Xem mẫu

  1. Stephane Gauger và cổ tích đương đại[1]
  2. Giữa thời đương đại của những niềm tin rạn vỡ, giữa thành phố của những cơ hội và bộn bề phố xá, Stephane Gauger sáng tạo một cổ tích bằng âm thanh và ánh sáng, bằng hình ảnh, ngôn ngữ và những khoảng lặng: “Cú và chim se sẻ”. Tâm hồn mơ mộng của người nghệ sĩ mang hai dòng máu Việt – Pháp này hòa quyện với nội lực sáng tác của một đầu óc tỉnh táo để tạo nên một bộ phim tuyệt vời: vừa đáng yêu và ngây thơ như một câu chuyện cổ tích, vừa chỉnh chu như một bộ phim cổ điển theo phong cách Hollywood. Ra m ắt công chúng vào năm 2008, “Cú và chim se sẻ” sở hữu phong cách kể chuyện rất điêu luyện và có duyên của Stephane Gauger. Bám theo ba nhân vật chính: bé Thủ y, Lan và Hải, câu chuyện phim “Cú và chim se sẻ” được kể bằng một cấu trúc mạch lạc với ba hồi[2] khá rõ nét. Như nhiều tác phẩm điện ảnh “cổ điển” kiểu Hollywood, hồi một bộ phim của Stephane Gauger lần lượt giới thiệu các nhân vật và những vấn đề của họ: Thủ y, một cô bé mồ côi làm ở xưởng mành tre của chú ruột, xung đột với chú nên bỏ nhà ra đi; Lan, tiếp viên hàng không, chìm đắm trong mối tình không tương lai với cơ trưởng đã có vợ; Hải, nhân viên sở thú, chưa vượt qua cú sốc vì bị người yêu bỏ rơi một tháng trước ngày cưới đã phải đối diện với một vấn đề mới: chia tay với con voi anh nuôi dưỡng từ tấm bé. Họ lần lượt gặp gỡ, yêu thương và mâu thuẫn với nhau, đồng thời xung đột với chú của bé Thủ y ở hồi hai, với sự kiện “đinh” là việc cô bé bị bắt vào trại trẻ mồ côi. Hồi ba, mọi mâu thuẫn và xung đột được giải quyết; bộ phim khép lại với một kết thúc có hậu: ba người đến với nhau và trở thành một gia đình. Với cấu trúc rất cân chỉnh và “cổ điển” đến mức khó có thể sáng tạo thêm ấy, thêm vào đó, hình thức phim, hoàn toàn dung dị, là một cuộc hành trình được kể theo thời gian tuyến tính (cách kể thường thấy ở phim nội địa, và cũng là một trong những lý do khiến phim Việt Nam ít hấp dẫn), thật lạ khi “Cú và chim se sẻ”
  3. vẫn hấp dẫn người xem từ đầu đến cuối. “Cổ tích thời hiện đại” của Stephane Gauger, như nhiều phim hành trình khác, được kể với không gian và thời gian giới hạn. Không gian phim gói gọn ở hai bối cảnh: xưởng mành tre của chú bé Thủ y ở Biên Hòa và trung tâm Sài Gòn, trong đó, trung tâm Sài Gòn là bối cảnh chính. Cuộc “du hành” của bé Thủ y, từ khi bỏ nhà ra đi, bán bưu thiếp ở nhà thờ Đức Bà, gặp cậu bé bán hủ tiếu, nhập hội cới mấy nhóc bán hoa hồng đến khi gặp Lan và Hải… diễn ra trong một nền không gian không rộng, chỉ quanh quẩn ở trung tâm thành phố, nhưng khá đa dạng: quán ăn, sở thú, khách sạn, đường phố, trại trẻ mồ côi. Rất tinh tế trong việc lựa chọn không gian và bối cảnh cho bộ phim, cho sự di động của nhân vật, đạo diễn Stephane Gauger cấp cho nhân vật của mình một cuộc sống phong phú. Anh đặt nhân vật của mình vào những ngoại cảnh rộng, những đường phố chật kín người hoặc bên cạnh những con thú cũng khéo léo như vào căn phòng hẹp, ngôi nhà tuềnh toàng hay quán ăn vỉa hè. Các nội – ngoại cảnh (kết hợp với cách chiếu sáng) xuất hiện trong phim rất có dụng ý, thường để diễn tả nỗi cô đơn, lạc lõng của nhân vật. Đôi khi, các ngoại cảnh thoáng đãng cũng được sử dụng, như một cách thể hiện sự phóng khoáng và rộng rãi trong tính cách, tâm hồn thành phố, như một đối cực với khung cảnh hẹp, bề bộn đồ đạc trong xưởng mành tre của chú bé Thủ y. Đúng với chất của một bộ phim hành trình, “Cú và chim se sẻ” cũng có một giới hạn thời gian rất rõ ràng. Đó là khoảng thời gian Thủ y được “tự do” trước khi chú Minh tìm được và bắt về nhà, đồng thời cũng là 6 ngày Lan được nghỉ phép giữa những chuyến bay. Sự khéo léo của nhà biên kịch đã ghép nối hai khoảng thời gian giới hạn vào cùng một câu chuyện, cùng một mối nối, tạo cho bộ phim một nhịp điệu khá uyển chuyển, vừa gấp gáp vừa chậm rãi. Câu chuyện được kể theo chiều tuyến tính của thời gian, mạch truyện bám sát vào những sự kiện, những biến cố đến với nhân vật. Cả cuộc hành trình, bởi thế được kể ở thì hiện tại,
  4. luân phiên thay đổi người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật. Bóng dáng một nhân vật “người kể chuyện thấu triệt” gần như không xuất hiện, nhưng chính sự xâm nhập, “đột kích” vào thái độ, tâm trạng từng nhân vật một ấy lại vẽ nên một bóng hình người kể chuyện đa diện và nhập thân. Các tình tiết cứ tuần tự nhi tiến mà trải ra trong bộ phim, gần như không có hồi tưởng (trừ một cảnh cơ trưởng nhớ lại ngày đầu tiên nhìn thấy Lan bước đi giữa hai hàng ghế máy bay, xinh đẹp và ngượng nghịu) nên nhịp truyện phát triển rất nhanh. Nằm trong giới hạn không – thời gian không quá rộng, diễn biến câu chuyện lại được đẩy nhanh, dồn dập tình tiết, tạo nên một mạch truyện gọn ghẽ và không có chỗ cho những chi tiết rườm rà. Dẫu vậy, cái giỏi của nhà biên kịch mang trong mình một nửa dòng máu lãng mạn và tinh tế của châu Âu là chạy theo sự kiện nhưng vẫn tạo được những khoảng trống tế vi để nhân vật thể hiện cảm xúc và cá tính. Các cảnh phim như cảnh buổi sớm ở khách sạn, sau cuộc làm tình với cơ trưởng, Lan nhìn xuống con đường đông đúc mà khóc một mình; cảnh Hải âu yếm vuốt ve, trò chuyện với chú voi con; cuộc nói chuyện của Hải và Lan ở ban công sau tối đi chơi với bé Thủ y hay cảnh Thủ y ngồi hát nghêu ngao với hai đứa trẻ bán hoa là những khoảng lặng cần thiết, dung hòa giữa cảm xúc và sự kiện. Những khoảng lặng ấy, đôi lúc rất đỗi phi lý, nhưng lại là những điểm nhấn, những sự giãn cách cực kỳ chuẩn xác. Đó là sự mở rộng, nới lỏng biên độ cảm xúc của khán giả, đồng thời là những chi tiết tung hỏa mù để “lường gạt”, để “ru ngủ” những tâm hồn mơ mộng vốn say mê cổ tích của khán giả, là sự yên bình đáng yêu và dữ dội của mặt biển ẩn chứa những cơn sóng ngầm, rồi bất giác đổ ập lên họ (và cả những nhân vật mà họ trót phải lòng) những cay đắng và oái oăm của cõi người. Không chỉ có vậy, sức hấp dẫn của “Cú và chim se sẻ” còn được hình thành bởi sự phức hợp hai cuộc hành trình: hành trình kiếm sống và khẳng định cá tính của bé Thủ y và hành trình khám phá tâm hồn tốt đẹp, nhân hậu của con người.
  5. Con đường lên thành phố của cô bé, bởi vậy, không quá đỗi gian nan và khắc nghiệt. Qua mỗi chặng đường, Thủ y đều gặp được những con người tốt đẹp và hào phóng, sẵn lòng giúp đỡ, che chở cho cô bé. Vừa đặt chân lên thành phố phồn hoa, Thủ y được một cô bé bán bánh bao trạc tuổi mình tặng bánh, rồi bày cho cách kiếm sống: bán bưu thiếp. Bỏ hết vốn liếng ra mua bưu thiếp, nhưng chẳng bán được bao nhiêu, đến khi đói meo, Thủ y lại may mắn gặp cậu bé bán hủ tíu gõ. Cậu nhóc cũng sẵn lòng tặng người bạn mới quen một tô hủ tíu, còn chỉ cho “mối” đi bán hoa hồng. Đến gặp người “quản lý”, Thủ y được phát đồng phục học sinh, được tạo việc làm với tỉ lệ ăn chia 3 – 7, được nhập bọn dễ dàng với những đứa trẻ có kinh nghiệm, thậm chí còn được chỉ cho mánh lới để bán hàng dễ dàng: có một câu chuyện hay để kể. Và cứ như thế, Thủ y gặp Lan, gặp Hải, tham gia vào cuộc sống cô đơn của họ, kết nối rồi trở thành một phần gia đình của họ. Người xem, có thể sẽ phản ứng và hoài nghi về cái gọi là “tính chân thực” của bộ phim này, bởi nó có quá nhiều nhân vật tốt. Ngoài ba nhân vật chính, những nhân vật nền cũng rất đẹp: tốt bụng và hào phóng. Ngay cả những nhân vật được – coi – là – phản – diện trong phim như Minh (chú bé Th ủ y) và cơ trưởng, sự ích kỷ, hám lợi, tính độc đoán của họ cũng không được Stephane Gauger đẩy đến tận cùng. Trong sâu thẳm tâm hồn họ, dường như vẫn có một cái gì đó đồng điệu với chúng ta, là của chúng ta. Bởi thế, những gì người xem thường trông đợi (và đã quen nhìn) ở một bộ phim hành trình, nhất là hành trình đi từ nông thôn lên thành phố của một đứa trẻ, vắng bóng trong “Cú và chim se sẻ”. Họ (hoàn toàn có quyền) kỳ vọng những sự phản ứng đa chiều và mạnh mẽ hơn từ phía các nhân vật, chờ đợi ở bộ phim một thứ “mùi” đường chợ hơn, ví dụ như các cô bé bán hoa phải cạnh tranh, giành giật khách của nhau; Thủ y phải bị bọn đầu gấu trấn lột hoặc bị bỏ đói; phải ngỡ ngàng trước sự náo nhiệt của thành phố, phải thất bại rồi trở về quê với một “cuộc đời khác”…
  6. Như một nỗ lực phá vỡ lối mòn bằng cách chối từ mong đợi của khán giả, Stephane Gauger đã vẽ nên một Sài Gòn, một thế giới cổ tích của riêng mình, một thế giới gần như chỉ có người tốt, hay đúng hơn, là một nơi người tốt vẫn còn sống được. Sài Gòn, qua cách đạo diễn này miêu tả, hoàn toàn trái nghịch với “Xích lô” của Trần Anh Hùng hay “14 ngày phép” của Nguyễn Trọng Khoa. Đó không phải là thế giới của tội phạm ngầm, gái điếm, của sự cạnh tranh khắc nghiệt giữa những đứa trẻ đầu đường xó chợ bằng mọi giá giành giật miếng cơm của nhau, không phải là một thành phố vô cảm, lạnh lùng đậm chất công nghiệp hay một “thiên đường” trụ y lạc. Đó là một Sài Gòn hoàn toàn khác, nơi những con người bị đẩy vào nỗi cô đơn trong guồng quay vội vã, hối hả của một thành phố công nghiệp vẫn tìm thấy tình yêu và sự san sẻ; nơi những cái xấu, cái ác, bạo lực vẫn còn tồn tại, nhưng thay vì vùi dập, nó lại là động lực để nhân vật vươn lên. Những con người cần lao, những người nghèo khổ bươn chải kiếm ăn từng ngày lại là những người hào phóng và tốt đẹp. Chính họ đã làm nên sức bền, sức sống dữ dội của thành phố này. Stephane Gauger dường như đã chia sẻ cảm nghiệm này với một đồng nghiệp Việt kiều của mình - Tony Bùi - trong phim “Ba mùa”. Đạo diễn, thực sự đã “thuộc” rất kỹ tâm lý và yêu thương, trân trọng các nhân vật của mình. Anh đã khám phá và thấu hiểu, đã xuống tận đáy sâu của thành phố mà chiết lọc vẻ đẹp đặc trưng văn hóa của Sài Gòn: con người hồn hậu, tốt bụng và phóng khoáng. Nhân vật của “Cú và chim se sẻ” quá bé nhỏ và nhân hậu, dường như đạo diễn – nhà biên kịch Stephane Gauger không nỡ đối xử phũ phàng, không nỡ ném nhân vật của mình vào những bi kịch dữ dội, không nỡ đày đọa thêm nữa những tâm hồn bị tổn thương. Sự thông minh của trái tim và lòng nhân hậu của trí óc người viết thôi thúc anh nâng niu những nhân vật của mình như nâng niu một cánh chim nhỏ non nớt trước bão giông. Chính sự “nương nhẹ” này khiến bộ phim ít có những cảnh dữ dội, gây sốc văn hóa hay tâm lý mà dịu nhẹ như một bài thơ, một câu chuyện cổ tích thời hiện đại.
  7. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, “Cú và chim se sẻ” là một hành trình kép, ngoài việc dõi theo bước đi của các nhân vật, đó còn là sự khám phá tâm hồn con người. Gauger rất có ý thức trong việc xây dựng và cách kể chuyện phim, cố gắng tránh biến nó thành một chuyện “sến” dễ dãi và sáo mòn. Câu chuyện cũng như các nhân vật bám rất sát vào chủ đề chính của phim: sự cô đơn của những người ở thành phố. Mỗi nhân vật đều có một câu chuyện đầy góc khuất, một vấn đề riêng. Họ cô đơn theo những cách khác nhau, giữa thành phố có tám triệu người sinh sống. Thủ y mồ côi cha mẹ, ở với ông chú không biết cách thể hiện tình yêu thương, không có cuộc sống bình thường như những đứa trẻ khác mà phải làm việc để kiếm sống nên trốn nhà lên thành phố. Hành trình của cô bé là hành trình tự khẳng định mình của một cá tính mạnh, tu y xuất phát từ một phản ứng rất trẻ con: chứng minh điều ngược lại với lời chú nói “Mày chỉ có mình tao thôi. Mày tưởng mày có thể ra ngoài đời mà sống sót được một đêm hả con?” Lan, xinh đẹp và có việc làm ổn định, đã mấp mé tuổi ba mươi, cô đơn và khao khát một tình yêu thực sự. Cô kiệt sức với mối tình vô vọng với cơ trưởng, nhưng “không biết mình muốn cái gì” và gần như không còn khả năng giao thiệp với cuộc sống, với những người đàn ông khác. Hải, một nhân viên sở thú có tâm hồn nhạy cảm và mơ mộng, chưa thể thoát khỏi nỗi buồn và cảm giác bị bỏ rơi sau cuộc tình tan vỡ, mang mặc cảm của sự nghèo và tự ti vì công việc của anh quá đỗi bình thường, không có cơ hội phát triển, chỉ còn biết nói chuyện với mấy con thú để giải khuây. Số phận đưa ba người tới gặp nhau, sẻ chia, thấu hiểu và trở thành gia đình của nhau. Tuy vậy, quá trình bé Thủ y đến với Hải, bé Thủ y đến với Lan và ba người đến với nhau không hề dễ dàng, không phải kiểu tình cảm “sét đánh” từ ánh nhìn đầu tiên. Stephane Gauger tổ chức từng cuộc gặp gỡ rất tự nhiên, nhẹ nhàng mà từ tốn nhưng không kém phần thú vị. Sự khác biệt trong tính cách, hoàn cảnh và giới tính của các nhân vật cũng như môi trường, bối cảnh ảnh hưởng rất rõ đến không khí các cuộc gặp. Bé Thủ y gặp, đi theo và làm thân với Hải rất dễ dàng. Bối cảnh
  8. và tình huống hai nhân vật gặp nhau (bé Thủ y đến sở thú cho con voi của Hải ăn) dễ thương và gần gũi, khiến họ dễ làm thân và chia sẻ tâm sự. Mặt khác, sức hút của hai giới tính nghịch chiều cũng tạo điều kiện cho các cuộc gặp diễn ra khá suôn sẻ, dù đôi lúc Hải cũng phàn nàn vì bé Thủ y thắc mắc quá nhiều. Cuộc gặp đầu tiên giữa bé Thủ y và Lan, trái lại, nhiều “sóng gió” hơn. Hai người phụ nữ, từ những câu nói đầu tiên đã “châm nọc”, động chạm vào nỗi đau của nhau: bé Thủ y kiên trì mời Lan mua hoa cho chồng, cho người yêu (trong khi cô đang chìm trong mối tình vô vọng) còn Lan “kết tội” cô bé là kẻ nói láo (Thủ y bịa chuyện hôm đó là sinh nhật mình để bán được hoa) Sự bướng bỉnh trẻ con và câu nói đầy thách thức “Cô thử đi bán hoa một lần coi!” của Thủy đã chinh phục sự lạnh lùng của Lan, “bắt” Lan phải mua hoa cho cô bé. Đáo để và tự trọng, cũng bằng một kiểu cách hết sức trẻ con, bé Thủ y còn vặn vẹo Lan mấy câu trước khi chịu đưa hoa cho Lan. Tương tự thế, các cuộc gặp tiếp theo giữa bé Thủ y và Lan, bé Thủ y và Hải, đặc biệt là tình huống dẫn đến cuộc gặp giữa ba người đều được chăm chút kỹ càng, luôn có biến cố và những mâu thuẫn nội tại. Sau mỗi cuộc gặp, các nhân vật vừa đến gần tâm hồn nhau, vừa đẩy nhau ra xa. Nhà biên kịch xử lý rất khéo các mối nối, biết cách tạo bất ngờ và điểm nhấn, khiến cấu trúc tự sự không nhàm tẻ và dễ đoán. Ngay cả khi mối quan hệ giữa bé Thủ y và Hải, bé Thủ y và Lan đã trở nên thân thiết, anh cũng không để họ yêu thương nhau một cách đơn thuần mà xoay chuyển tình thế, làm nên những cú hích mâu thuẫn. Ví dụ trường đoạn hai chú cháu về sở thú sau khi bé Thủ y và Hải đi mua chuối, Hải nhờ bé Thủ y tặng hoa và dò xét người yêu cũ, ngay khi khán giả không ngờ tới nhất, xung đột giữa hai người bỗng dưng bùng nổ. Câu chuyện đang êm ả, bé Thủ y rủ Hải ra ngoài ăn tối, anh bất ngờ gợi ý gửi cô bé đến trại mồ côi. Sự tự trọng của một tâm hồn dễ tổn thương và sự hờn dỗi trẻ con khiến Thủ y phản ứng rất dữ dội, xách ba lô đi khỏi nhà Hải. Để sức nén nội tâm nhân vật (mặc cảm mồ côi, bị hắt hủi của Thủ y; nỗi buồn bị những người mình yêu thương bỏ rơi, lòng trắc ẩn, muốn bé Thủ y có
  9. cuộc sống tốt hơn của Hải) va chạm nhau, mâu thuẫn với nhau ở một thời điểm bình yên nhất, nhà biên kịch đã rất tinh tế trong nghệ thuật “lừa phỉnh” và thu hút khán giả. Điều quan trọng là Stephane Gauger không h ề né tránh, mà còn tạo thêm mâu thuẫn. Không bằng lòng với việc giải quyết xung đột giữa bé Thủ y và Hải một cách dễ dãi, anh “đưa” bé Thủ y đến tìm Lan và tiếp tục xung đột với Lan. Tâm trạng của cả hai người đều chông chênh và mất bình tĩnh (Lan vừa từ chỗ cơ trưởng về sau khi cãi nhau với anh ta; Thủ y vừa xích mích với Hải) nên việc Lan cáu kỉnh với sự có mặt của bé Thủ y là hoàn toàn có cơ sở. Lòng tự trọng của Thủ y thúc đẩy cô bé, một lần nữa xách cặp bỏ đi. Cách Gauger xử lý tình huống thứ hai này cực kỳ khéo léo và nhà nghề (Lan giữ cô bé ở lại), vừa thể hiện sự khác biệt, không trùng lắp trong cách ứng xử của các nhân vật khác nhau (Lan và Hải), vừa không dồn nhân vật (bé Thủ y) vào đường cùng tuyệt vọng. Tiếp ngay sau khoảnh khắc dữ dội của mâu thuẫn ấy là cuộc gặp đầu tiên của ba người. Thủ y, sau nhiều lần “quảng cáo” về đối phương và chuẩn bị tinh thần cho Lan và Hải, đã trở thành chiếc cầu nối hai người với nhau. Đây có lẽ là trường đoạn êm đềm và hạnh phúc nhất bộ phim, ba nhân vật ăn tối, đi chơi, hát cùng nhau… như một gia đình. Nếu dễ dãi, đạo diễn hoàn toàn có thể kết thúc bộ phim của mình ở đây. “Cú” và “chim se sẻ” đã được bé Thủ y nối kết, họ đã rung động và bắt đầu có tình cảm với nhau (chi tiết hai người đứng trên lan can, Lan tâm sự với Hải, Hải “thú tội” đã nói dối cô chuyện việc làm của mình). “Nhiệm vụ” của Thủ y coi như đã hoàn tất. Khán giả, dù không thỏa mãn nhưng hoàn toàn có thể chấp nhận một kết thúc phim như thế: hai con người cô đơn tìm thấy nhau, yêu nhau còn bé Thủ y hàng ngày đi bán hoa hồng kiếm sống. Tuy nhiên, dù yêu quý và trân trọng các nhân vật của mình, Gauger cũng không để họ dễ dàng tìm được hạnh phúc. Vừa nối kết Hải và Lan, ngay hôm sau, bé Thủ y bị bắt vào trại mồ côi. Cảnh tượng Thủ y, lạc lõng và bị đám trẻ trong trại
  10. mồ côi bắt nạt được đặt song song với cảnh Hải và Lan hạnh phúc nắm tay nhau trong quán ăn đã tạo nên tương phản rất rõ ràng, khơi gợi lòng trắc ẩn và lay động cảm xúc của khán giả. Xung đột phim, từ chỗ chia tách làm ba tuyến (mỗi nhân vật chính mang theo vấn đề của riêng mình), co rút, nhập lại vào nhau trong một trường đoạn cao trào: Hải và Lan đến trại mồ côi, cùng lúc chú Minh của cô bé nhận được tin báo, tới xin đón Thủ y về. Tất cả các nhân vật: Thủ y, Hải, Lan, chú Minh, giám đốc trại trẻ chạm mặt nhau cùng lúc trong một bầu không khí căng thẳng và tình huống khó xử. Bé Thủ y bị đặt trước một lựa chọn khó khăn, hay nói đúng hơn, là gần như không được phép lựa chọn. Cách đạo diễn khai thác xung đột, mâu thuẫn trong trường đoạn này cực kỳ hợp lý và súc tích, không bị dàn trải hay dài dòng. Kịch tính được đẩy mỗi lúc một căng, khi giám đốc trại trẻ liên tục hỏi “Chú cháu tới đón cháu đó, cháu có muốn về nhà không?”; chú Minh đưa ra các b ằng chứng chứng minh ông ta là người thân duy nhất của bé Thủ y, quát Lan; Lan vừa khóc vừa tranh cãi với chú Minh, và nhân vật trung tâm của xung đột - bé Thủ y - chỉ im lặng. Đây chính là big gloom của bộ phim, khi nhân vật bị dồn đến tận cùng xung đột, và tưởng chừng xuôi tay trước số phận. Thấu hiểu tâm lý các nhân vật, nhà biên kịch Stephane Gauger đồng thời biết rất rõ một nguyên tắc quan trọng của kịch bản phim: quyền được nói thuộc về ai. Sự im lặng của Thủ y chất chứa cả sự sợ hãi, bất lực, bất mãn và đầy khó xử. Cách giải quyết xung đột này cũng hiển nhiên và hợp lý: bé Thủ y phải theo chú Minh về nhà, dù trước cửa trại trẻ, cô bé cố giằng co với chú Minh để được ở lại với Lan. Như một dự báo, sau khi về nhà, bé Thủ y lại trốn đi, lần này mang theo tiền (ăn cắp của chú) để chuộc con voi của Hải. Đó là tình huống mở ra hồi thứ ba của phim, tạo lực đẩy cho một kết thúc có hậu. Đạo diễn kiêm biên kịch, không hề đuối sức, vẫn tạo được bất ngờ và xung đột ở khoảng gần kết phim. Hải từ chối cơ hội chuộc lại con voi của anh và đưa bé Thủ y về Biên Hòa trả tiền cho chú Minh. Bé Thủ y, vẫn ương ngạnh và quyết liệt,
  11. khẳng định đó là tiền công mà đáng lẽ cô bé được hưởng trong thời gian làm việc cho chú Minh. Hai tính cách, hai sự quyết liệt, thêm một lần nữa va chạm nhau, nhưng không khiến nhau rạn vỡ, mà được bung tỏa cùng lúc với lòng hy sinh và tình yêu thương. Bé Thủ y được phép lên thành phố với Hải, và hành trình của cô bé có thể coi là chấm dứt. Hai chú cháu tưởng chừng sẽ mất Lan, khi hành trình nghỉ phép của cô tiếp viên hàng không xinh đẹp cũng đến hồi kết thúc. Người xem, rất có thể đã hụt hẫng, đã bị choáng trước trường đoạn cuối cùng của phim. Hai bối cảnh, hai câu chuyện của hai tuyến nhân vật được dựng song song bằng một nhịp điệu gấp gáp đến chóng mặt: một bên là Lan, sải bước trên nhà chờ sân bay Tân Sơn Nhất, kéo theo chiếc vali với những bánh xe miết xuống mặt sàn, rít lên từng hồi như níu kéo; một bên là Hải và bé Thủ y, chạy khắp những phố xá quen thuộc nườm nượp người để tìm Lan. Khi người xem đoán rằng, tình thế không thể cứu vãn nổi, bức thư bé Thủ y gửi cho Lan đã trở thành cứu cánh. Kết thúc của phim, dầu không nằm ngoài dự đoán và làm thỏa mãn khán giả nhưng đã được chuẩn bị kỹ càng bằng cả một quá trình gặp gỡ – tìm hiểu – mâu thuẫn – thấu hiểu nhau của các nhân vật. Khán giả sẽ tha thứ, sẽ bỏ qua và quên đi những tình cờ có phần nương nhẹ với nhân vật của đạo diễn để chấp nhận một cái kết tràn đầy hy vọng, tình yêu và nhân bản. Nhân vật khổ hạnh không bị đày đọa, bị vùi dập mà được nâng niu và tìm thấy hạnh phúc. Sau cuộc hành trình, ba nhân vật chính đều có sự thay đổi tính cách hoặc quan niệm sống: bé Thủ y vẫn mạnh mẽ và cứng cỏi nhưng bớt bướng bỉnh hơn; Lan và Hải đã vượt qua những mặc cảm và rào cản để yêu nhau. Quan trọng hơn cả, họ không còn cô đơn, lạc lõng nữa; họ dựa vào nhau mà sống, mà hy vọng. Sài Gòn, trước khi ba nhân vật chính gặp nhau, giản đơn là nơi để trốn chạy, để kiếm sống, để trú trọ, và khi họ thuộc về nhau, lại trở thành tổ ấm, thành nơi nảy chồi hạnh phúc. Hệ thống sự kiện trong “Cú và chim se sẻ”, thoạt đầu có vẻ không tuân theo logic nhân quả và dựa nhiều vào sự ngẫu nhiên, nhưng khi tham gia vào câu
  12. chuyện, chúng lại tạo cho câu chuyện một mạch ngầm logic có thể chấp nhận được. Từng chi tiết nhỏ nhặt trong phim (ví dụ như cảnh Thủ y một mình đi mua chuối cho voi, chi tiết “từ trên cao cô nhìn xuống và cháu sẽ nhìn lên cùng một lúc” Thủ y viết trong thư cho Lan…) đều được gieo từ trước, tức đã có tiền lệ, là một sự nhắc lại (thể hiện tính thống nhất) nên khán giả không bị hụt hẫng hay bất ngờ. Việc bé Thủ y bỏ nhà để trở lại thành phố có thể không nằm ngoài dự đoán của người xem, vì nhiều chi tiết đều được “găm” sẵn trong phần trước của phim và vì hành động này phù hợp với logic tính cách nhân vật (bướng bỉnh, tự trọng và độc lập). Tương tự thế, sự kiện Thủ y ăn cắp tiền cũng không gây sốc và phản cảm, vì khán giả đã chứng kiến cách cư xử khắc nghiệt của chú Minh với Thủ y (trước và sau khi cô bé bỏ nhà đi), đã nghe Thủ y kể cho Hải chuyện cô bạn ăn cắp tiền của mẹ nên dễ đồng tình với lý lẽ “Đó là tiền của cháu, ông ta nợ cháu” của cô bé. “Cú và chim se sẻ” là bài ca trong trẻo về gia đình, về tình người và lòng tốt. Câu chuyện rõ ràng được kể ở thời hiện đại, trong một thành phố cụ thể, nhưng dường như đã vượt thoát khỏi cái khung không – thời gian ấy để trở nên phi thời, phi không gian. Người ta hoàn toàn có thể trông chờ và tin tưởng rằng, ở một thành phố khác, một thời đại khác, vẫn còn những con người đáng yêu như thế, còn một câu chuyện cảm động như thế. Sự tài tình trong cách kể chuyện thể hiện ở cách xây dựng nhân vật, tạo xung đột bằng tiết tấu, gieo – gặt chi tiết, cấu trúc hành trình, khu yết thông tin… được vận dụng trong “Cú và chim se sẻ” là không thể phủ nhận. Mặc dù vậy, không thể nói bộ phim này có một cấu trúc tự sự hoàn hảo. Bỏ qua việc đạo diễn lạm dụng hơi nhiều sự tình cờ (có chủ ý), dòng thông tin của bộ phim có đôi chỗ hơi thừa thãi. Đó là một loạt cảnh quay mang phong cách phim tài liệu ghi hình những đứa trẻ nông thôn đang cười hoặc chụp ảnh được ghép vào trước trường đoạn Thủ y ăn cắp tiền, bỏ nhà lên thành phố lần thứ hai. Ngoài ý nghĩa phô diễn cảnh nông thôn Việt Nam hiền hòa và nối kết (một cách gượng gạo) nụ cười của
  13. những đứa trẻ với tâm hồn, với hành trình đi tìm hạnh phúc của Thủ y, những cảnh quay này hoàn toàn là loạt thông tin nằm ngoài tuyến truyện, không có giá trị bổ khuyết hoặc làm giàu thêm cho thông tin của câu chuyện phim. Một điều nữa cũng khó “lờ” đi ở bộ phim này, là tựa đề của nó. “Cú và chim se sẻ” là một sự ám gợi, một ẩn dụ mà Gauger gửi đến khán giả của ông. Như bé Thủ y đã giải thích, “cú” là hình ảnh của Hải – thông thái, nghiêm nghị và hơi…già đời còn “se sẻ” là hình ảnh của Lan – dễ thương, mong manh và hay bay nhảy. Cách lý giải này khá hợp lý và hấp dẫn. Tuy nhiên, những ý nghĩa của hình ảnh “cú” như bé Thủ y giải thích chỉ tồn tại trong văn hóa phương Tây, hay ít ra là trong hình dung của những khán giả có hiểu biết về văn hóa phương Tây. Trong hình dung của người Việt nói chung (và chắc hẳn là không ít khán giả đại chúng của “Cú và chim se sẻ”), cú là một biểu tượng mang những ý nghĩa tiêu cực: điềm gở, sự xui xẻo, sự lén lút… Sự khác biệt trong cách tiếp nhận văn hóa của những xứ sở khác biệt, rất có thể khiến dụng ý và sự so sánh tinh tế của đạo diễn bị khán giả hiểu lầm. Dẫu vậy, bất chấp tất cả những chi tiết phi lý, một chút ủ y mị, sự cách biệt về quan niệm văn hóa và cả những cảnh quay mang chất “du lịch”, “Cú và chim se sẻ” vẫn là một bộ phim rất hay. Duyên dáng, nhẹ nhàng mà rất đỗi sâu sắc, tác phẩm này là kết tinh của nét lãng mạn, tế vi, giàu chất thơ của đất Pháp và sự mãnh liệt ngầm ẩn, sự khoáng đạt, nhân văn của con người Việt Nam. Đó là một cái nhìn, một sự khám phá đến kiệt cùng tâm hồn thành phố, tâm hồn con người hòa quyện với sự điêu luyện nghề nghiệp và những chi tiết đầy dụng công. Đó là một Sài Gòn khác, một Việt Nam khác, rất quen thuộc, rất gần gũi mà vẫn xa xôi, vẫn mơ hồ. Đó là tinh hoa chưng cất từ những cảm nhận rất riêng của tác giả - thứ cảm nhận của một con người vừa quen vừa lạ, vừa Việt Nam, vừa rất không Việt Nam…
  14. [1] Xem phim “Cú và chim se sẻ” [2] Cấu trúc ba hồi: cấu trúc cổ điển của hầu hết các phim Hollywood. Hồi 1: giới thiệu các nhân vật chính và vấn đề/mâu thuẫn/xung đột cũng như mục tiêu của họ. Hồi 2: hồi hấp dẫn nhất phim, mâu thuẫn được phát triển đến đỉnh điểm, nhân vật chính bị đẩy đến tình huống bắt buộc phải giải quyết vấn đề của mình. Ở gần cuối hồi này, có một điểm mấu chốt (gọi là big gloom), là bước ngoặt quan trọng của câu chuyện phim, khi nhân vật chính bị dồn vào đường cùng, những phức tạp, rắc rối và mâu thuẫn đổ dồn vào một thời điểm, thường là nhân vật phụ tương phản (kẻ ngáng đường) và nhân vật phụ tương hỗ (người ủng hộ) cùng xung đột với nhân vật chính. Hồi 3: mâu thuẫn/xung đột được giải quyết, những bí ẩn được “gieo” (set up) ở hồi 1 và hồi 2 của phim được “gặt” (pay off) ở hồi này. Hồi 3 thường có một hoặc hai sự kiện bất ngờ, nằm ngoài dự đoán của khán giả, nhưng luôn kết thúc bằng việc , nhân vật chính đạt được mục tiêu (happy ending).
nguon tai.lieu . vn