy cơ thấp theo nhóm tuổi  
Ở  cả  3  nhóm  tuổi,  nhiễm  HPV  nhóm  NCC 
luôn luôn chiếm tỷ lệ cao nhất (63,33% ‐ 18,35% ‐ 
77,77%);  nhiễm  các  type  HPV  nhóm  NCT  và 
đồng nhiễm cả 2 nhóm có tỷ lệ thay đổi nhưng 
đều thấp hơn hẳn tỉ lệ nhiễm nhóm NCC. 

Về mối liên hệ giữa nhiễm HPV và một số 
yếu tố khác 

Có  tất  cả  16  type  HPV  được  phát  hiện. 
Trong  đó,  nhóm  nguy  cơ  cao  chiếm  đa  số  là 
type 16, 18 và 58; nhóm nguy cơ thấp chiếm đa 
số là type 11 và 81.  

Liên quan giữa HPV và nhóm tuổi  
Trong  115  trường  hợp  có  kết  quả  HPV  (+) 
(Bảng 3), nhóm tuổi 30 – 59 có tỷ lệ nhiễm HPV 
cao nhất (34,54%), tiếp theo là nhóm tuổi 18 ‐ 29 
(26,25%). Nhóm tuổi trên 50 có tỷ lệ nhiễm HPV 
thấp nhất (13,95%). Kết quả này tương đồng với 
kết quả nghiên cứu của Giuliano A.R.(6) (22,7%), 
và có sự khác biệt với các nghiên cứu khác của 
các  tác  giả  trong  và  ngoài  nước  về  đỉnh  tuổi 
nhiễm  HPV  theo  nhóm  tuổi.  JN  I  Vet(12):  nhóm 
tuổi 35 – 44 chiếm tỷ lệ cao nhất (15,2%), Vũ Thị 
Nhung(13):  tỷ  lệ  nhiễm  HPV  tập  trung  cao  nhất 
trong nhóm tuổi
nguon tai.lieu . vn