- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- SKKN: Sử dụng hình ảnh động vào giảng dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong phần động cơ đốt trong, môn Công nghệ 11
Xem mẫu
- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG HÌNH ẢNH ĐỘNG VÀO
GIẢNG DẠY PHẦN NGUYÊN LÍ LÀM
VIỆC CỦA MỘT SỐ HỆ THỐNG
TRONG PHẦN ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG,
MÔN CÔNG NGHỆ 11
- I. SƠ YẾU LÍ LỊCH:
Họ và tên: Phan Thị Vân Anh.
Ngày tháng năm sinh: 20/01/1982.
Năm vào ngành: 2006.
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trường THPT Ba Vì - Ba Vì - Hà Nội.
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm kỹ thuật Hưng Yên khoa KTCN.
Hệ đào tạo: Tại chức.
Bộ môn giảng dạy: Công nghệ.
Ngoại ngữ: Anh văn.
Trình độ chính trị: Sơ cấp.
- II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Tên đề tài:
“SỬ DỤNG HÌNH ẢNH ĐỘNG VÀO GIẢNG DẠY PHẦN NGUYÊN LÍ
LÀM VIỆC CỦA MỘT SỐ HỆ THỐNG TRONG PHẦN ĐỘNG CƠ ĐỐT
TRONG”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI NÓI ĐẦU.
Trên con đường hội nhập và phát triển cùng thế giới, đất nước ta đã và
đang từng bước đổi mới, áp dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại vào
trong mọi lĩnh vực của đời sống và sản xuất để thực hiện công cuộc “ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước. Do đó việc đào tạo ra nguồn nhân lực có tri
thức và đạo đức đang là mục tiêu lớn của ngành giáo dục nước ta hiện nay.
Cùng với mục tiêu chung của ngành giáo dục, mục tiêu của giáo dục cấp
THPT đó là: “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Luật giáo dục đã quy định : “ Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh cũng cố và
phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông có
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn
hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học Đại học, Cao đẳng,
Trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Môn Công
nghệ 11 được Bộ giáo dục và Đào tạo biên soạn trên tinh thần đổi mới, đảm bảo
tính phổ thông, cơ bản, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nó cùng với
các môn học khác trong nhà trường phổ thông góp phần quan trọng vào việc tạo
nền tảng ban đầu để đào tạo con người phát triển toàn diện.
Thực tế như chúng ta đã thấy, động cơ đốt trong có vai trò rất quan trọng và
được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như : Nông nghiệp, công nghiệp,
ngư nghiệp, giao thông vận tải, quân sự... Do đó đối với người học sinh phổ
thông dù sau này có lựa chọn nghề nghiệp gắn bó với động cơ đốt trong hay
không thì những hiểu biết về động cơ đốt trong nói chung cũng như nguyên lí
- làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong vẫn luôn gắn liền với đời sống
thực tiễn của họ. Chính vì vậy để có thể hiểu và ghi nhớ sâu sắc hơn về nguyên lí
làm việc của
1. Đại đa số học sinh của Trường THPT Ba Vì là con em dân tộc miền núi, trình
độ nhận thức của các em không đồng đều. Địa bàn khu vực còn non kém về nền
công nghiệp. Tình trạng ngại học, coi nhẹ môn học do đây không phải là môn thi
tốt nghiệp và thi vào Đại học, Cao đẳng ...Nên đã dẫn đến một thực tế đáng buồn
là kết quả, hiệu quả của giờ học chưa cao, chưa đạt được mục đích, yêu cầu đặt
ra.
2. Kiến thức về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong là
nội dung mang tính trừu tượng, học sinh không thể trực tiếp quan sát, tri giác
được. Để tiếp thu được nội dung này học sinh phải hình dung, tưởng tượng, phải
thực hiện các thao tác tư duy dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó đã gây ra
nhiều khó khăn cho học sinh trong việc tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức
của bài học, dẫn đến sự say mê, yêu thích môn học của học sinh không nhiều,
chất lượng và hiệu quả của giờ học chưa cao.
3.Trong khi đó xu hướng lựa chọn nghề nghiệp, sức thuyết phục của chương
trình còn ở mức độ chưa cao và tâm lí coi nhẹ môn học của học sinh..... và còn
rất nhiều lí do khác nữa được đưa ra để biện minh cho thực tế là chất lượng và
hiệu quả của giờ học chưa cao. Song tôi thiết nghĩ mấu chốt của vấn đề là ở chỗ
bản thân người giáo viên Công nghệ cũng đang dạt theo sự ngại học của học sinh,
chưa tích cực tìm giải pháp nâng cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc
trang bị kiến thức mà không thấy kiến thức ấy phải được tổ chức như thế nào để
giúp học sinh tiếp nhận một cách dễ dàng và hứng thú. Hoà nhập với việc đổi
mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học hiện nay, rút kinh
nghiệm giảng dạy từ đồng nghiệp và bằng thực tế giảng dạy của bản thân, tôi
mạnh dạn giới thiệu sáng kiến kinh nghiệm : “ Sử dụng hình ảnh động vào
giảng dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong phần động cơ
đốt trong, môn Công nghệ 11”.
Để thực hiện tốt giờ dạy theo tinh thần đổi mới, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và hứng thú của học sinh. Bản thân tôi đã không ngừng đổi mới về
tư duy, nhận thức từ khâu soạn giáo án (Thiết kế bài học) cho đến cách sử dụng
thiết bị dạy học, lập phiếu điều tra để nắm bắt tình hình học tập của học sinh, từ
đó điều chỉnh cho phù hợp với thực tế nhà trường và đối tượng học sinh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- I. PHƯƠNG PHÁP DẠY PHẦN NGUYÊN LÍ LÀM VIỆC CỦA MỘT SỐ
HỆ THỐNG TRONG ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG HIỆN NAY
Phương pháp dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ
đốt trong đang được sử dụng phổ biến hiện nay đó là: Giáo viên hướng dẫn học
sinh làm việc bằng cách thông qua một số câu hỏi gợi mở, học sinh nghiên cứu
sách giáo khoa, quan sát sơ đồ cấu tạo rồi tiến hành tư duy, hình dung, tưởng
tượng và rút ra nguyên lí làm việc của hệ thống. Sau đó giáo viên tóm tắt và kết
luận lại cho học sinh về nguyên lí làm việc của hệ thống dưới dạng lí thuyết.
Với cách thực hiện như trên đã đem lại kết quả đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế. Qua đó nó thể hiện được phong cách, phương pháp và khả năng truyền
đạt kiến thức của người giáo viên. Tuy nhiên với cách thực hiện như vậy cũng
gây không ít khó khăn cho cả giáo viên lẫn học sinh trong quá trình dạy và học.
Sau khi nghiên cứu kiến thức về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động
cơ đốt trong là những lí thuyết trừu tượng. Do đó học sinh rất khó khăn trong quá
trình tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức.
II. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG HÌNH ẢNH ĐỘNG VÀO GIẢNG DẠY
PHẦN NGUYÊN LÍ LÀM VIỆC CỦA MỘT SỐ HỆ THỐNG TRONG
PHẦN ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho
học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm đạt mục đích dạy học: “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí, nhận thức thực tại khách quan”.
Nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong là những kiến
thức lí thuyết, chúng thường mờ nhạt, trừu tượng, chưa tác động mạnh vào các
giác quan. Do đó kí ức khó ghi nhận và tái hiện lại khi cần thiết. Vì vậy cần phải
cụ thể hoá, vật chất hoá, làm cho lí thuyết được cụ thể hơn, sâu sắc hơn và có tính
thuyết phục hơn. Từ đó học sinh có thể dễ dàng tiếp nhận kiến thức và khắc sâu
vấn đề lí thuyết vừa nghiên cứu.
Ở đây, tôi không có tham vọng đưa ra một cách dạy mới thay thế cách dạy
phong phú đa dạng mà lâu nay giáo viên vẫn thường sử dụng và còn tiếp tục
được sử dụng. Tôi chỉ xin giới thiệu một cách dạy kết hợp giữa phương pháp
truyền thống với những yêu cầu mới. Đó là: Sử dụng hình ảnh giảng phần
nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong.
* Cách thức tiến hành:
Khi nghiên cứu, tìm hiểu về nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong
động cơ đốt trong. Giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu sách giáo khoa, quan
sát sơ đồ cấu tạo của hệ thống. Thông qua một số câu hỏi gợi mở, giáo viên
- hướng dẫn học sinh tiến hành tư duy và xây dựng sơ đồ khối dưới dạng hình ảnh
thể hiện nguyên lí làm việc của hệ thống.
Giờ dạy này ứng dụng công nghệ thông tin là tốt nhất. Vì vậy, giáo viên nên
sử dụng giáo án điện tử để thuận tiện cho việc giảng dạy, rút ngắn thời gian vẽ sơ
đồ dưới dạng hình ảnh làm tiết học sinh động hơn, thu hút được học sinh, làm
cho học sinh có sự hứng thú và say mê môn học.
III. VẬN DỤNG CỤ THỂ:
1. Nguyên lí làm việc của hệ thống bôi trơn cưỡng bức:
( Bài 25: Hệ thống bôi trơn - SGK Công nghệ 11)
* Trường hợp 1: Khi hệ thống làm việc bình thường
Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo hình ảnh động như sau:
Hệ thống làm việc bình thường:
Các mặt ma sát
Đường dầu chính
Két
Làm Van 6
mát Van 4
Đường
hồi
dầu
Bầu
lọc Bơm
Đường hồi dầu cặn Cácte dầu
Giải thích nguyên lí theo sơ đồ dưới dạng hình ảnh động trên màn hình:
Khi động cơ làm việc, dầu bôi trơn được bơm dầu hút từ cacte dầu đưa qua lưới
lọc và bầu lọc để lọc sạch rồi đưa qua van khống chế đến đường dầu chính rồi
theo các đường ống đến bôi trơn các bề mặt ma sát của động cơ, sau đó trở về
cacte.
Van Đường
Cacte Lưới Bơm Bầu Bề mặt
khống dầu
dầu lọc dầu lọc ma sát
chế chính
- * Trường hợp 2: Khi áp suất của dầu bôi trơn vượt quá giá trị cho phép
Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo sơ đồ hình ảnh như sau:
Các mặt ma sát
Đường dầu chính
Két
Làm Van 6
mát Van 4
Đường
hồi
dầu
Bầu
lọc Bơm
Đường hồi dầu cặn Cácte dầu
Giải thích nguyên lí dựa theo hình ảnh động trên sơ đồ:
Khi áp suất của dầu bôi trơn vượt quá giá trị cho phép thì van an toàn mở để một
phần dầu từ sau bơm chảy ngược về trước bơm làm giảm áp suất của dầu xuống.
Khi đó hệ thống làm việc theo trường hợp bình thường.
Van Đường
Cacte Lưới Bơm Bầu Bề mặt
khống dầu
dầu lọc dầu lọc ma sát
chế chính
- Van
an
toàn
* Trường hợp 3: Khi nhiệt độ của dầu cao quá giới hạn định trước
Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo sơ đồ hình ảnh như sau:
Các mặt ma sát
Đường dầu chính
Két
Làm Van 6
mát Van 4
Đường
hồi
dầu
Bầu
lọc Bơm
Đường hồi dầu cặn Cácte dầu
Giải thích nguyên lí dựa vào hình ảnh động trên sơ đồ:
Khi nhiệt độ của dầu vượt quá giới hạn định trước thì van khống chế đóng lại để
toàn bộ lượng dầu chảy qua két làm mát dầu, làm nhiệt độ của dầu giảm xuống.
Khi đó dầu bôi trơn được bơm dầu hút từ cacte dầu đưa qua lưới lọc và bầu lọc
để lọc sạch rồi đưa qua két làm mát đến đường dầu chính, theo các đường ống
đến bôi trơn các bề mặt ma sát của động cơ, sau đó trở về cacte.
Két Đường
Lưới Bơm Bầu Bề mặt
Cacte làm dầu
lọc dầu lọc ma sát
dầu mát chính
- 2. Nguyên lí làm việc của hệ thống làm mát bằng nước loại tuần hoàn cưỡng
bức:
( Bài 26: Hệ thống làm mát SGK Công nghệ 11)
Trường hợp 1: Khi nhiệt độ nước trong áo nước còn thấp hơn giới hạn định
mức.
Giải thích nguyên lí theo hình ảnh trên sơ đồ:
Khi nhiệt độ nước trong áo nước còn thấp hơn giới hạn định mức thì van hằng
nhiệt chỉ mở cửa thông với đường ống số 8 để nước chảy thẳng về bơm. Khi đó
nước làm mát được bơm nước hút từ két nước đưa đến các áo nước để làm mát
các chi tiết, sau đó được đưa qua van hằng nhiệt, theo đường ống số 8 chảy thẳng
về cửa trước bơm tạo thành vòng tuần hoàn khép kín.
Van Đường
Két Bơm Áo
hằng ống
nước nước nước
nhiệt số 8
- * Trường hợp 2: Khi nhiệt độ nước trong áo nước xấp xỉ giới hạn định mức
Nước làm mát chảy trong hệ thống theo sơ đồ hình ảnh như sau:
Giải thích nguyên lí dựa theo sơ đồ hình ảnh:
Khi nhiệt độ nước trong áo nước xấp xỉ giới hạn định mức thì van hằng nhiệt mở
một phần cửa thông với đường ống số 8 và cửa thông với két nước. Khi đó nước
làm mát được bơm nước hút từ két nước đưa đến các áo nước để làm mát các chi
tiết, sau đó dược đưa qua van hằng nhiệt, một phần theo đường ống số 8 chảy
thẳng về bơm còn một phần chảy qua két nước để làm mát trước khi đưa đến
bơm tạo thành vòng tuần hoàn khép kín.
Van Đường
Két Bơm Áo
hằng ống
nước nước nước
nhiệt số 8
* Trường hợp 3: Khi nhiệt độ nước trong áo nước vượt quá giới hạn định
mức
Nước làm mát chảy trong hệ thống theo sơ đồ hình ảnh động như sau:
- Giải thích nguyên lí dựa vào sơ đồ hình ảnh:
Khi nhiệt độ nước trong áo nước vượt quá giới hạn định mức thì van hằng nhiệt
đóng hoàn toàn cửa đường thông 8 chỉ mở cửa thông với két nước. Khi đó nước
làm mát được bơm nước hút từ két nước đưa đến các áo nước để làm mát các chi
tiết, sau đó được đưa qua van hằng nhiệt rồi chảy qua ngăn trên két nước qua
giàn ống làm mát đến ngăn dưới két nước để làm mát trước khi đưa đến bơm tạo
thành vòng tuần hoàn khép kín.
Van
Két Bơm Áo
hằng
nước nước nước
nhiệt
- C. KẾT LUẬN:
I. KẾT QUẢ:
Sử dụng hình ảnh để giảng dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống
trong động cơ đốt trong là cách làm phù hợp với thực tiễn của quá trình đổi mới
phương pháp dạy học môn Công nghệ trong nhà trường phổ thông, phù hợp với
sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa và ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học môn công nghệ hiện nay. Cách làm này thực chất là biến những gì thuộc
về lí thuyết, trừu tượng thành cái cụ thể, quan sát được. Đồng thời nó cũng phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, kích thích sự say mê,
hứng thú học tập của học sinh.
Chúng ta đã và đang tìm kiếm con đường nâng cao hiệu quả học tập, phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh thì đây là cách làm có thể coi là hiệu quả.
Trong mấy năm gần đây, khi sử dụng cách làm này vào thực tế giảng dạy bản
thân tôi thấy rất có hiệu quả. Đây là một phương pháp đúng đắn. Những vấn đề lí
thuyết không còn là trừu tượng, mờ nhạt và khó nhớ. Cách làm này khá thiết thực
và rất dễ vận dụng.
Thú vị hơn, tôi còn thấy cũng với cách làm như thế nhưng nếu có sự hỗ trợ
của công nghệ thông tin (sử dụng giáo án điện tử) thì hiệu quả giờ học còn cao
hơn nhiều. Còn có nhiều vấn đề phải rút kinh nghiệm khi ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học. Song bản thân tôi cho rằng trong những giờ học như thế
này thì sự hỗ trợ của công nghệ thông tin là tốt nhất, phù hợp nhất.
Tôi đã làm phép so sánh kết quả học tập của học sinh và thu được kết quả rất
khả quan như sau:
Bảng 1: So sánh mức độ nhận thức khi dạy phần nguyên lí làm việc của hệ
thống bôi trơn cưỡng bức.
Lớp 11A11 - Ban cơ bản.
(Dạy theo hình thức không sử dụng hình ảnh)
Mức độ nắm kiến thức
Số học
Không nắm
sinh Tốt Khá Trung bình
được
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
37
5 13,5% 7 18,9% 22 59,4% 3 8,2%
Lớp 11A12 - Ban cơ bản.
- (Dạy theo hình thức sử dụng tranh vẽ - Không sử dụng giáo án điện tử)
Mức độ nắm kiến thức
Số học
Không nắm
sinh Tốt Khá Trung bình
được
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
43
14 32,5% 18 41,8% 10 23,2% 1 2,5%
Lớp 11A13 - Ban cơ bản.
(Dạy theo hình thức sử dụng hình ảnh động - Có sử dụng giáo án điện tử)
Mức độ nắm kiến thức
Số học
Không nắm
sinh Tốt Khá Trung bình
được
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
35
20 57,1% 14 40% 1 2,9% 0 0
Bảng 2: So sánh mức độ nhận thức khi dạy phần nguyên lí làm việc của hệ
thống làm mát bằng nước loại tuần hoàn cưỡng bức
.Lớp 11A14 - Ban cơ bản.
(Dạy theo hình thức không sử dụng hình ảnh)
Mức độ nắm kiến thức
Số học
Không nắm
sinh Tốt Khá Trung bình
được
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
44
7 15,9% 11 25% 22 50% 4 9,1%
Lớp 11A11 - Ban cơ bản.
(Dạy theo hình thức sử dụng tranh vẽ- Không sử dụng giáo án điện tử)
Mức độ nắm kiến thức
Số học
Không nắm
sinh Tốt Khá Trung bình
được
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
37
10 27% 15 40,5% 12 32,5% 0 0%
Lớp 11A12 - Ban cơ bản.
(Dạy theo hình thức sử dụng hình ảnh động - Có sử dụng giáo án điện tử)
Số học Mức độ nắm kiến thức
- sinh Không nắm
Tốt Khá Trung bình
được
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
43
22 51% 18 32,5% 3 6,9% 0 0%
Mặc dù sự chuyển biến của học sinh cần có một quá trình lâu dài. Nhưng để
quá trình đó thuận chiều thì đây là một thực tế khả quan. Tôi rất tin vào cách làm
này. Tôi đã và đang sử dụng để giảng dạy tại trường trung học phổ thông Ba Vì.
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:
1. Đối với giáo viên:
Trước hết để phục vụ tốt cho giờ học này, người giáo viên phải có sự chuẩn
bị tốt ở nhà. Giáo viên phải chịu khó nghiên cứu, chuẩn bị giáo án và xây dựng
hệ thống câu hỏi phù hợp một cách chu đáo và chính xác.
Giáo viên cần động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh
tham gia một cách tích cực trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Chú ý khai thác
vốn kinh nghiệm, kỹ năng đã có của học sinh, giúp các em phát triển tối đa năng
lực, tiềm năng của bản thân .
2. Đối với học sinh:
Để lĩnh hội các kiến thức một cách dễ dàng và khắc sâu vấn đề cần nghiên
cứu cũng đòi hỏi học sinh phải có sự chuẩn bị tốt ở nhà, nghiên cứu bài học mới
trước khi đến lớp. Học sinh phải nhiệt tình, tích cực, chủ động trong quá trình
lĩnh hội kiến thức; nghiêm túc thực hiện các quy định của lớp học, thể hiện một
tinh thần thái độ tốt trong học tập .
3. Đối với các cấp lãnh đạo:
Đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm và tạo điều kiện nhiều hơn nữa cho môn
học trong việc mua sắm trang thiết bị cũng như cơ sở vật chất phục vụ cho việc
dạy và học bộ môn Công nghệ.
Đổi mới phương pháp dạy học đã trở thành pháp lệnh. Chỉ có đổi mới
phương pháp dạy và học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong
giáo dục. Trên đây là đề tài nghiên cứu và đã được tôi áp dụng vào thực tế giảng
dạy tại Trường trung học phổ thông Ba Vì. Tuy nhiên để có được những giờ dạy
thành công cần phải liên tục rút kinh nghiệm. Vì thế tôi rất mong được sự góp ý
chân tình của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Ba vỡ ngày 20 thỏng 5 năm 2012
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là
SKKN của
tụi viết, khụng sao chộp nội dung
của người khác
- Người thực hiện
Phan
Thị Võn Anh
MỤC LỤC
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
I. Lời nói đầu. 2
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. 3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Phương pháp dạy phần nguyên lí làm việc ............... 5
II. Phương pháp sử dụng hình ảnh động ............................ 5
III. Vận dụng cụ thể: 6
C. KẾT LUẬN:
I. Kết quả. 13
II. Kiến nghị, đề xuất. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Công nghệ 11.
2. Sách giáo viên Công nghệ 11.
3. Thiết kế bài giảng Công nghệ 11.
4. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên Công nghệ 11.
5. Phương pháp dạy học kỹ thuật công nghiệp.
nguon tai.lieu . vn