- Trang Chủ
- Lịch sử - Văn hoá
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giữ vững độc lập dân tộc (1945 - 1946)
Xem mẫu
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhằm giữ vững độc lập dân tộc (1945 - 1946)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám đã thành công, nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, dân tộc ta đã rửa được
nỗi nhục mất nước, đòi lại được tên tuổi trên bản đồ thế
giới. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt quốc dân đồng bào đọc "Tuyên ngôn độc lập" và long
trọng tuyên bố: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy". Tuyên ngôn độc lập vừa khẳng định quyền tự do
của dân tộc, vừa nêu cao ý chí quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân quyết giữ vững nền độc lập của dân
tộc, kiên quyết chống mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược, phá
hoại của các thế lực thù địch.
Đất nước giành được độc lập rạng rỡ non sông, góp phần nâng
cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nền độc lập dân tộc vừa
mới trở thành hiện thực đã phải đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt do
những âm mưu thâm độc phá hoại của các tập đoàn đế quốc và
bè lũ tay sai. Lúc này, trên đất nước ta có gần 30 vạn quân của
nhiều nước, chiếm đóng hầu hết các vị trí chiến lược quan trọng
và đều có âm mưu dùng vũ lực để lật đổ chính quyền cách mạng,
thủ tiêu nền độc lập dân tộc, đưa dân tộc ta trở thành cuộc sống
nô lệ.
Đứng trước sự mất còn của cách mạng, nền độc lập dân tộc và
trong hoàn cảnh quốc tế nhiều mặt có lợi cho bọn xâm lược,
chúng ta lại chưa có điều kiện để phát huy những điều kiện cơ
bản, lâu dài và chưa thể cùng một lúc khắc phục được những khó
khăn chồng chất, nhưng với bản lĩnh kiên định, vững vàng,
phương pháp cách mạng khoa học, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thực hiện những biện pháp quan trọng để giữ vững thành
quả cách mạng, giữ vững nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt
Nam. Cuộc đấu tranh với kẻ thù trong và ngoài nước lúc này đều
xoay quanh giữ vững quyền độc lập dân tộc khi mà kẻ thù rắp
tâm quyết cướp lại nước ta một lần nữa bằng quân sự và so sánh
về lực lượng giữa ta với địch là thế "châu chấu đá voi". Để tránh
tình thế bất lợi cho ta cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù,
- đồng thời để có thêm thời gian xây dựng thực lực cách mạng về
mọi mặt sẵn sàng đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược mà
chúng ta biết chắc rằng khó có thể ngăn chặn được, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện một sách lược mềm dẻo với kẻ thù,
nhân nhượng có nguyên tắc. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dự lường được việc chúng ta phải chấp nhận một số yêu sách
của kẻ thù, phải chịu thiệt thòi, mất mát nhất định; song, trong
nhân nhượng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giữ vững
nguyên tắc và không bao giờ hy sinh quyền lợi của dân tộc.
Chủ trương nhân nhượng với kẻ thù của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. V.I.Lê-nin
cho rằng: "Do hoàn cảnh bắt buộc, nên có lúc ngay cả chính đảng
cách mạng nhất của một giai cấp cách mạng nhất cũng cần phải
thực hành thoả hiệp; vấn đề là ở chỗ phải biết cách thông qua tất
cả những sự thoả hiệp đó mà giữ gìn, củng cố, tôi luyện và phát
triển sách lược cách mạng, tổ chức cách mạng, ý thức cách
mạng, sự quyết tâm, sự chuẩn bị của giai cấp công nhân và của
đội tiền phong có tổ chức của nó, tức đảng cộng sản". Nhận thức
sâu sắc quan điểm ấy và xuất phát từ thực tiễn của cách mạng
Việt Nam thời kỳ 1945 - 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thực hiện sách lược mềm dẻo, hoà hoãn. Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đánh giá đúng âm mưu thủ đoạn và hành động phá
hoại của các loại kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam. Về phía
quân Tưởng, chúng ra sức thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta,
phá tan Việt minh và lật đổ chính quyền cách mạng. Song, kẻ thù
chính của nhân dân ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy, muốn tập trung
lực lượng, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp,
chúng ta cần phải nhân nhượng, hoà hoãn quân Tưởng với khẩu
hiệu "Hoa - Việt thân thiện". Chúng ta chấp nhận tiêu tiền quan
kim; cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân đội Tưởng; để
bọn Việt quốc, Việt cách - tay sai của Tưởng - tham gia Quốc hội,
Chính phủ liên hiệp lâm thời nhằm hạn chế sự chống phá điên
cuồng của quân Tưởng ở phía Bắc và giữ vững nền độc lập dân
tộc. Đồng thời, thực hiện điều đó giúp chúng ta có thêm thời gian
hoà bình để củng cố hệ thống chính trị, triển khai thực hiện các
chủ trương diệt giặc đói, diệt giặc dốt, xây dựng thực lực cách
mạng, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược do kẻ thù
gây ra. Thành công nổi bật của sách lược này chính là Đảng ta
vẫn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, chính quyền cách mạng được
củng cố, mục tiêu độc lập dân tộc vẫn được giữ vững; đồng thời,
- chúng ta đã đẩy nhanh quân Tưởng ở phía Bắc và quân Anh ở
phía Nam ra khỏi đất nước để tập trung đối phó với kẻ thù chính
là thực dân Pháp xâm lược.
Phân tích rõ ý đồ của Pháp, trước tình hình Pháp - Tưởng đã thoả
hiệp, mua bán với nhau và ký hiệp ước Hoa - Pháp tại Trùng
Khánh ngày 28 - 2 - 1946, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
kiên quyết đấu tranh, tranh thủ mọi khả năng và chọn con đường
tạm hoà hoãn với Pháp. Sau những cuộc tiếp xúc, đấu tranh, đàm
phán giữa ta với Pháp, ngày 6 - 3 - 1946, Hiệp định sơ bộ đã được
ký kết ở Hà Nội. Hiệp định quy định Chính phủ Pháp công nhận
Việt Nam là một quốc gia tự do, có Nghị viện, Chính phủ, quân
đội và tài chính riêng, song nằm trong liên bang Đông Dương và
Liên hiệp Pháp; Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền
Bắc thay thế quân Tưởng, sau hai năm phải rút về nước; hai bên
đình chỉ xung đột. Sau đó, ngày 9 - 3 - 1946, Thường vụ Trung
ương Đảng ra Chỉ thị "Hoà để tiến". Chỉ thị phân tích làm rõ chủ
trương hoà với Pháp là hoà với kẻ thù chính để loại bớt quân
Tưởng, tránh tình thế bất lợi phải cùng một lúc tác chiến với nhiều
kẻ thù; đồng thời để bảo toàn lực lượng, bổ sung thêm cán bộ,
bồi dưỡng củng cố phong trào, tạo thực lực cho cách mạng sẵn
sàng đối phó với mọi âm mưu của kẻ thù.
Thực hiện sách lược hoà hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng và
quân Pháp trong năm 1945 - 1946 là sự nhân nhượng có nguyên
tắc, thể hiện sự tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Một mặt, chúng ta kiên trì đấu tranh bằng phương pháp hoà
bình đòi Tưởng - Pháp phải thi hành Hiệp định, mặt khác kiên
quyết đấu tranh chống mọi âm mưu và những hành động phá
hoại vi phạm chủ quyền, vi phạm độc lập dân tộc của Việt Nam.
Tuy nhiên, với Hiệp định sơ bộ, do hoàn cảnh lịch sử và tương
quan so sánh lực lượng chưa cho phép, chúng ta phải chấp nhận
một nền độc lập, thống nhất bị hạn chế và có điều kiện. Song, tại
Hội nghị Phông-ten-nơ-blô, ngày 14 - 9 - 1946, với thái độ kiên
quyết, lập trường kiên định, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đòi
phía Pháp phải ghi vào Hiệp ước vấn đề đình chỉ chiến sự ở Nam
Bộ, thả tù chính trị, thực hiện các quyền tự do dân chủ ở Nam Bộ.
Điều đó chứng tỏ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đấu
tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc của dân tộc Việt Nam.
Theo quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền
độc lập dân tộc bao gồm nhiều nội dung rộng lớn gắn liền với chủ
quyền quốc gia cả về nội trị và ngoại giao. Đó là quyền độc lập
- thật sự, độc lập hoàn toàn, bao gồm tất cả các mặt: chính trị, kinh
tế, văn hoá, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhiều lần đấu tranh đòi thực dân Pháp cũng như các thế
lực khác phải tôn trọng chủ quyền Việt Nam. Quyền độc lập tự do
của dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Vì thế, bất cứ thế
lực nào kéo tới xâm lược thôn tính đều bị giáng trả, bất cứ kẻ nào
phá hoại từ bên trong đều bị trừng trị nghiêm khắc.
Trong cuộc đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc thời kỳ 1945-1946,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ chủ quyền quốc gia gắn
liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Vì vậy, khi thực dân
Pháp bộc lộ rõ ý đồ tách Nam Kỳ ra khỏi nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, tại cuộc họp báo ngày 12 - 7 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh tuyên bố: "Nam Kỳ cùng một tổ tiên với chúng tôi…, tại sao
lại còn nghĩ đến sự cản trở việc thống nhất nước Việt Nam". Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng kiên quyết đấu tranh phản đối âm mưu của
Pháp hòng chia đất nước ta trở thành 3 xứ như thời còn thuộc địa
của Pháp. Giữa năm 1946, diễn biến nước Pháp ngày càng phức
tạp. Khả năng hoà hoãn ngày càng khó khăn. Những cuộc đàm
phán đấu tranh không mang lại kết quả gì, vì Pháp trước sau chỉ
muốn tái lập ách thống trị và chia rẽ đất nước ta. Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh kiên quyết đấu tranh giữ vững nền độc lập dân
tộc, ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược vi phạm quyền độc lập
của dân tộc. Theo Người, "nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Người
khẳng định: Không có gì quý hơn độc lập tự do, vì không có độc
lập tự do cho dân tộc thì không thể nói đến sự giải phóng con
người về mặt xã hội, không thể nói đến mưu cầu hạnh phúc cho
nhân dân. Một nền độc lập dân tộc chỉ thực sự có giá trị khi mang
lại lợi ích cho nhân dân, mà trước hết là những quyền lợi cụ thể,
thiết yếu nhất. Do đó, Người không thể chấp nhận thứ độc lập
hình thức, giả hiệu, mị dân. Xuất phát từ quan điểm đó, ngay từ
đầu và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là thời
kỳ 1945 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta kiên quyết đấu
tranh chống các quan điểm và hành động phá hoại của kẻ thù vi
phạm độc lập dân tộc của Việt Nam. Cuối năm 1946, thực dân
Pháp quyết định đặt ách thống trị lên đất nước ta bằng quân sự.
Trước hành động điên cuồng của chúng, không thể khoanh tay
cúi đầu làm nô lệ, cam chịu mất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
đứng lên chiến đấu tiến hành cuộc kháng chiến chống thực Pháp
xâm lược giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
- Ngày nay, sau khi đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, công cuộc đổi mới đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thế và lực mới do những
thành tựu của công cuộc đổi mới mang lại đã tạo ra thuận lợi mới
cho việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khả
năng giữ vững độc lập và hợp tác với cộng đồng quốc tế không
ngừng tăng thêm. Song, bốn nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ
của Đảng ta (1-1994) nêu lên đến nay vẫn tồn tại, diễn biến phức
tạp và đó chính là những thách thức to lớn. Độc lập dân tộc tuy đã
được củng cố, nhưng vẫn bị đe doạ do sự phá hoại của các thế
lực thù địch. Do đó, để giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, nhất thiết phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, kiên định nguyên tắc chiến lược cách mạng, nhưng linh
hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy bén nắm bắt cái mới, giải
quyết những vấn đề mới nảy sinh trên lập trường, quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, chúng ta
phải luôn luôn cảnh giác, tỉnh táo, nỗ lực xây dựng thực lực về
mọi mặt, kiên quyết khắc phục đẩy lùi các nguy cơ, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Thực hiện quan hệ, hợp tác song phương, đa
phương, chủ động hội nhập quốc tế cũng là giải pháp quan trọng
để thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Đại tá, TS Đặng Bá Minh
Chủ nhiệm bộ môn - Khoa Lịch sử Đảng
Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1-2005
nguon tai.lieu . vn