Xem mẫu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH - SƯU TẦM - THIẾT KẾ CÁC BÀI TẬP PHÁT TRIỂN GIAO TIẾP THEO CÁC CHỦ ĐỀ NĂM HỌC HỖ TRỢ TRẺ TỰ KỈ LỨA TUỔI 24-36 THÁNG HOÀ NHẬP TẠI TRƯỜNG MẦM NON LÊ QUÝ ĐÔN
  2. I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Tự kỷ là một khuyết tật phát triển cho nên việc hiểu về tật và từ đó có phương án hành động sớm, kịp thời sẽ ngăn chặn được ảnh hưởng trầm trọng của nó tới sự phát triển. Nhưng để làm được điều đó, để giúp trẻ bị tự kỷ phát triển hết khả năng và phát huy tiềm năng học hỏi là một nhiệm vụ hết sức khó khăn của cha mẹ, của giáo viên và các lực lượng khác trong cộng đồng. Điểm mấu chốt ở đây là làm thế nào chẩn đoán được sớm và làm thế nào để có những giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ cho trẻ càng sớm càng tốt, nhất là trong năm năm đầu tiên của cuộc đời trẻ. Ngày nay, qua những nghiên cứu có độ tin cậy cao của các nhà khoa học cho thấy phương pháp can thiệp hành vi một cách tích cực, được bắt đầu từ rất sớm ngay từ khi phát hiện và chẩn đoán chính xác cho tới trước khi trẻ đến 5 tuổi (Vì đó là giai đoạn phát triển nhất, nó có ý nghĩa và ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển giai đoạn sau của trẻ) có thể đem lại những kết quả tích cực và có giá trị tới sự phát triển của trẻ. Nó đem lại hiệu quả tốt nhất nếu được áp dụng cho trẻ trong độ tuổi từ 2-5. Để trẻ tự kỷ hoà nhập, giáo dục hoà nhập có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giúp trẻ hoàn toàn có thể có cơ hội hoà nhập với xã hội. Chính vì vậy, những năm gần đây ngành giáo dục đã rất quan tâm chú trọng đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ tự kỷ để giúp cho trẻ hoà nhập được với xã hội một cách tốt nhất. II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Thực trạng của Trường Mầm non Lê Quý Đôn 1.1. Thuận lợi Giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật được Đảng, nhà nước và các cấp lãnh đạo đặc biệt quan tâm.
  3. Được các cấp lãnh đạo của UBND và PGD Quận Hai Bà Trưng tạo mọi điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ về tài chính, cơ sở vật chất, chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc và dạy trẻ khuyết tật. Đội ngũ giáo viên 100% đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Có nhận thức đúng đắn, rõ ràng. Nhiệt tình, chịu khó, tâm huyết, yêu nghề, mến trẻ. Không ngại khó, ngại khổ. Luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao. Cơ sở vật chất của nhà trường đầy đủ, có phương tiện hiện đại để phục vụ công tác chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ tốt. Phụ huynh tin tưởng, yên tâm với sự chăm sóc và dạy dỗ trẻ của nhà trường. Luôn đồng hành, ủng hộ, giúp đỡ nhà trường. Có sự phối kết hợp chặt chẽ và hiệu quả với nhà trường trong việc chăm sóc và dạy trẻ. Trẻ tự kỷ học tại trường không có khuyết tật về thể chất và có vẻ ngoài hoàn toàn giống với những người bình thường khác. 1.2. Khó khăn - Số học sinh trong các nhóm lớp đông so với chuẩn (trên 40 trẻ/ lớp) - Đội ngũ giáo viên mỏng nên không có điều kiện để theo dõi, dạy trẻ chuyên biệt. - Giáo viên chưa được nghiên cứu sâu về chuyên môn, phương pháp chăm sóc và dạy trẻ tự kỷ chuyên biệt. Mà thực tế trẻ vẫn phải học chung với những trẻ bình thường khác nên rất thiệt thòi cho trẻ. - Điều kiện CSVC dành riêng cho giáo dục trẻ khuyết tật hầu như không có. - Chưa có chương trình và phương pháp chăm sóc giáo dục đặc biệt dành cho trẻ tự kỷ. Không có giáo trình cụ thể để dạy riêng trẻ tự kỷ. - Trẻ mẫu giáo có nhu cầu giáo dục đặc biệt chưa được quan tâm chăm sóc hợp lý, các dịch vụ hỗ trợ giáo dục hoà nhập chưa được chú ý phát triển.
  4. - Tài liệu, tư liệu còn nghèo nàn, hầu như không có. - Trẻ tự kỷ là trẻ khuyết tật không biểu lộ ra ngoại hình nên cha mẹ và cô giáo gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát hiện sớm - Phụ huynh bất ngờ trước tật bệnh và không chấp nhận tình trạng tật bệnh của con. - Về phía trẻ giao tiếp rất hạn chế, chỉ chơi một mình, tách rời khỏi những người khác, tỏ ra lãnh đạm, không quan tâm tới những người xung quanh, thường lẩn tránh giao tiếp bằng mắt với người xung quanh. - Trẻ không hiểu ý nghĩa của cử chỉ, điệu bộ, biểu hiện nét mặt, ngữ điệu giọng nói và lời nói của người khác. 2. Giải pháp thực hiện 2.1. Tìm hiểu, nghiên cứu một số tài liệu trong và ngoài nước về “Hội chứng tự kỷ” và đi sâu tìm hiểu nghiên cứu đến hoạt động phát triển giao tiếp cho trẻ tự kỷ tuổi mầm non 2.1.1. Trẻ tự kỷ a) Các quan điểm về trẻ tự kỷ Trẻ tự kỷ được xác định bởi một danh từ "autism" chỉ những rối nhiễu đặc trưng trong việc không thể thiết lập các mối quan hệ, tương tác với xã hội. Trẻ tự kỷ có những biểu hiện phát triển không bình thường như: - Khiếm khuyết về tương tác xã hội. - Khiếm khuyết về phát triển ngôn ngữ. - Có hành vi, thói quen, sở thích định hình: hành vi rập khuôn, tự kích thích và hành vi tự lạm dụng. - Khởi phát sớm trước 3 tuổi.
  5. b) Nguyên nhân của hội chứng tự kỷ Cho đến nay, các nghiên cứu chưa chỉ rõ những nguyên nhân chính gây nên hội chứng tự kỷ. Phương pháp chính để chẩn đoán tự kỷ là quan sát và phân tích tỉ mỉ của các nhà chuyên môn dựa trên các biểu hiện lâm sàng. Tuy nhiên, các nhà khoa học đều cho rằng cơ chế sinh học là nguyên nhân cơ bản của tự kỷ bao gồm: mất cân bằng sinh hoá trong cơ thể, chấn thương não, do di truyền mà trong quá trình phát triển xuất hiện những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của não, nó thường xảy ra trước, trong và rất sớm sau khi trẻ sinh ra. 2.1.2. Những biểu hiện có thể là dấu hiệu của hội chứng tự kỷ Năm 1978, Render-Short đã giới thiệu 14 biểu hiện bên ngoài thường hay xuất hiện ở trẻ tự kỷ (Ví dụ như Gặp khó khăn trong việc hoà đồng với các bạn khác; Có biểu hiện như bị điếc hay nghễnh ngãng...). Một điều cần lưu ý là không phải trẻ tự kỷ nào cũng thể hiện tất cả các hành vi đó, tuy nhiên đây là một công cụ hữu ích để cung cấp thêm thông tin cho cha mẹ và những người chăm sóc dạy dỗ trẻ. Các hành vi này thường xuất hiện ngay từ khi trẻ còn nhỏ (dưới 3 tuổi) và chỉ được coi là bất thường nếu như nó được thể hiện không phù hợp với tuổi của đứa trẻ tại thời điểm quan sát được. 2.2. Quan sát, đánh giá xác định trẻ có hội chứng tự kỷ học tại lớp nhà trẻ của trường 2.2.1. Đánh giá, xác định trẻ tự kỷ Dựa vào danh mục hàng loạt các biểu hiện bên ngoài thường hay xuất hiện ở trẻ tự kỷ do Render-Shost giới thiệu năm 1978; Dựa vào bảng liệt kê sự phát triển những triệu chứng tự kỷ do Hội tự kỷ của Mỹ đưa ra vào năm 1991.
  6. Dựa vào tiêu chí đánh giá trẻ tự kỷ trong hệ thống phân loại trẻ tự kỷ DSMIV của Hiệp hội chậm phát triển tinh thần Mỹ (The American association of Mental Retardation-AAMR), tôi liệt kê thành 15 tiêu chí để đánh giá, xác định những trẻ có hội chứng tự kỷ như sau: HỌ TÊN: Lê Minh Đức HỌ TÊN: Nguyễn Anh Vũ NGÀY SINH: 28/4/2008 NGÀY SINH: 23/3/2008 MỨC ĐỘ MỨC ĐỘ DANH MỤC CÁC BIỂU HIỆN Xuất hiện Hiếm Không Xuất hiện Hiếm Không BÊN NGOÀI thường khi bao giờ thường khi bao xuyên xuất xuất xuyên xuất giờ trong ngày hiện hiện trong ngày hiện xuất hiện 1. Gặp khó khăn trong việc hoà đồng với các X X bạn khác 2. Có biểu hiện như bị điếc hay X X nghễnh ngãng 3. Cưỡng lại, không chịu làm X X khi được dạy dỗ 4. Tỏ ra không sợ hãi gì khi có X X các yếu tố gây
  7. nguy hiểm thực sự 5. Cười to hay cười rúc rích vô X X cớ 6. Không thích được âu yếm X X vuốt ve 7. Quá hiếu X X động 8. Thiếu tương tác mắt – Mắt X X với người khác 9. Thể hiện sự gắn bó quá mức và không phù X X hợp với một số đồ vật 10. Khó gần, X v không cởi mở 11. Thích chơi một X X mình 12. Có ít kỹ năng bắt chước X X
  8. 13. Có vẻ như X không có nhận thức về sự hiện diện của những X người xung quanh 14. Không có X khả năng luân phiên với người X khác trong các hoạt động 15. Không thích X X sự thay đổi 2.2. Quan sát, đánh giá khả năng ngôn ngữ của 2 trẻ tự kỷ HỌ TÊN: Lê Minh Đức HỌ TÊN: Nguyễn Anh Vũ NỘI DUNG KHẢ NGÀY SINH: 28/4/2008 NGÀY SINH: 23/3/2008 NĂNG NGÔN Mức độ Mức độ NGỮ CỦA TRẺ Trẻ Thực Thực Trẻ Thực Thực không hiện hiện không hiện hiện thực được thành thực hiện được thành hiện thạo được thạo được 1. Khả năng hiểu X X ngôn ngữ của trẻ
  9. 2. Khả năng diễn X X đạt ngôn ngữ của trẻ 3. Vốn từ của trẻ
  10. 2.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ, giao tiếp của trẻ mầm non từ 24 - 36 tháng a) Vốn từ Từ 24-36 tháng tuổi, giai đoạn này trẻ có thêm nhiều từ mới. Sau 2 tuổi, vốn từ của trẻ tăng nhanh: khoảng 100-200 (2 tuổi), đến 1000-2000 từ vào khoảng 3 tuổi. Dần dần, trẻ biết phối hợp nhiều từ và sắp xếp thứ tự thành câu. b) Khả năng hiểu ngôn ngữ Đến giai đoạn 24-36 tháng tuổi, trẻ mầm non có thể hiểu được các nội dung sau: Hiểu các câu nói đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày; tên tuổi, giới tính và một số đặc điểm của bản thân; chức năng của một số đồ dùng, đồ chơi quen thuộc; sự khác nhau của 3 màu sắc: xanh, đỏ, vàng; sự khác nhau của một số hình dạng: tròn, vuông, tam giác; sự khác nhau về kích thước: to-nhỏ; dài-ngắn; cao-thấp; sự khác nhau về trọng lượng: nặng-nhẹ; hiểu được ít nhất 6 bộ phận trên cơ thể của con người; các giới từ: trên, dưới, trước, sau, trên, trong, ngoài; các đại từ như: con, cháu, ông, bà, bố, mẹ... và làm được theo một số mệnh lệnh đơn giản: đứng lên, ngồi xuống, lấy đồ vật này, tìm đồ vật.... c) Khả năng diễn đạt ngôn ngữ Với khả năng diễn đạt ngôn ngữ, trẻ có thể: Nghe và bắt chước âm thanh của các đồ vật, con vật, các hiện tượng khác nhau; Gọi tên các hoa quả, con vật, đồ dùng quen thuộc; Gọi được từ 5-7 bộ phận trên cơ thể; Nói được các từ chỉ hoạt động; Nói được các từ mô tả kích thước: dài-ngắn; to-nhỏ; từ chỉ màu sắc; Nói được các từ chỉ vị trí: trên-dưới, trước-sau; Trẻ biết luân phiên trong câu chuyện. Lúc đầu trẻ luân phiên bằng những từ đơn dần dần luân phiên bằng câu, cho đến khi trẻ có thể kéo dài câu chuyện về một chủ đề đơn giản, dùng được cụm 2-3 từ; Trẻ có thể dùng từ để thể hiện những việc trẻ không thích hoặc trẻ không đồng ý với người khác; Nói được câu dài khoảng 4-5 từ; Hát được những bài hát thiếu nhi quen thuộc.
  11. 2.3.3. Đặc điểm ngôn ngữ, giao tiếp của trẻ tự kỷ tuổi mầm non a) Đặc điểm về giao tiếp Trẻ tự kỷ thiếu sự tương tác mắt-mắt với những người khác; Thích chơi một mình; Từ chối sự cố gắng dỗ dành, an ủi của người khác; Có vẻ như không có nhận thức về sự hiện diện của những người xung quanh; Không có khả năng luân phiên với người khác trong các hoạt động; Không thích sự thay đổi môi trường giao tiếp. b) Đặc điểm về vốn từ - Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ tự kỷ thường chậm hơn so với những trẻ cùng độ tuổi. Do vậy phần lớn trẻ tự kỷ trong giai đoạn từ 24-36 tháng tuổi vốn từ rất ít, có những trẻ còn chưa phát âm được từ nào. - Có những trẻ trong những năm đầu có thể phát ra được một số âm đầu tiên sau đó mất dần ngôn ngữ nói. c) Đặc điểm về khả năng hiểu ngôn ngữ Khó khăn trong việc hiểu và sử dụng ngôn ngữ và các công cụ phi ngôn ngữ, đặc biệt là trong các tình huống giao tiếp. d) Đặc điểm về khả năng diễn đạt ngôn ngữ Trẻ có thể bắt chước được tiếng kêu của các con vật, tiếng máy chạy...; Trẻ có thể bắt chước được từng từ riêng lẻ; Trẻ hay nhại lại lời của người khác. Thường các trẻ này bắt đầu bằng cách nhắc lại lời nói của người khác nói, đặc biệt là một hoặc một số từ ở cuối câu. 2.4. Thiết kế - xây dựng chương trình và các bài tập phát triển giao tiếp cho trẻ tự kỉ lứa tuổi 24-36 tháng theo các chủ điểm của năm học 2.4.1. Những nguyên tắc cơ bản định hướng cho việc xây dựng các bài tập phát triển giao tiếp cho trẻ tự kỷ lứa tuổi mầm non 24-36 tháng
  12. Dựa trên cơ sở đặc điểm giao tiếp của lứa tuổi mầm non và đặc điểm giao tiếp của trẻ tự kỷ, tôi đã thiết kế, xây dựng một số bài tập về giao tiếp nhằm hỗ trợ trẻ tự kỷ hoà nhập với cuộc sống. 2.4.2. Cấu trúc của bài tập Mỗi bài tập được thiết kế như sau: - Mục đích: Sau mỗi bài tập trẻ đạt được một mức độ kỹ năng cụ thể. - Chuẩn bị: Các đồ dùng, đồ chơi, phương tiện dạy học - Cách hướng dẫn: Đưa ra những gợi ý để tiến hành thực hiện bài tập - Đánh giá: Đưa ra các tiêu chí đánh giá hiệu quả của bài tập. 2.4.3. Các bài tập phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ lứa tuổi (24-36 tháng) Căn cứ vào kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tôi xây dựng các bài tập có các nội dung theo 5 chủ đề sau: - Chủ điểm về trường mầm non: Là các bài tập hướng dẫn trẻ biết cách chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi đúng ngữ cảnh; nhận biết các đồ dùng, đồ chơi trong lớp, phân biệt được màu sắc: xanh - đỏ, các hình dạng: tròn-vuông... - Chủ điểm bản thân: Trong chủ đề này, tôi thiết kế các bài tập giúp trẻ có những hiểu biết về một số bộ phận cơ thể; biết đáp ứng phù hợp với các từ chỉ hành động; biết thể hiện nhu cầu mong muốn của mình và biết làm theo chỉ dẫn của người khác. - Chủ điểm gia đình : Bao gồm các bài tập hướng dẫn trẻ nhận biết người thân, những hành động của người thân đang thực hiện trong cuộc sống gia đình như: giặt giũ, đọc báo, nấu nướng... - Chủ điểm về thế giới tự nhiên (Thực vật, động vật): Bao gồm các bài tập làm quen, nhận biết tên gọi một số con vật, một số loại hoa, quả thường gặp.
  13. - Chủ điểm về tết và mùa xuân: Gồm các bài tập về sự việc, hoạt động của trẻ, của người thân trong ngày tết. - Chủ điểm các phương tiện giao thông: Hướng dẫn trẻ biết tên gọi của một số phương tiện giao thông: Xe đạp, ô tô, xe máy. Các bài tập trong mỗi chủ điểm được xây dựng theo hướng tiếp cận giao tiếp. 3. Triển khai thực hiện 3.1. Xây dựng phiên chế chương trình Tuỳ theo thời gian và chủ điểm của từng chủ đề, bố trí thời gian cho thích hợp. 3.2. Trao đổi, hướng dẫn và thống nhất cách sử dụng bài tập và ghi phiếu theo dõi, đánh giá trẻ khi thực hiện: 3.3. Kết hợp cùng giáo viên trực tiếp sử dụng các bài tập trong can thiệp trị liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ hàng tuần/ hàng tháng và ghi chép kết quả đánh giá từng bài tập: 4. Kết quả thực hiện Sau khi tiến hành thiết kế - xây dựng chương trình và các bài tập phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ, tôi đã kết hợp cùng giáo viên của lớp nhà trẻ D là cô giáo: Phạm Thị Minh Tâm và cô giáo Nguyễn Hải Yến tiến hành triển khai thực hiện trên 2 trẻ tự kỷ của lớp từ tháng 9 năm 2010 đến hết tháng 4 năm 2011. Chúng tôi đã thu được một số kết quả rất khả quan.
  14. III. KẾT LUẬN 1. Ưu điểm - Giai đoạn 24-36 tháng tuổi là giai đoạn trẻ học ngôn ngữ nói, do vậy nếu sử dụng các bài tập phát triển giao tiếp theo hướng tiếp cận tổng thể sẽ giúp GV và phụ huynh có thể phát triển ngôn ngữ lời nói cho trẻ một cách tốt nhất. - Từ các đặc điểm ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mầm non và các đặc điểm ngôn ngữ giao tiếp của trẻ tự kỷ, tôi xây dựng các nội dung giao tiếp theo các chủ đề trong trường mầm non để giúp giáo viên và phụ huynh can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ những định hướng phát triển ngôn ngữ lời nói cho trẻ đồng thời giúp trẻ có thể hoà nhập trong các trường mẫu giáo sau khi khả năng giao tiếp được cải thiện. - Hầu hết việc tiếp nhận thông tin được diễn ra thông qua việc tương tác với những người khác. Thông qua giao tiếp sẽ mở ra tất cả những con đường và cách thức giao tiếp cho trẻ tự kỷ. Giao tiếp cho phép giáo viên, phụ huynh có thể sử dụng một cách kết hợp rất nhiều cách thức giao tiếp khác nhau. Mặt khác giao tiếp cho phép trẻ có thể được sử dụng nhiều hình thức giao tiếp phù hợp nhất trong bất kỳ tình huống nào. Giao tiếp hướng tới sự đơn giản hoá giúp giáo viên dễ dàng khi sử dụng. Với phương pháp giao tiếp với trẻ tự kỷ trong độ tuổi 24-36 tháng chúng ta sử dụng kết hợp nhiều cách thức giao tiếp và các hình thức khác nhau nhằm mục đích phát triển ngôn ngữ lời nói cho trẻ để trẻ có thể sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.
  15. 2. Tồn tại Với kết quả trên, tôi có thể kết luận rằng việc xây dựng các bài tập phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ tự kỷ trong độ tuổi 24-36 tháng là rất cần thiết. Thông qua các bài tập này giúp giáo viên và phụ huynh có thêm những công cụ để phục vụ trong công tác hỗ trợ, can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ. Các bài tập được thiết kế là những chỉ dẫn, mang tính định hướng giúp giáo viên có thể phát huy hết những khả năng giao tiếp của mình để dạy trẻ tự kỷ các cách thức giao tiếp phù hợp. 3. Khuyến nghị - Tập huấn cho giáo viên mầm non những kiến thức kỹ năng cơ bản về chăm sóc gáo dục trẻ tự kỷ trong đó có hướng dẫn giáo viên các phương pháp phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho nhóm trẻ này. - Việc phát triển khả năng ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ tự kỷ có hiệu quả cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và giáo viên. Do vậy, cần hướng dẫn cha mẹ trẻ sử dụng tốt các bài tập này. - Đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm xem xét tạo điều kiện về CSVC; Nhân sự và bồi dưỡng chuyên môn sâu cho Trường Mầm non Lê Quý Đôn sang năm học 2011–2012 được mở lớp chuyên biệt chăm sóc giáo dục trẻ tự kỷ. Đồng thời tạo điều kiện cho nhà trường được ký hợp đồng tuyển chọn giáo viên chuyên biệt dạy trẻ tự kỷ.
nguon tai.lieu . vn