Xem mẫu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ HÌNH THỨC GIÚP TRẺ 4-5 TUỔI HIỂU VỀ GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG VÀ VSATTP THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG
  2. A - ĐẶT VẤN VỀ Có câu nói : “ Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” Trẻ là tương lai của đất bước, là mối quan tâm chung của toàn xã hội và cũng là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, hạnh phúc của mọi gia đình. Thật vậy, có được một đứa trẻ thông minh, khỏe mạnh là niềm mong ước của tất cả mọi người. Để đạt được mong ước ấy thì những người làm cộng tác Giáo Dục Mầm Non phải thực hiện một quá trình chăm sóc – giáo dục hết sức công phu. Trong quá trình đó, có rất nhiều điều khiến chúng ta băn khoăn, trăn trở. Làm thế nào để có được một đứa trẻ thông minh – khỏe mạnh? Chăm sóc – giáo dục trẻ thế nào cho tốt? Phải làm gì để trẻ phát triển toàn diện vệ thể chất – nhận thức - ngôn ngữ - thẩm mĩ – quan hệ tình cảm xã hội? Là một giáo viên mầm non tôi nhận thấy muốn có được một đứa trẻ phát triển toàn diện thì điều đầu tiên cần nói đến đó là “sức khỏe”. Có sức khỏe là tất cả - không sức khỏe là không có gì. Vì vậy trẻ em cần phải được cung cấp đấy đủ dinh dưỡng để phát triển toàn diện về thể lực và trí tuệ. Trẻ em lứa tuổi mầm non còn nhỏ, cơ thể còn non nớt nên trẻ phụ thuộc nhiều vào người lớn và đặc biệt cần sự giúp đỡ của họ. Nhà giáo dục giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ trẻ, tạo cơ hội và cơ may cho trẻ cho cuộc sống hiện đại và tương lai. Giáo dục mầm non phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ mầm non, xây dựng một nền móng vững chắc ban đầu cho sự phát triển cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ cho trẻ mầm non. Đặt cơ sở nền tảng hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ở các trường mầm non đã thực hiện rất nhiều chuyên đề , chuyên đề giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm đã triển khai và góp phần to lớn trong việc nâng cao kiến thức dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm tới trẻ, tới giáo viên, tới phụ huynh học sinh. Là giáo viên mầm non khi đã nhận thức được tầm quan trọng của giá trị dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm.
  3. Tôi thấy mình cần phải có nhiệm vụ tuyên truyền rộng rãi giáo dục dinh dưỡng tới mọi người, đặc biệt đối với trẻ ngay ở độ tuổi mầm non. Việc đưa giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non là một việc làm rất cần thiết, tạo ra sự liên thông về giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ từ tuổi mầm non đến tuổi học đường. Vậy mỗi chúng ta hiểu như thế nào về giáo dục dinh dưỡng ? Giáo dục dinh dưỡng là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến tình cảm, lý trí con người nhằm làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành động để đi đến tự giác, chăm lo vấn đề ăn uống và sức khoẻ cá nhân, tập thể cộng đồng. Nhưng để đưa giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm vào dạy trẻ ở lứa tuổi mầm non thì người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc truyền tải kiến thức tới trẻ nên sự hiểu biết về giá trị dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm của trẻ còn nhiều hạn chế. Vì giáo dục dinh dư và vệ sinh an toàn thực phẩm lại không phải là một môn học riêng lẻ mà phải lồng ghép tích hợp trong các môn học khác và các hoạt động khác nhau. Bên cạnh đó, đặc thù trẻ ở lứa tuổi mầm non là học mà chơi, chơi mà học, học phải có đồ dùng trực quan quan sát thì trẻ mới có thể khắc sâu. Vậy việc giáo dục dinh dưỡng cho trẻ quả thật là rất khó và trừu tượng. Nên không thể truyền tải trực tiếp được mà phải thông qua các hoạt động để giúp trẻ lĩnh hội được những kiến thức về giá trị dinh dưỡng . Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “ Một số hình thức giúp trẻ 4-5 tuổi hiểu về giá trị dinh dưỡng và VSATTP thông qua các hoạt động”.
  4. B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận: Con người có sức khỏe có muôn vàn ước mơ, người không có sức khỏe chỉ có một ước mơ duy nhất là “Sức khỏe”. Thật vậy, sức khỏe là vốn quý nhất của còn người, có sức khỏe là có tất cả, là điều kiện quyết định đến sự nghiệp tiền đề tương lai. Ở lứa tuổi mầm non quá trình tăng trưởng của trẻ diễn ra rất nhanh chóng nhưng cơ thể của trẻ lại quá non nớt, trẻ dễ chịu ảnh hưởng của những tác động bên ngoài, sức đề kháng của trẻ kém cho nên trẻ dễ mắc các loại bệnh nguy hiểm đến tính mạng. Do vậy trẻ chỉ có thể phát triển thể lực tốt nếu như người lớn chú ý đến việc chăm sóc giữ gìn sức khỏe, bảo vệ hệ thần kinh khỏe mạnh cho trẻ. Khi đứa trẻ khỏe mạnh, hồn nhiên sẽ có ảnh tốt đến phát triển chung của trẻ. Giáo dục sức khỏe càng có ý nghĩa hơn, là khâu then chốt trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ vì chính những năm tháng đầu tiên của sống, sức khỏe tốt sẽ là một điều kiện tốt cho cuộc sống sau này của trẻ. Trong văn kiện Đại hội lần thứ IV Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam khoá 7 tháng 12/1993 khẳng định: “ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội” Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Các cơ sở giáo dục mầm non có nhiệm vụ tạo điều kiện tốt nhất để trẻ phát triển hài hoà thể chất và tinh thần, phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường, gia đình - xã hội để chăm sóc giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi phát triển một cách toàn diện, đặt nền tảng đầu tiên cho sự hình thành những phẩm chất con người mới : - Khoẻ mạnh, nhanh nhẹn cơ thể phát triển hoàn hảo cân đối. - Thông minh, năng động, trước hoàn cảnh thực tế của đất nước. - Biết yêu Tổ Quốc, giàu lòng yêu thương, biết quan tâm, giúp đỡ mọi người.
  5. - Có cá tính mạnh mẽ, có kỉ luật, có văn hóa. Vậy để có được những con người như vậy thì cần phải cung cấp một lượng dinh dưỡng theo phương châm 6 chữ : Toàn diện – cân đối – đủ lượng. Toàn diện chính là đầy đủ, bằng mọi cách để cung cấp cho con người đầy đủ các chất dinh dưỡng; phối hợp các loại thức ăn, hỗ trợ nhau về dinh dưỡng. Cân bằng tức là cân đối để các chất dinh dưỡng để các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể luôn trong trạng thái cân bằng dựa theo chất và lượng nhất định, dựa theo tỉ lệ nhất định, không thể thiếu cà cũng không thể thừa. Nếu không dễ dẫn đến thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng. Đủ lượng là chỉ số lượng thích hợp, vừa có thể thỏa mãn nhu cầu sống lại vừa có thể đảm bảo yêu cầu sinh trưởng phát triển. Dinh dưỡng là nền tảng vật chất cho sự sinh trưởng và phát triển của con người. Nếu trẻ thiếu dinh dưỡng sẽ khiến trẻ sinh trưởng phát triển chậm hoặc trì trệ. Thừa dinh dưỡng sẽ dẫn tới hiện tượng béo phì hoặc gây ra bệnh tật khi trưởng thành. Dinh dưỡng có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với sự sinh trưởng phát triển ở trẻ nhỏ. Dinh dưỡng không chỉ ảnh hưỡng trực tiếp tới sự phát triển cơ thể và trí tuệ ở trẻ nhỏ mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển sau này. Trong cuộc sống con người, dinh dưỡng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và duy trì sự sống. Mỗi con người cần có dinh dưỡng để tạo ra nguồn năng lượng cho cơ thể hoạt động sinh trưởng và phát triển.Các dinh dưỡng đó lấy từ đâu? Đều lấy từ các loại thức ăn cung cấp qua khẩu phần ăn hàng ngày. Trong giai đoạn phát triển, trẻ ở độ tuổi khác nhau thì giai đoạn sinh trưởng phát triển của chúng cũng khác nhau nên tâm lí và sinh lí cũng không giống nhau và có sự khác biệt về nhu cầu dinh dưỡng. Do vậy, những người chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non cần tính tới đặc điểm dinh dưỡng ở mỗi giai đoạn của trẻ, phải có phương pháp, sự quan tâm chăm sóc đặc biệt và cả sự lựa chọn đúng đắn. Vì vậy mỗi đứa trẻ phải được cung cấp đầy đủ năng
  6. lượng một cách phù hợp. Cơ thể trẻ sẽ dùng số năng lượng này cho các hoạt động hô hấp, tiêu hóa, bài tiết, thần kinh để duy trì phát triển sự sống. Vì vậy trẻ phải có chế độ ăn khoa học, hợp lí và đầy đủ các chất dinh dưỡng. Chương trình lồng ghép giáo dục dinh dưỡng vào giảng dạy cho trẻ mầm non giúp trẻ hiểu và nhận biết về lợi ích của giá trị dinh dưỡng đối với cơ thể con người. Nên việc tiến hành giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mầm non sẽ góp phần quan trọng trong chiến lược đào tạo và phát triển con người, tạo ra một lớp người mới có sự hiểu biết đầy đủ về vấn đề dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm, biết lựa chọn ăn uống đúng cách để đảm bảo sức khỏe của mình. Qua đó, giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ hiểu được giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn đồng thời hướng dẫn trẻ cách sử dụng các chất đạm, đường, béo, vitamin, nước, muối khoáng để giúp tăng thêm dinh dưỡng, năng lượng cho cơ thể. Giáo dục dinh dưỡng còn cung cấp cho trẻ biết những chất đó có trong các thực phẩm khác nhau: Gạo, thịt, trứng, sữa, rau,… Giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ biết ăn uống đúng cách, hợp vệ sinh và văn minh. Là một giáo viên mầm non tôi thấy việc giáo dục dinh dưỡng cho trẻ em là rất cần thiết. Sức khỏe của trẻ phải được xã hội quan tâm một cách khoa học và đầy đủ. Việc chăm sóc giáo dục trẻ không những là trách nhiệm của giáo viên mầm non mà còn là trách nhiệm của cha mẹ và gia đình trẻ. Do vậy giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ phải có sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường. Nhằm giúp trẻ hiểu giá trị dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với cơ thể con người II. Cơ sở thực tiễn Họa Mi là một trường thuộc quận Ba Đình. Trường nằm trong khu Thành Công, trình độ dân trí đa dạng, một số phụ huynh trí thức, một số phụ huynh bán hàng ở chợ chưa có sự quan tâm con em mình trong học tập. Năm học 2012 – 2013, tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo nhỡ. Tổng số trẻ 68 cháu và có 4 giáo viên/lớp (trình độ chuyên môn đều đã đạt
  7. chuẩn). Trường lớp khang trang có đầy đủ đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị để phục vụ cho công tác trông trẻ. 1. Thuận lợi * Đối với giáo viên: - Lớp luôn được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu, bổ sung cơ sở vật chất để phục vụ cho việc giáo dục dinh dưỡng. - Giáo viên có kiến thức về giáo dục dinh dưỡng, được tập huấn, bồi dưỡng và tham gia kiến tập trường bạn về các hoạt động giáo dục có lồng ghép giáo dục dinh dưỡng. - Là một giáo viên đầy nhiệt huyết với nghề, ham học hỏi, luôn có ý thức trong học tập, tự phấn đấu rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn. - Nhiều phụ huynh có ý thức kết hợp với giáo viên để chăm sóc sức khỏe cho trẻ. * Đối với trẻ: - Trẻ ngoan ngoãn, có nề nếp, nhiều cháu rất ham học hỏi, khám phá. - Trẻ hứng thú, tích cực tham gia các hoạt động. 2. Khó khăn - Số lượng trẻ quá đông nên ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng. - Khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều vì lớp còn một số cháu thuộc lứa tuổi mẫu giáo bé, một số cháu chậm - Qua khảo sát đầu năm lớp có 3 cháu suy dinh dưỡng, các cháu suy dinh dưỡng thường ăn chậm, không ăn đa dạng thức ăn, chưa biết cách nhai nên giáo viên gặp khó khăn trong việc chăm sóc trẻ. - Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm không phải là môn học độc lập như các hoạt động khác như: Làm quen văn học, làm quen âm nhạc…mà phải lồng ghép tích hợp trong các môn học và các hoạt động khác. III. Các hình thức thực hiện :
  8. Để giúp trẻ 4 – 5 tuổi hiểu và khắc sâu được các kiến thức về giá trị dinh dưỡng – VSATTP tôi đã tìm tòi ra một số hình thức thông qua các hoạt động giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Trong quá trình giáo dục, giáo viên sử dụng chủ yếu hai hình thức sau: hình thức trong tiết học và hình thức ngoài tiết học. 1. Hình thức trong tiết học : - Với hình thức này, giáo viên đã cung cấp cho trẻ biết tên gọi, đặc điểm, cấu tạo và giá trị dinh dưỡng của các thực phẩm với cơ thể con người. - Giúp trẻ biết được thành phần, tác dụng của các chất prôtit, lipít, gluxít, các loại vitamin và muối khoáng với cơ thể con người - Thông qua hình thức này giáo viên sẽ củng cố, hệ thống hóa, chính xác hóa những kiến thức về dinh dưỡng mà trẻ đã làm quen ở mọi lúc mọi nơi. - Giáo dục dinh dưỡng sẽ được tích hợp nhẹ nhàng, hợp lí, không làm mất đi đặc trưng của hoạt động chính. Khi sử dụng hình thức này cần đạt các yêu cầu sau : + Phát huy tính tự giác, chủ động, tìm tòi, khám phá của trẻ. + Giờ học đảm bảo không khí vui tươi, thoải mái nhẹ nhàng, không gò bó áp đặt. + Giờ học phải có trọng tâm, tránh dàn trải, lan man, cần biết phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt, hợp lý. * VD: Với đề tài: “ Làm quen một số loại rau”- Chủ điểm thực vật Tôi tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng – VSATTP như sau: + Thông qua giờ khám phá khoa học, tôi cho trẻ quan sát vật thật bằng các giác quan kết hợp với hệ thống câu hỏi để gây được tính tò mò, hứng thú ở trẻ: - Ai có thể kể tên một số loại rau ? - Rau bắp cải cung cấp cho cơ thể chất gì? - Kể tên các món ăn chế biến từ loại rau đó?
  9. - Cách chế biến các món ăn đó như thế nào ? - Vì sao phải ăn các món ăn được chế biến từ các loại rau đó? - Trước khi ăn con phải làm gì? Và ăn các món đó như thế nào? - Cho trẻ xem một số hình ảnh món ăn chế biến từ các rau đó trên máy tính Hoạt động khám phá khoa học (về một số loại rau)
  10. Hoạt động khám phá khoa học (về một số món ăn)
  11. * VD: Với đề tài:“ Tìm hiểu về con gà, con vịt” - Chủ điểm động vật Tôi lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng – VSATTP bằng cách sử dụng các câu hỏi đàm thoại về dinh dưỡng như sau: - Con gà mái, con vịt cái là loại vật đẻ ra gì? - Quả trứng cung cấp cho chúng ta chất gì? - Thịt gà và thịt vịt cung cấp chất gì? - Những món ăn được chế biến từ các thực phẩm đó? - Cách ăn các món ăn đó như thế nào? - Vì sao phải ăn các món ăn đó? * VD: Đề tài: “Các món ăn ngày tết” – Chủ điểm Tết và mùa xuân - Tôi lồng ghép giáo dục dinh dưỡng – VSATTP với hệ thống câu hỏi đàm thoại như sau: + Trong ngày Tết thường có những món ăn gì? + Các chất dinh dưỡng có trong các món ăn đó? + Làm thế nào để món ăn đó được ngon? + Trong ngày Tết có rất nhiều món ăn vì vậy các con phải ăn đầy đủ các món ăn và ăn với một lượng vừa đủ để cơ thể có đầy đủ các chất dinh dưỡng. + Trước khi ăn phải làm gì và trong khi ăn thì phải ăn như thế nào? + Con có thể giúp mẹ những công việc gì làm các món ăn ngày tết ? * VD: Với đề tài:“Hát bài: Anh chàng đầu bếp ” – Chủ điểm Nghề nghiệp. Dưới hình thức hoạt động âm nhạc, tôi có thể lồng ghép giáo dục dinh dưỡng như sau: - Cho trẻ hát bài: “Anh chàng đầu bếp” để gây hứng thú với trẻ : Ch en g cheng cheng tôi là người đầu bếp . Tôi say sưa nấu ăn cho mọi
  12. người . Tôi say sưa nấu ăn cho mọi người. Ngày và đêm tôi lo rau, hành, mắm, muối. Còn tôi lo cá, tôm, trứng, thịt, lạc, đậu. Còn tôi lo rán, luộc, kho, xào, hấp, nướng. Tôi say sưa nấu ăn cho mọi người. Tôi say sưa nấu ăn cho mọi người. Tôi say sưa nấu ăn cho mọi người. - Tôi sử dụng một số câu hỏi đàm thoại: + Các con vừa hát bài hát gì? + Trong bài hát người đầu bếp cần những thực phẩm gì? + Các thực phẩm đó cung cấp chất gì ? + Các thực phẩm đó chế biến như thế nào? + Trước khi ăn các con phải làm gì ? + Cách ăn các món đó như thế nào ? 2. Các hình thức ngoài tiết học: - Hình thức này tạo điều kiện cho trẻ được vận động.
  13. - Giúp trẻ hiểu sâu và nhớ lâu hơn về giá trị dinh dưỡng của các loại thực phẩm - VSATTP thông qua các hoạt động trải nghiệm, thực hành. - Qua hình thức này trẻ sẽ được tiếp xúc trực tiếp với các loại thức ăn thực phẩm. Giúp trẻ hiểu rõ, cụ thể hơn, chính xác hơn. - Hình thức ngoài tiết học gồm nhiều hình thức : Dạo chơi, hoạt động ở góc trải nghiệm, các hoạt động khác: ăn trưa và ăn chiều... - Các hình thức khác nhau sẽ hỗ trợ cho nhau giúp cho việc giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao hơn. Khi thực hiện các hình thức này phải đảm bảo yêu cầu sau: + Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ + Các đối tượng quan sát và thực hành phải phù hợp, có tính thẩm mĩ. 2.1. Thông qua dạo chơi - Thông qua một buổi dạo chơi vừa giúp trẻ nhận biết các đặc điểm cơ bản của đối tượng, vừa giúp trẻ hiểu thêm về thành phần dinh dưỡng của đối tượng đó . - VD: Quan sát vườn cây mít Tôi sử dụng một số câu hỏi đàm thoại để giáo dục dinh dưỡng: + Trong vườn có những cây ăn quả gì? + Quả mít có nhiều chất gì? + Ăn có vị gì? + Trước khi ăn phải làm gì? Ăn quả đó như thế nào? + Vì sao các con ăn các loại quả đó? - VD: Thăm quan nhà bếp để quan sát công việc của cô nuôi. + Các con quan sát xem các cô nuôi đang làm gì? + Công việc của mỗi cô có giống nhau không? + Hãy đoán xem hôm nay các con sẽ được ăn món gì? + Các cô đã sơ chế thực phẩm như thế nào để đảm bảo vệ sinh? + Khi nấu trang phục của các cô như thế nào? + Các cô để lẫn thức ăn sống với thức ăn chín không? Vì sao không được làm như vậy? + Khi nấu chín xong thì phải làm gì?
  14. Thăm quan nhà bếp 2.2. Hoạt động góc: Tổ chức giáo dục dinh dưỡng ở các trò chơi trong góc phân vai - Tôi kết hợp với nhà bếp cho trẻ cùng làm như: + Cho trẻ nhặt rau muống, rau cải giúp các bác cấp dưỡng qua đó giáo dục trẻ về các chất dinh dưỡng có trong đó. - Với chủ đề “Thực vật”: Ở góc “Bé tập làm nội trợ” tôi cho trẻ thực hiện các hoạt động sau: + Trẻ tập nhặt rau, nhặt đỗ. + Tập pha nước chanh, nước cam. + Làm món quả chín ướp đường. + Trẻ tập cắm hoa. + Trẻ tập gói nem. + Trẻ học pha nước chấm + Trẻ bày mâm ngũ quả. + Trẻ chọn các nguyên liệu để làm bánh chưng. + Xếp quy trình cách làm món ăn. - Tạo các mảng mở để trẻ hoạt động trong góc đó cùng chơi. + Phân nhóm các loại thực phẩm giàu chất đạm, chất béo, chất bột đường, vitamin và muối khoáng. + Cách chọn thực phẩm tươi, ngon. + Các bước trước khi nấu được một món ăn ngon + Cách bảo quản thực phẩm. - Thông qua hoạt động góc trẻ được tập làm các công việc như của người lớn và giúp trẻ hiểu rõ hơn giá trị dinh dưỡng của một số loại thực phẩm. 2.3. Giờ ăn: Khi tổ chức giờ ăn cho trẻ tôi có thể tích hợp nhiều nhất giáo dục dinh dưỡng và VSATTP:
  15. - Trước và sau khi ăn trẻ phải làm gì để đảm bảo vệ sinh? Tôi cho trẻ thực hiện các thao tác vệ sinh. + Trẻ rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, ăn xong phải lau miệng, uống nước và xúc miệng nước muối. - Trước khi ăn cơm, cô thường đặt các câu đố hoặc kích thích trẻ đoán mùi các món ăn và hỏi trẻ về dinh dưỡng các món ăn. - Các cô cũng phải đảm bảo vệ sinh khi chia ăn cho trẻ: Cô đeo khẩu trang, đầu tóc gọn gàng, chuẩn bị đồ dùng đầy đủ chia ăn cho trẻ. - Trong giờ ăn: Tôi luôn chú ý đến các cháu suy dinh dưỡng và các cháu ăn chậm. Khuyến khích, động viên các cháu ăn hết suất và ăn thêm. + Với những cháu không ăn thịt, không ăn rau: Tôi nhẹ nhàng động viên trẻ giải thích cho các con hiểu trong các thức ăn đó có những chất gì? Vì sao các con phải ăn? Động viên trẻ ăn ít một, dần dần tôi cho trẻ ăn tăng thêm mỗi ngày và trẻ biết ăn, thích ăn, ăn được nhiều hơn. + Với cháu kén ăn, cô khuyến kích trẻ ăn thêm các món ăn mới của trường - Khi trẻ đã ăn xong, tôi hình thành cho trẻ thói quen ngồi nghỉ ngơi tại chỗ, chơi các trò chơi nhẹ như: Chi chi chành chành, tập tầm vông… hoặc đọc một số bài thơ ngắn… Hoặc giáo viên ngồi trò chuyện với trẻ trước khi cho trẻ ngủ để khắc sâu giá trị dinh dưỡng món ăn mà trẻ vừa được ăn : + Các con vừa được ăn món gì? + Ăn món đó các con cảm thấy như thế nào? + Món đó được chế biến như thế nào? + Các chất dinh dưỡng có trong món ăn đó? 2.4. Hoạt động chiều: Tổ chức giáo dục dinh dưỡng - VSATTP cho trẻ vào họat động chiều dưới hình thức ôn luyện các bài đồng dao, ca dao, bài vè đã học, nhằm giúp trẻ khắc sâu được kiến thức mà vẫn cảm giác nhẹ nhàng với trẻ. * VD1 : Tôi cho trẻ đọc bài : đồng dao về củ để gây hứng thú
  16. Đồng dao về củ Với hệ thống câu hỏi Ngồi chơi trên đất - Bài đồng dao nói về củ gì? Là củ su hào - Các loại củ đó cung cấp chất gì? Tập bơi dưới ao - Có món ăn nào chế biến từ các loại Đen xì củ ấu Không cần củ đó? phải nấu - Trước khi ăn các con phải làm gì? Củ đậu mát lành Lợn thích củ hành Chó đòi giềng xả Củ lạc đến lạ Có hạt uống bia Như mũi ông hề Là củ cà rốt + VD2: Tôi cho trẻ đọc bài “Vè trái cây”: Lẳng lặng mà nghe Là trái sầu riêng Tôi đọc bài vè Vàng vỏ xanh viền Trái cây bạn nhé Da sần đen hạt Ăn vào mát mẻ Là trái mãng cầu Là trái thanh long Cong giống móc câu Xanh vỏ đỏ lòng Chuối già, chuối sứ Là trái dưa hấu Hình thù rất xấu Hệ thống câu hỏi đàm thoại: - Trẻ làm quen với quả chuối, quả na, quả thanh long - Các loại quả có trong bài vè? - Các loại quả đó có nhiều chất gì?
  17. - Kể tên các loại quả có chứa nhiều chất vitamin - Có loại quả có thể ăn luôn khi chín, có loại quả khi chưa chín còn có thể chế biến thành các món ăn như: canh chuối. - Khi ăn các loại quả đó thì ăn như thế nào? Trước khi ăn thì phải làm gì? - Vì sao phải ăn nhiều quả chín? 3. Kết hợp với phụ huynh: - Cung cấp các sách báo, tài liệu về giáo dục dinh dưỡng và VSATTP cho phụ huynh cùng kết hợp với giáo viên để giáo dục trẻ. - Trao đổi với phụ huynh về các kỹ năng vệ sinh trước và sau khi ăn của trẻ để phụ huynh tiếp tục rèn trẻ thực hiện khi ở nhà. - Trò chuyện với phụ huynh trong giờ đón trả trẻ về các kiến thức giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm mà giáo viên dạy trẻ ở lớp để phụ huynh giáo dục khi trẻ ở nhà như: Trong bữa ăn phụ huynh hỏi trẻ: Tên món ăn, các chất dinh dưỡng có trong món ăn… - Vận động phụ huynh sưu tầm đóng góp tranh ảnh, câu chuyện, bài hát, thơ, băng đĩa có nội dung giáo dục dinh dưỡng và VSATTP cho giáo viên để giáo viên dạy trẻ trên lớp. - Giáo viên trò chuyện với những phụ huynh làm công việc về y tế để có một số hiểu biết về dinh dưỡng và VSATTP, các chất dinh dưỡng cần và đủ cho một cơ thể khỏe mạnh. - Khuyến khích trẻ tập làm nội trợ, phụ giúp mẹ nấu cơm như: nhặt rau, pha nước chanh, nước cam… - Phối hợp với phụ huynh tổ chức các hội thi, triển lãm các món ăn để góp phần làm phong phú thêm các hoạt động giáo dục dinh dưỡng cho trẻ. 4. Sưu tầm, sáng tạo một số trò chơi giáo dục dinh dưỡng - VSATTP Trong quá trình tổ chức giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua các hoạt động, ngoài các hình thức trên tôi còn áp dụng một số trò chơi nhằm giúp trẻ hiểu biết thêm về dinh dưỡng: * Trò chơi 1: Kể đủ 3 thứ
  18. - Cách chơi: Chia trẻ thành các nhóm chơi, khi cô nói yêu cầu như “Rau ăn lá” thì các nhóm sẽ có tín hiệu trả lời kể đủ 3 thứ rau thuộc nhóm “Rau ăn lá” đó. - Luật chơi: Trẻ phải kể đủ 3 thứ trong nhóm theo yêu cầu của cô. * Trò chơi 2: “Chọn quả” - Cách chơi: Cô cho trẻ xếp hàng thành 2 đội chơi thi đua chọn quả theo yêu cầu. Khi có hiệu lệnh trẻ chạy lên lấy quả theo yêu cầu. Kết thúc đội nào chọn được nhiều quả và đúng theo yêu cầu là đội chiến thắng. - Luật chơi: Trò chơi diễn ra trong một đoạn nhạc, mỗi 1 bạn chỉ được lấy một loại quả theo đúng yêu cầu của đội mình, nếu lấy nhầm sẽ không được tính. * Trò chơi 3: “ Chọn nhanh thực phẩm cùng nhóm” - Cách chơi: Khi cô nói tên rau, củ, quả, thịt có chất dinh dưỡng gì thì trẻ phải chọn hết các lô tô cùng nhóm rau, củ, quả, con vật giàu chất dinh dưỡng đó và đọc tên. Trẻ nào nhầm phải ra ngoài một lượt chơi. - Luật chơi: Tìm các loại thực phẩm cùng nhóm với thực phẩm đã xác định, sau khi nói giá trị dinh dưỡng của thực phẩm đó. * Trò chơi 4: “Người tiếp phẩm giỏi” - Cách chơi: Chia trẻ thành 2 nhóm chơi (Mỗi nhóm khoảng 5 bạn chơi), nhiệm vụ của 2 nhóm là phải đi chợ mua hàng biết chọn hàng có đủ 4 nhóm: Chất bột đường, chất béo, chất đạm, vitamin và muối khoáng. Sau một thời gian quy định nhóm nào mang hàng về trước và có đủ thành phần thực phẩm trong 4 nhóm là thắng cuộc. - Luật chơi: Tìm đủ các thực phẩm chứa các chất dinh dưỡng. * Trò chơi 5: “Tìm nguồn gốc thực phẩm” - Cách chơi: Chia trẻ thành 2 đội chơi, trẻ sẽ phải lên tìm thực phẩm và nguồn gốc của thực phẩm đó nối thành từng cặp như: thịt gà – con gà, sữa bò – con bò…Sau
  19. một thời gian đội nào nối được chính xác và được nhiều hơn đội đó sẽ chiến thắng. - Luật chơi: Trẻ phải nối đúng thực phẩm với nguồn gốc của thực phẩm đó. * Trò chơi 6: “Các đầu bếp tài ba” - Cách chơi: Chia trẻ thành 3 nhóm chơi, khi cô nói tên thực phẩm nào thì trẻ phải nói được tên các món ăn chế biến từ các loại thực phẩm đó. - Luật chơi: Nói đúng các món ăn chế biến từ loại thực phẩm đó. Không được nhắc lại món ăn mà đội bạn đã nêu. * Trò chơi 7: ‘’Tôm, cá, cua thi tài” - Cách chơi: Chia trẻ thành 3 nhóm chơi(tôm, cua, cá. Trẻ đội mũ tôm, cua, cá). Cả lớp hát : Trời mưa rào rào, ao sâu đầy nước, tôm, cua, cá rủ nhau đi bơi. + Nhóm Cua hát : Cua là chúng tôi có hai càng mà bò ngang là ngang tám cẳng, hỏi mấy bạn đây có ai biết chúng tôi được làm thành món ăn gì ? + Các nhóm còn lại nói : Canh cua, bún cua, nem cua… + Nhóm tôm hát : Còn chúng tôi đây tên gọi là Tôm, có hai là hai cái râu rất dài mà bơi lùi là lùi nhanh ghê, hỏi các bạn đây có ai biết chúng tôi được làm thành món ăn gì ? + Các nhóm còn lại nói :Bánh tôm, tôm rán, tôm hấp, canh tôm … + Nhóm cá hát : Nào các bạn đã giới thiệu hết chưa, để chúng tôi sẽ giới thiệu sẽ giới thiệu nhóm cá nào. Chúng tôi có 2 cái vây tựa như mái chèo, vẫy tròn tròn mà bơi rất khéo, hỏi các bạn đây có ai biết chúng tôi được làm thành món ăn gì ? + Các nhóm khác cùng nói : Cá nướng, cá kho, cháo cá … + Sau đó 3 đội cùng đứng vòa vạch xuất phá. Trẻ đội muếch xanh phất cờ, ba đội bơi nhanh về đích. Nhóm cua phải bò ngang, nhóm tôm phải bật lùi, nhóm cá phải làm động tác bơi. Giáo viên cho trẻ kể các món ăn làm từ tôm, cua, cá mà trẻ thích. Khi ăn các món ăn đó có lợi gì cho sức khỏe
  20. - Luật chơi: Trẻ phải bắt chước động tác của tôm, cua, cá (tôm bò lùi, cua bò ngang, cá bơi thẳng). IV. Kết quả đạt được : Qua thời gian thực hiện các hình thức giáo dục dinh dưỡng cho trẻ 4- 5 tuổi tại trường mầm non HỌA MI,các cháu đã hiểu được về giá trị dinh dưỡng ích lợi của thực phẩm .Từ đó trẻ có ý thức trong ăn uống và có được mơt sức khỏe tốt. Kết quả khảo sát sức khỏe của trẻ Kết quả đạt được Khi chưa áp dụng một số Sau khi đã áp dụng một hình thức giúp trẻ GTDD- số hình thức giúp trẻ Kênh VSATTP thông qua các GTDD-VSATTP thông So sánh hoạt động qua các hoạt động Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ Kênh BT 64 91,1% 67 98,5% Tăng 4,4% Kênh SDD 3 4,4% 1 1,5% Giảm 2,9% Béo phì 1 1,5% 1(đứng cân) 1,5% 1,5 % Nhìn vào bảng so sánh số liệu ta thấy sức khỏe của trẻ đã có sự khác biệt, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã giảm, trẻ béo phì đứng cân. Như vậy các hình thức của tôi đã có tác dụng đáng kể.
nguon tai.lieu . vn