Xem mẫu

  1. TRIPS, cùng với các điều tương ứng của Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Điều 211(a)(1) Đạo luật này của Hoa Kỳ nhằm cấm các giao dịch “liên quan đến nhãn hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh” trùng hoặc hầu như tương tự với một nhãn hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh được sử dụng gắn liền với một doanh nghiệp hoặc tài sản đã bị Chính phủ Cuba tịch thu, trừ trường hợp có sự đồng ý của chủ sở hữu ban đầu, hoặc người kế thừa nhãn hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh đó.” Điều 211(a)(2) quy định rằng toà án bất kỳ của Hoa Kỳ cũng không được phép “công nhận, thi hành hoặc phê chuẩn theo cách khác yêu cầu đòi quyền bất kỳ” của một “công dân được chỉ định” trên cơ sở quyền theo luật chung (luật án lệ) hoặc theo Điều 515305 Phần 31, Bộ Quy chế Hoa Kỳ, theo đó Quy chế về Kiểm soát các tài sản của Cuba đã được ban hành. EC đã lập luận rằng điều 211(a) (1) trái với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS cùng với Điều 6quinquies Công ước Pari và Điều 15.1 Hiệp định TRIPS. Lập luận này đã bị Hội đồng giải quyết tranh chấp của WTO bác bỏ. Tuy nhiên, Hội đồng giải quyết tranh chấp đã chấp nhận lập luận của EC rằng điều 211(a)(2) không phù hợp với Điều 16.1 và Điều 42 Hiệp định TRIPS, nhưng không trái với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS cùng với các Điều 6bis và Điều 8 Công ước Pari và không trái với Điều 4 Hiệp định TRIPS. Hội đồng cũng phán quyết rằng các tên thương mại không phải là một loại quyền sở hữu trí tuệ được bao hàm trong Hiệp định TRIPS. Cả hai bên đều đã khiếu nại các phán quyết này. Hoa Kỳ lập luận rằng giải thích về Điều 211 của Hội đồng giải quyết tranh chấp là một vấn đề của thực tiễn và do đó không thuộc thẩm quyền phán quyết của Hội đồng giải quyết tranh chấp vốn được giới hạn ở các vấn đề về luật pháp. Lập luận này đã bị Hội đồng giải quyết khiếu nại bác bỏ, tiếp theo phán quyết của Hội đồng này về vụ tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ về việc cấp bằng độc quyền sáng chế cho dược phẩm, theo đó “luật pháp cấp tỉnh cũng có thể tạo thành chứng cứ về việc tuân thủ hay không tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế”30 và do đó Hội đồng giải quyết khiếu nại cũng có quyền xem xét giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp về ý nghĩa của Điều 211 đạo luật này của Hoa Kỳ.31 Vấn đề trong vụ tranh chấp này, theo đó nêu ra các câu hỏi về việc giải thích các điều ước quốc tế, là các tên thương mại có được bao hàm bởi Hiệp định TRIPS hay không. Điều 8 Công ước Pari quy định rằng tên thương mại “phải được bảo hộ ở tất cả các nước thuộc Liên hiệp mà không phải thực hiện nghĩa vụ nộp đơn đăng ký, bất kể tên thương mại đó có tạo thành một phần của nhãn hiệu hay không”. Hội đồng giải quyết tranh chấp đã phán quyết rằng tên thương mại không thuộc các loại đối tượng sở hữu trí tuệ mà Hiệp định TRIPS áp dụng. Hội đồng đã dựa vào Điều 1.2 Hiệp định TRIPS để đưa ra kết luận, theo đó “Nhằm mục đích của Hiệp định này, thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” đề cập 14 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  2. đến tất cả các phạm trù sở hữu trí tuệ là đối tượng của các Mục từ 1 đến 7 Phần II”. Áp dụng các nguyên tắc giải thích quy định tại Điều 31 Công ước Viên, Hội đồng đã tuyên bố rằng “cách giải thích theo đúng nguyên văn của Điều 1.2 là điều này đưa ra một định nghĩa mang tính loại trừ và điều đó được khẳng định bởi cụm từ “tất cả các phạm trù”, trong đó từ “tất cả” chỉ ra rằng đây là một danh mục không đầy đủ”.32 Về việc không xuất hiện đối tượng tên thương mại trong các mục từ 1 đến 7 Phần II Hiệp định TRIPS, Hội đồng đã xác nhận vấn đề này. Hội đồng giải quyết khiếu nại không nhất trí với Hội đồng giải quyết tranh chấp về vấn đề này. Hội đồng lưu ý rằng Điều 8 Công ước Pari chỉ liên quan đến tên thương mại đã được nhập vào Hiệp định TRIPS theo quy định tại Điều 2.1. Hội đồng giải quyết khiếu nại đã dẫn chiếu đến tuyên bố trước đó của mình trong vụ US-Gasoline, rằng Một trong số những hệ quả của “quy tắc giải thích chung” trong Công ước Viên là việc giải thích phải đưa ra nghĩa và hiệu lực cho tất cả các điều khoản của một điều ước. Người giải thích không được tự do đưa ra một cách giải thích có thể dẫn đến kết cục là làm cho cả các điều khoản hoặc các đoạn văn của một điều ước trở nên thừa hoặc vô nghĩa.33 Hội đồng giải quyết khiếu nại cho rằng giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp có thể có nghĩa rằng việc đưa Điều 8 Công ước Pari vào Hiệp định TRIPS là vô nghĩa. Hội đồng giải quyết khiếu nại cũng đã bác bỏ giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp về lịch sử đàm phán Hiệp định TRIPS. Cụ thể, Hội đồng đã phản bác những tài liệu mà Hội đồng giải quyết tranh chấp đã dựa vào để giải thích là không có sự đề cập đến tên thương mại.34 Hội đồng giải quyết khiếu nại đã đưa ra một trong số những kết luận là điều 211 đạo luật của Hoa Kỳ không phù hợp với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS, cũng như Điều 8 của Công ước Paris. 1 Nguyên tắc về việc các điều ước quốc tế phải được thi hành một cách thiện chí. 2 T. Cottier, ‘Dispute Settlement in the World Trade Organization: Characteristics and Structural Implications for the European Union’ (1998) 35 Common Market Law Rev. 325. 3 UNDP, Human Rights and Human Development, New York, UNDP, 2000, 83-88. 15 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  3. 4 Xem UN Commission on Human Rights, Sub-Commission on Prevention of Discrimination and Protection of Minorities, ‘Draft UN Declaration on the Rights of Indigenous Peoples’ (1995) 34 ILM 541. 5 WTO, Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS50/R, 5 tháng 9 năm 1997, đoạn 7.18. 6 Trong cùng tài liệu nêu trên . 7 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.24. 8 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.27. 9 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.29. 10 Ví dụ, Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại của WTO về vụ “Thuế của Hoa Kỳ áp dụng cho dầu lửa và một số chất được nhập khẩu” ngày 17 tháng 6 năm 1987, BISD/34S/1, đoạn 5.2.2. 11 Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp của WTOWT/DS50/R, 5/9/1997, đoạn 7.30. 12 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 742. 13 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại của WTO về ‘Việc bảo hộ patent của Ấn Độ đối với dược phẩm và sản phẩm hoá nông”, 1997, đoạn 34-42. 14 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 45. 15 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 46. 16 Trong cùng tài liệu nêu trên 17 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 55. 18 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 57. 19 Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS170/R, 5/5/2000, đoạn 7.1. 20 Báo cáo của Cơ quan giải quyết khiếu nại, WT/DS170/170/AB/R, 17/9/2000, đoạn 53. 21 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 59-60. 22 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 72. 23 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 73. 16 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  4. 24 Báo cáo của Uỷ ban Tư pháp Hạ viện, Tiểu ban Toà án, và Báo cáo của Hạ viện về vấn đề sở hữu trí tuệ số 94-1733, 94th Cong 2nd Sess. 75 (1976) được trích dẫn cùng tài liệu nêu trên, đoạn 2.5. 25 Báo cáo của Ban bồi thẩm WT/DS160/R, 15/06/2000, đoạn 6.43. 26 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.53 27 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.55. 28 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.60-6.66. 29 Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.265. 30 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại WT/DS50/AB/R, được thông qua ngày 16/01/1998, đoạn 65. 31 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại WT/DS176/AB/R, được thông qua ngày 2/01/2002, đoạn 105. 32 Báo cáo của Ban bồi thẩm WT/DS/176/R, 6/8/2001, đoạn 8.26. 33 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại, United States-Standards for Reformulated and Conventional Gasoline, WT/DS2/AB/R, thông qua ngày 01/11/1996, đoạn 106. 34 Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại trong tài liệu nêu trên, đoạn 339. 2. Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883 Lịch sử Trong suốt cuối thế kỷ 19, trước khi có sự ra đời của các công ước quốc tế trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, việc bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp tại các quốc gia khác nhau trên thế giới là khó khăn vì luật pháp tại các nước này rất đa dạng. Hơn nữa, đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế phải được nộp đồng thời tại tất cả các quốc gia nhằm tránh hệ quả là việc công bố tại một quốc gia sẽ làm mất tính mới của sáng chế đó tại các quốc gia khác. Những vấn đề thực tiễn này đã thúc đẩy mong muốn khắc phục được các trở ngại đó. 17 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  5. Trong nửa cuối thế kỷ 19, sự phát triển của công nghệ theo xu hướng quốc tế hoá và sự tăng trưởng của thương mại quốc tế khiến cho việc hài hoà hoá pháp luật về sở hữu công nghiệp về cả lĩnh vực nhãn hiệu và sáng chế trở nên cấp thiết. Khi Chính phủ hai nước Áo-Hungary mời các quốc gia khác tham dự một triển lãm quốc tế về sáng chế được tổ chức tại Viên năm 1873 thì một thực tế đã cản trở sự tham dự này là nhiều khách mời nước ngoài không sẵn sàng trưng bày các sáng chế của họ tại triển lãm đó do chưa có sự bảo hộ pháp lý thoả đáng đối với các sáng chế được mang đến triển lãm đó. Điều này dẫn đến hai xu hướng: thứ nhất, một luật đặc biệt của Áo bảo đảm sự bảo hộ tạm thời cho sáng chế, nhãn hiệu, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp của tất cả những người nước ngoài tham gia triển lãm đó. Thứ hai, Hội nghị Viên về cải cách chế độ bảo hộ sáng chế đã được nhóm họp trong cùng năm đó, năm 1973. Hội nghị đã soạn thảo một số nguyên tắc là cơ sở cần có của một hệ thống sáng chế hữu ích và có hiệu quả và cũng đã thúc giục các chính phủ “phải tạo ra một thoả thuận sơ bộ quốc tế về bảo hộ sáng chế càng sớm càng tốt.” Tiếp theo Hội nghị Viên, một Hội nghị quốc tế về sở hữu công nghiệp đã được nhóm họp tại Pari năm 1878. Kết quả chính của hội nghị này là một quyết định rằng một trong số các chính phủ được yêu cầu phải triệu tập một hội nghị ngoại giao quốc tế “với nhiệm vụ là xác định cơ sở của một hệ thống pháp luật thống nhất” trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Sau hội nghị đó, bản dự thảo cuối cùng đề xuất thành lập một “hiệp hội” quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp đã được chuẩn bị tại Pháp và đã được Chính phủ Pháp gửi tới nhiều quốc gia khác cùng với lời mời tham dự Hội nghị quốc tế vào năm 1880 tại Pari. Hội nghị quốc tế đó đã thông qua một bản dự thảo công ước mà về cơ bản bao gồm những quy định chủ yếu của Công ước Pari ngày nay. Năm 1883, một Hội nghị ngoại giao mới được nhóm họp tại Pari, kết thúc bằng việc ký kết và thông qua lần cuối cùng Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Công ước Pari đã được 11 quốc gia tham gia ký kết: Bỉ, Bra-xin, El Sanvado, Pháp, Guatemala, Italia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Secbia, Tây Ban Nha và Thuỵ Sĩ. Khi Công ước có hiệu lực vào ngày 7 tháng 7 năm 1884 thì Vương quốc Anh, Tuynidi và Ecuado cũng đã tham gia Công ước, khiến số lượng thành viên ban đầu tăng lên thành 14. Chỉ trong vòng một phần tư đầu thế kỷ 20 và đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ II, số lượng thành viên của Công ước Pari đã tăng lên đáng kể. 18 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  6. Công ước Pari đã được sửa đổi nhiều lần từ sau khi được ký kết vào năm 1883. Mỗi một hội nghị sửa đổi, bắt đầu từ Hội nghị Brussel năm 1990, đều kết thúc bằng việc thông qua một Văn kiện sửa đổi của Công ước Pari.Trừ những văn kiện tại hội nghị sửa đổi Brussel (năm 1897 và 1900) và Washington D.C. (năm 1911) không còn hiệu lực, tất cả những văn kiện trước đó vẫn có ý nghĩa, mặc dù phần lớn các quốc gia hiện nay đều là thành viên của văn kiện mới nhất, Văn kiện Stockholm năm 1967. Các quy định cơ bản Các quy định của Công ước Pari có thể được chia thành bốn phạm trù chính: - phạm trù thứ nhất bao gồm những nguyên tắc của luật nội dung về bảo đảm quyền cơ bản – chế độ đối xử quốc gia – tại mỗi quốc gia thành viên; - phạm trù thứ hai thiết lập một quyền cơ bản khác, đó là quyền hưởng ưu tiên; - phạm trù thứ ba xác định một số nguyên tắc chung trong lĩnh vực luật nội dung, bao gồm các nguyên tắc xác lập quyền và nghĩa vụ của các thể nhân và pháp nhân, hoặc những nguyên tắc yêu cầu hoặc cho phép các quốc gia thành viên được xây dựng luật pháp theo những nguyên tắc đó; - phạm trù thứ tư giải quyết về khuôn khổ hành chính được tạo lập để thực thi Công ước và những điều khoản cuối cùng của Công ước. Đối xử quốc gia Đối xử quốc gia có nghĩa là, liên quan đến việc bảo hộ sở hữu công nghiệp, mỗi quốc gia thành viên Công ước Pari phải dành sự bảo hộ cho công dân của các quốc gia thành viên khác như sự bảo hộ được dành cho công dân của nước mình. Các điều khoản có liên quan được quy định tại Điều 2 và 3 của Công ước. Chế độ đối xử quốc gia còn được trao cho công dân của những nước không phải là thành viên của Công ước Pari nhưng họ cư trú tại một quốc gia thành viên hoặc nếu họ có cơ sở công nghiệp hoặc thương mại “có hiệu quả và có thực” tại quốc gia đó. Tuy nhiên, không đặt ra yêu cầu về cư trú hoặc cơ sở kinh doanh tại nước được yêu cầu bảo hộ như là một điều kiện để được hưởng sự bảo hộ đối với công dân của các quốc gia thành viên. Nguyên tắc đối xử quốc gia không chỉ bảo đảm rằng những người nước ngoài sẽ được bảo hộ mà họ còn không bị phân biệt đối xử theo cách thức bất kỳ. Thường thì sẽ rất 19 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  7. khó khăn và đôi khi không thể có được sự bảo hộ thoả đáng cho sáng chế, nhãn hiệu và các đối tượng sở hữu công nghiệp khác ở nước ngoài nếu không có nguyên tắc này. Nguyên tắc đối xử quốc gia được áp dụng trước hết cho tất cả các “công dân” của các quốc gia thành viên. Thuật ngữ “công dân” bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. Đối với pháp nhân, có thể sẽ gặp khó khăn khi xác định pháp nhân đó mang quốc tịch của quốc gia nào. Nói chung, thường thì các pháp nhân không thể có nhiều quốc tịch theo nhiều luật quốc gia khác nhau theo nghĩa hẹp của từ này (từ quốc tịch). Tất nhiên, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước của một quốc gia thành viên hoặc các pháp nhân khác được thành lập theo luật công của quốc gia đó phải được coi là công dân của quốc gia thành viên này. Các pháp nhân được thành lập theo luật tư của một quốc gia thành viên thường sẽ là công dân của quốc gia đó. Nếu họ có trụ sở chính đặt tại một quốc gia thành viên khác thì họ cũng có thể được coi là công dân của nước mà họ đặt trụ sở. Theo Điều 2(1), nguyên tắc đối xử quốc gia được áp dụng với tất cả các điều kiện thuận lợi mà luật pháp của các quốc gia khác nhau dành cho công dân. Quyền ưu tiên Quyền ưu tiên có nghĩa là trên cơ sở một đơn hợp lệ yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp do một người nộp tại một trong số các quốc gia thành viên, chính người này (hoặc người được kế thừa quyền này), trong một thời hạn nhất định (6 hoặc 12 tháng) có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại tất cả các quốc gia thành viên khác. Những đơn nộp sau sẽ được coi như được nộp cùng ngày với đơn nộp sớm nhất. Vì vậy, những đơn nộp sau được hưởng quyền ưu tiên đối với tất cả các đơn liên quan tới cùng một sáng chế được nộp sau ngày đơn đầu tiên được nộp. Các đơn này cũng sẽ được hưởng chế độ ưu tiên đối với tất cả những hành động được tiến hành sau ngày đó mà thường có khả năng làm mất quyền của người nộp đơn hoặc làm mất khả năng được cấp bằng độc quyền sáng chế cho sáng chế của người nộp đơn. Những quy định liên quan tới quyền ưu tiên được đề cập tại Điều 4 của Công ước. Quyền ưu tiên tạo ra nhiều thuận lợi về mặt thực tế đối với người nộp đơn muốn có được sự bảo hộ tại nhiều quốc gia. Người nộp đơn không buộc phải nộp tất cả các đơn tại nước mình và nước ngoài vào cùng một thời điểm bởi người nộp đơn có 6 hoặc 12 tháng tuỳ theo sự lựa chọn của mình để quyết định yêu cầu bảo hộ tại quốc gia nào. Người nộp đơn có thể sử dụng thời hạn này để tổ chức thực hiện các bước nhằm tìm kiếm sự bảo hộ ở các nước khác nhau trong từng trường hợp cụ thể. 20 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  8. Người được hưởng quyền ưu tiên là người bất kỳ có quyền được hưởng lợi từ nguyên tắc đối xử quốc gia, nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc một quyền sở hữu công nghiệp khác một cách hợp lệ tại một trong số các quốc gia thành viên. Quyền ưu tiên chỉ có thể dựa trên đơn đầu tiên đối với cùng một quyền sở hữu công nghiệp mà đã được nộp tại một quốc gia thành viên. Vì vậy, không thể căn cứ vào đơn thứ hai, có thể là một đơn sửa đổi và sau đó sử dụng đơn thứ hai này như cơ sở hưởng quyền ưu tiên. Lý do của nguyên tắc này là rõ ràng: một đơn yêu cầu bảo hộ không thể cho phép một chuỗi bất tận các yêu cầu hưởng quyền ưu tiên cho cùng một đối tượng, bởi trên thực tế điều này có thể kéo dài đáng kể thời hạn bảo hộ cho đối tượng đó. Điều 4A91) của Công ước Pari thừa nhận một cách rõ ràng rằng quyền ưu tiên cũng có thể được áp dụng cho người kế thừa của người nộp đơn đầu tiên. Quyền ưu tiên cũng có thể được chuyển giao cho người kế thừa mà không gắn với việc chuyển giao đồng thời đơn đầu tiên. Đặc biệt, điều này cũng cho phép chuyển giao quyền ưu tiên cho những người khác nhau ở những nước khác nhau, một thông lệ đã trở nên phổ biến. Đơn sau phải đề cập tới cùng một đối tượng như đơn đầu tiên, là cơ sở yêu cầu hưởng quyền ưu tiên. Nói cách khác, đối tượng của cả hai đơn đều phải cùng là một sáng chế, một mẫu hữu ích, một nhãn hiệu hoặc một kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, có thể sử dụng đơn đầu tiên yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cho sáng chế làm cơ sở hưởng quyền ưu tiên cho đăng ký mẫu hữu ích và ngược lại. Sự thay đổi hình thức bảo hộ tương tự theo cả hai hướng như vậy cũng có thể được thực hiện giữa mẫu hữu ích và kiểu dáng công nghiệp, phù hợp với luật pháp quốc gia. Đơn đầu tiên phải được “nộp một cách hợp lệ” nhằm tạo cơ sở cho việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên. Mọi việc nộp đơn tương đương với việc nộp đơn quốc gia hợp lệ đều là cơ sở hợp lệ cho việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên. Việc nộp đơn quốc gia hợp lệ có nghĩa là việc nộp đơn bất kỳ đủ để xác lập ngày nộp đơn ở nước có liên quan. Khái niệm đơn “quốc gia” bao gồm cả những đơn được nộp theo các điều ước song phương hoặc đa phương được ký kết giữa các quốc gia thành viên. Việc huỷ bỏ, rút, từ chối đơn đầu tiên không làm mất khả năng là cơ sở yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của đơn này. Quyền ưu tiên vẫn tồn tại ngay cả khi đơn đầu tiên là cơ sở của việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên đó không còn tồn tại. Hiệu lực của quyền ưu tiên được quy định tại Điều 4B. Có thể tóm tắt quy định này như sau, như một hệ quả của yêu cầu hưởng quyền ưu tiên, đơn nộp sau phải được coi 21 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  9. như đã được nộp vào thời điểm nộp đơn của đơn đầu tiên ở một nước thành viên khác, là cơ sở của việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của đơn đó. Bởi hệ quả của quyền ưu tiên, tất cả những hoạt động diễn ra trong suốt thời gian từ ngày nộp đơn của đơn đầu tiên và đến những đơn nộp sau, được gọi là giai đoạn ưu tiên, không thể làm mất quyền mà là đối tượng của đơn nộp sau. Về ví dụ cụ thể, điều này có nghĩa là đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cho cùng một sáng chế được một bên thứ ba nộp trong giai đoạn ưu tiên sẽ không tạo ra quyền ưu tiên, mặc dù đơn đó được nộp trước cả đơn nộp sau. Tương tự, một sự công bố hoặc việc sử dụng công khai sáng chế mà là đối tượng của đơn nộp sau trong giai đoạn ưu tiên sẽ không làm mất tính mới hay trình độ sáng tạo của sáng chế đó. Vì mục đích đó, không cần quan tâm đến việc công bố do người nộp đơn hay do chính tác giả sáng chế hay một bên thứ ba thực hiện. Độ dài của giai đoạn ưu tiên đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp là khác nhau. Đối với bằng độc quyền sáng chế và mẫu hữu ích, giai đoạn ưu tiên là 12 tháng, đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu thì thời hạn này là 6 tháng. Khi xác định độ dài của giai đoạn ưu tiên, Công ước Pari đã phải tính đến những lợi ích xung đột giữa người nộp đơn và các bên thứ ba. Giai đoạn ưu tiên hiện được quy định trong Công ước Pari dường như đã tạo ra sự cân bằng hợp lý giữa hai chủ thể này. Quyền ưu tiên được Công ước thừa nhận cho phép yêu cầu hưởng quyền “ưu tiên kép” và “ưu tiên từng phần”. Vì vậy, đơn nộp sau không chỉ có thể yêu cầu quyền ưu tiên trên cơ sở một đơn nộp sớm hơn mà còn có thể kết hợp quyền ưu tiên trên cơ sở nhiều đơn nộp trước mà mỗi đơn trước đó có liên quan đến những điểm khác nhau của đối tượng nêu trong đơn nộp sau. Hơn nữa, trong đơn nộp sau, các yếu tố có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên có thể được kết hợp với những yếu tố không hưởng quyền ưu tiên. Trong tất cả những trường hợp này, tất nhiên là đơn nộp sau phải phù hợp với yêu cầu về tính thống nhất của sáng chế. Những khả năng này phù hợp với một nhu cầu thực tế. Thường thì sau khi nộp đơn lần đầu tiên, những cải tiến hay bổ sung đối với sáng chế mà là đối tượng của những đơn nộp sau tại nước xuất xứ. Trong những trường hợp như vậy, rất thiết thực khi kết hợp những đơn nộp trước thành một đơn nộp sau và tiến hành nộp đơn này ở một nước thành viên khác trước khi kết thúc năm ưu tiên. Sự kết hợp này có tính khả thi ngay cả trong trường hợp các yêu cầu hưởng quyền ưu tiên kép bắt nguồn từ các quốc gia thành viên khác nhau. 22 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  10. Các quy định liên quan đến patent Sự độc lập của các bằng độc quyền sáng chế Bằng độc quyền sáng chế được cấp ở các quốc gia thành viên cho công dân hay người cư trú tại các quốc gia thành viên phải được coi là độc lập với các bằng độc quyền sáng chế cấp cho cùng một sáng chế ở các nước khác, kể cả các quốc gia không phải là thành viên. Nguyên tắc về “tính độc lập” của các bằng độc quyền sáng chế này được quy định tại Điều 4bis. Lý do cơ bản và luận điểm chính của nguyên tắc này là luật pháp và các thông lệ hành chính quốc gia thường khác nhau. Một quyết định không cấp hoặc huỷ bỏ hiệu lực một bằng độc quyền sáng chế ở một nước nhất định trên cơ sở luật pháp của nước này thường sẽ không liên quan đến hoàn cảnh pháp lý khác nhau ở các nước khác. Sẽ là không hợp lý khi độc quyền của chủ sở hữu sáng chế ở các nước khác bị mất với lý do người đó bị mất độc quyền đối với sáng chế ở một nước cụ thể vì không nộp lệ phí duy trì hiệu lực ở nước đó, hoặc với lý do bằng độc quyền sáng chế bị huỷ bỏ hiệu lực ở nước đó vì một lý do mà luật pháp của các nước khác đó không quy định. Một điểm đặc biệt của nguyên tắc độc lập của bằng độc quyền sáng chế được quy định tại Điều 4bis(5). Điều khoản này quy định bằng độc quyền sáng chế được cấp trên cơ sở một đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của một hoặc nhiều đơn được nộp ở nước ngoài phải có thời hạn hiệu lực bằng thời hạn hiệu lực như thể các bằng độc quyền sáng chế đó được cấp mà không có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên. Nhập khẩu, không khai thác và li-xăng cưỡng bức Các vấn đề về việc nhập khẩu các vật phẩm chứa sáng chế, việc không thực hiện sáng chế đã được cấp bằng độc quyền và li-xăng cưỡng bức được quy định tại Điều 5.A của Công ước. Đối với vấn đề nhập khẩu, điều này quy định rằng việc nhập khẩu bởi chủ bằng độc quyền vào một quốc gia nơi bằng độc quyền sáng chế được cấp, các vật phẩm chứa sáng chế và được sản xuất tại quốc gia bất kỳ của Liên hiệp sẽ không dẫn đến việc tước quyền theo bằng độc quyền sáng chế đó. Đối với việc khai thác bằng độc quyền sáng chế và li-xăng cưỡng bức, bản chất của các quy định tại Điều 5A là mỗi quốc gia có thể tiến hành các biện pháp pháp lý quy định việc cấp li-xăng cưỡng bức. Những li-xăng cưỡng bức này nhằm ngăn chặn sự lạm 23 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  11. dụng có thể nảy sinh từ độc quyền được cấp theo bằng độc quyền sáng chế, ví dụ việc không khai thác sáng chế hoặc khai thác sáng chế không đầy đủ. Việc cấp li-xăng cưỡng bức căn cứ vào việc không khai thác hoặc khai thác không đầy đủ là biện pháp cưỡng bức thông dụng nhất chống lại chủ sở hữu để ngăn chặn sự lạm dụng quyền được cấp theo bằng độc quyền sáng chế. Việc này được quy định rõ ràng tại Điều 5A. Lý lẽ chính cho việc bắt buộc khai thác một sáng chế tại một quốc gia cụ thể là sự cân nhắc rằng, để thúc đẩy việc công nghiệp hoá của một quốc gia, các bằng độc quyền sáng chế không nên được sử dụng chỉ để ngăn cản việc khai thác sáng chế đó tại nước đó hoặc để dành độc quyền nhập khẩu vật phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế cho chủ sở hữu. Đúng hơn là chế độ độc quyền sáng chế nên được sử dụng để du nhập công nghệ mới vào nước đó. Nhưng việc chủ bằng độc quyền có thực sự muốn làm vậy hay không thì trước hết họ cần cân nhắc về mặt kinh tế và sau đó là về thời gian. Việc khai thác sáng chế ở tất cả các nước thường không có hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, có một sự thừa nhận chung rằng việc khai thác ngay tức khắc tại tất cả các nước là điều không khả thi. Do đó, Điều 5A đã cố gắng tạo ra sự cân bằng giữa các lợi ích xung đột này. Không được phép cấp li-xăng cưỡng bức do không khai thác sáng chế hoặc khai thác sáng chế không đầy đủ trước khi kết thúc một thời hạn nhất định. Thời hạn này sẽ hết hạn hoặc là 4 năm kể từ ngày nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc 3 năm kể từ ngày cấp bằng độc quyền sáng chế. Thời hạn được áp dụng cho từng trường hợp là thời hạn kết thúc sau. Thời hạn 3 năm hoặc 4 năm nêu trên là thời hạn tối thiểu. Chủ sở hữu bằng độc quyền phải được dành thời hạn dài hơn nếu người đó có thể đưa ra được những lý do hợp pháp cho sự không hành động của mình – ví dụ các trở ngại về mặt pháp lý, kinh tế hoặc kỹ thuật cản trở việc khai thác hoặc khai thác mở rộng sáng chế ở trong nước. Nếu điều đó được chứng minh thì yêu cầu cấp li-xăng cưỡng bức phải bị từ chối, ít nhất là trong một thời hạn nhất định. Thời hạn 3 năm hoặc 4 năm nêu trên cũng là thời hạn tối thiểu theo nghĩa luật quốc gia có thể quy định thời hạn dài hơn. Li-xăng cưỡng bức do không khai thác hoặc khai thác không đầy đủ phải là một li- xăng không độc quyền và chỉ có thể được chuyển giao cùng với doanh nghiệp được hưởng lợi từ li-xăng cưỡng bức đó. Chủ sở hữu bằng độc quyền phải được giữ lại quyền cấp các li-xăng không độc quyền khác và quyền tự mình khai thác sáng chế. Ngoài ra, vì li-xăng cưỡng bức được cấp cho một doanh nghiệp cụ thể trên cơ sở năng lực đã biết của 24 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  12. doanh nghiệp đó, nó sẽ ràng buộc với doanh nghiệp đó và không thể được chuyển giao riêng rẽ với doanh nghiệp. Những hạn chế này nhằm ngăn chặn một người được cấp li- xăng cưỡng bức dành được lợi thế hơn trên thị trường hơn là được bảo đảm bởi mục đích của li-xăng cưỡng bức, đó là bảo đảm khai thác đầy đủ sáng chế đó ở trong nước. Tất cả những quy định đặc biệt về cấp li-xăng cưỡng bức này nêu tại Điều 5A(4) chỉ được áp dụng cho các li-xăng cưỡng bức vì lý do không khai thác hoặc khai thác một cách không đầy đủ. Các quy định này không được áp dụng cho các loại li-xăng cưỡng bức khác mà luật quốc gia được tự do quy định. Các loại li-xăng cưỡng bức khác đó có thể được cấp để ngăn ngừa những sự lạm dụng khác, ví dụ giá quá cao hoặc các điều kiện không hợp lý đối với một li-xăng theo hợp đồng hoặc các biện pháp hạn chế khác làm tổn hại đến sự phát triển công nghiệp. Li-xăng cưỡng bức cũng có thể được cấp với lý do bảo đảm lợi ích công cộng trong trường hợp không có sự lạm dụng quyền của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế, ví dụ trong lĩnh vực an ninh quốc phòng hoặc sức khoẻ cộng đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Điều 31 Hiệp định TRIPS còn quy định một số điều kiện đối với việc sử dụng đối tượng của một bằng độc quyền sáng chế mà không được sự cho phép của người nắm quyền. Giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí duy trì hiệu lực Điều 5bis quy định về giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí duy trì hiệu lực quyền sở hữu công nghiệp và việc khôi phục hiệu lực bằng độc quyền sáng chế trong trường hợp không nộp lệ phí duy trì hiệu lực. Các quy định liên quan đến nhãn hiệu Sử dụng nhãn hiệu Điều 5C(1) liên quan đến việc sử dụng bắt buộc nhãn hiệu đã được đăng ký. Một số nước quy định việc đăng ký nhãn hiệu cũng yêu cầu rằng một khi nhãn hiệu đã được đăng ký thì nhãn hiệu đó phải được sử dụng trong một thời hạn nhất định. Nếu việc sử dụng không được đáp ứng, nhãn hiệu có thể bị xoá khỏi đăng bạ. Nhằm mục đích này, thuật ngữ “sử dụng” thường được hiểu là việc bán hàng hoá mang nhãn hiệu, mặc dù luật pháp quốc gia có thể quy định rộng hơn về cách thức sử dụng nhãn hiệu để đáp ứng yêu cầu này. Điều khoản trên quy định rằng khi có yêu cầu về việc bắt buộc sử dụng, đăng ký 25 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  13. nhãn hiệu có thể bị huỷ bỏ do việc không sử dụng nhãn hiệu chỉ sau một thời hạn hợp lý và nếu chủ sở hữu không thể biện minh được cho việc không sử dụng đó. Định nghĩa về “thời hạn hợp lý” được dành cho pháp luật quốc gia của các nước có liên quan quy định, hoặc nếu không thì dành cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết những trường hợp như vậy. Thời hạn hợp lý này được đặt ra nhằm tạo cho chủ sở hữu nhãn hiệu thời gian và cơ hội đủ để chuẩn bị cho việc sử dụng thích hợp, có tính đến thực tế là trong nhiều trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu phải sử dụng nhãn hiệu của mình ở nhiều nước. Biện minh của chủ sở hữu nhãn hiệu về việc không sử dụng có thể được chấp nhận nếu điều đó là do các hoàn cảnh kinh tế hoặc pháp lý vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chủ sở hữu nhãn hiệu, ví dụ nếu chính phủ có các quy định cấm hoặc trì hoãn nhập khẩu các hàng hoá gắn nhãn hiệu. Giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí gia hạn Điều 5bis quy định một giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí duy trì các quyền sở hữu công nghiệp. Đối với nhãn hiệu, quy định này chủ yếu liên quan đến việc nộp phí gia hạn, vì nhờ việc gia hạn mà đăng ký nhãn hiệu (và do đó quyền phụ thuộc vào đăng ký đó) được duy trì. Việc không gia hạn đăng ký nhãn hiệu thường sẽ kéo theo việc mất hiệu lực của đăng ký đó và trong một số trường hợp sẽ làm chấm dứt quyền đối với nhãn hiệu. Giai đoạn ân hạn được quy định theo Công ước nhằm giảm bớt nguy cơ mất nhãn hiệu do sự chậm trễ ngoài ý muốn trong việc nộp phí gia hạn. Tính độc lập của các nhãn hiệu Điều 6 Công ước thiết lập một nguyên tắc quan trọng về tính độc lập của các nhãn hiệu ở các quốc gia thành viên khác nhau của Liên hiệp, và đặc biệt là sự độc lập của các nhãn hiệu được nộp đơn hoặc được đăng ký ở nước xuất xứ với những nhãn hiệu được nộp đơn hoặc được đăng ký ở các quốc gia khác trong Liên hiệp. Nhãn hiệu nổi tiếng Điều 6bis buộc một quốc gia thành viên phải từ chối hoặc huỷ bỏ đăng ký hoặc cấm sử dụng một nhãn hiệu có khả năng gây nhẫm lẫn với một nhãn hiệu khác đã nổi tiếng tại quốc gia thành viên đó. Quy định tại Điều này nhằm mở rộng sự bảo hộ đối với một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng ở một quốc gia thành viên ngay cả khi nhãn hiệu đó chưa được đăng ký hoặc sử dụng ở quốc gia đó. Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng không 26 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
nguon tai.lieu . vn