Xem mẫu

  1. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 1  SAÙNG KIEÁN KINH NGHIEÄM Ñeà taøi MOÄT SOÁ BIEÄN PHAÙP NAÂNG CAO CHAÁT LÖÔÏNG DAÏY – HOÏC MOÂN TOAÙN ÔÛ LÔÙP MOÄT. I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở lý luận: Bậc tiểu học được coi là bậc học nền tảng của cả h ệ th ống giáo d ục, trong đó lớp Một chính là phần móng của cái nền tảng ấy. N ền móng ch ắc thì m ới đ ảm bảo cho phần kiến trúc bên trên được bền vững. Chính vì vậy việc nâng cao ch ất lượng dạy và học ở bậc tiểu học nói chung và ở l ớp Một nói riêng luôn là v ấn đ ề thời sự, nó được các cấp giáo dục từ Trung ương đến cơ sở hết sức quan tâm và đặt lên nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên, để nâng cao được chất lượng dạy và học thì ngoài việc áp dụng những quan điểm lý luận, những h ướng dẫn mang tính đ ịnh hướng về nội dung và phương pháp dạy - học của các nhà khoa h ọc giáo d ục, còn đòi hỏi người giáo viên trực tiếp đứng lớp luôn phải tự tìm tòi, nghiên c ứu và sáng tạo để không ngừng cải tiến phương pháp dạy – học sao cho vừa phải phù h ợp với đối tượng học sinh ơ ûtừng vùng miền, từng lớp, từng thời điểm…, vừa phải đạt được những yêu cầu chung được đặt ra về mặt kiến thức. Việc cải ti ến phương pháp dạy - học càng đặc biệt cần thiết trong giai đoạn hiện nay, khi mà bậc tiểu học vừa hoàn thành xong viêïc triển khai chương trình sách giáo khoa m ới và đang cần rất nhiều những đóng góp mang tính thực tiễn từ phía giáo viên trực tiếp đứng lớp để nội dung và phương pháp dạy – học theo ch ương trình m ới đ ược hoàn thiện ở mức cao nhất. Là một người giáo viên, bản thân tôi cũng luôn mong muốn góp những kinh nghiệm nhỏ bé của mình vào cái Đại dương mênh mông kiến thức về phương pháp dạy – học của nền giáo dục nước nhà. Trong phạm vi nhỏ h ẹp c ủa đ ề tài này, tôi muốn đưa ra để trao đổi với các đồng nghiệp một số kinh nghi ệm v ề c ải ti ến phương pháp dạy học môn Toán ở lớp Một nhằm nâng cao chất l ượng d ạy h ọc ở môn học này. Trước hết, chúng ta cùng xác định một cách tổng quát về mục tiêu dạy – h ọc môn Toán ở lớp Một. Theo nghiên cứu của tôi về chương trình, sách giáo khoa mới thì tôi nh ận thấy việc dạy – học Toán ở lớp Một nhằm giúp học sinh: - Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm các số tự nhiên trong phạm vi 100 và phép cộng , phép trừ không nhớ trong phạm vi 100; về đo độ dài trong phạm vi 20cm; về tuần lễ, các ngày trong tu ần l ễ; v ề đ ọc 1
  2. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 2  đúng giờ trên mặt đồng hồ; về một số hình học ( đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về gải toán có lời văn… - Hình thành và rèn luyện các kỹ năng thực hành: đọc, vi ết, đ ếm, so sánh các số trong phạmvi 100; cộng và trừ không nhớ các số trong phạm vi 100; đo và ước lượng độ dài đoạn thẳng ( với các số đo là số tự nhiên trong ph ạm vi 20cm); nh ận biết hình vuông, hình tròn, hình tam giác, đoạn thẳng, điểm; vẽ đoạn thẳng có độ dài 10cm; giải một số toán đơn về cộng, trừ; bước đầu biết di ễn đ ạt b ằng l ời, bằng ký hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài th ực hành; t ập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh. - Học sinh chăm chỉ, tự tin, cẩn thận, ham hiểu biết và h ứng thú trong h ọc tập. Để học sinh có thể đạt được những yêu cầu đã đặt ra ở trên không phải là khó nhưng cũng hề dễ nếu giáo viên không có những cải tiến thích hợp về ph ương pháp dạy – học. Đó cũng chính là điều làm tôi luôn băn khoăn, trăn tr ở tìm cách đ ể nâng cao chất lượng dạy – học, nâng dần trình độ tiếp thu của học sinh. Với thực tế kinh nghiệm của 18 năm liên tục được phân công giảng dạy ở lớp Một và sau 6 năm thực hiện chương trình sách giáo khoa m ới, tôi đã có m ột s ố biện pháp hữu hiệu để khi học xong lớp Một các em phải biết: - Tính cộng và trừ trong phạm vi 100. - Đo độ dài đoạn thẳng trong phạm vi 10 cm. - Tuần lễ và các ngày trong tuần lễ. - Biết đọc giờ trên mặt đồng hồ. - Giải một số bài toán đơn về cộng, trừ. - Biết so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong ph ạm vi những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh. 2. Thực trạng và nguyên nhân: Trong 1-2 năm đầu thực hiện chương trình sách giáo khoa mới, ch ất lượng môn Toán ở lớp do tôi phụ trách nói riêng và trong toàn kh ối Một nói chung còn nhiều hạn chế. Các em thường xuyên sai ở một số điểm sau: - Nhầm lẫn khi sử dụng dấu . - Lúng túng trong việc so sánh giá trị các số. - Chưa thành thạo khi tìm thành phần chưa biết của phép cộng, trừ. - Giải toán có lời văn còn nhầm lẫn hoặc chưa viết được câu lời giải. Chất lượng kiểm tra định kỳ cuối kỳ II môn Toán ở lớp do tôi phụ trách trong hai năm học 2002 -2003 và 2003 -2004 như sau: TỈ LỆ ĐIỂM KTĐK MÔN TOÁN NĂM HỌC 9 - 10 7-8 5-6 3-4 1-2 2
  3. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 3  2002 - 2003 10.2 26.7 42.5 10.4 10.1 2003 - 2004 15.3 30.1 39.6 5.7 9.3 Theo tôi, sở dĩ xảy ra thực trạng trên đây là do những nguyên nhân sau: - Giáo viên chưa thực sự nắm bắt được phương pháp giảng dạy mới để phát huy tính tích cực của học sinh. - Trình độ học sinh không đồng đều: có em đã được học qua lớp Mẫu giáo, có em chưa bao giờ biết đến mặt chữ, sáh vở trước khi vào lớp Một; có em chỉ dạy qua một lần, thậm chí chỉ nói sơ qua đã biết, nhưng cũng không ít h ọc sinh giáo viên dạy đi dạy lại nhiều lần vẫn chưa hiểu hoặc hiểu rồi lại quên ngay. II/ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH: Năm học 2008-2009 tôi tiếp tục được phân công dạy lớp Một, l ớp có 28 h ọc sinh; trong đó có 14 học sinh nữ. Trong quá trình giảng dạy, tôi g ặp một s ố khó khăn và thuận lợi sau: 1. Thuận lợi: - Bản thân tôi đã trực tiếp giảng dạy lớp Một được 19 năm nên ít nhiều cũng đã tích luỹ được một số kinh nghiệm dạy học, trong đó có kinh nghiệm dạy học môn Toán ở lớp Một; có khả năng tự làm một số đồ dùng dạy h ọc đ ơn gi ản ph ục vụ cho việc dạy học. - Hoàn cảnh gia đình có nhiều thuận lợi cho công tác giảng dạy, nghiên c ứu tài liệu: chồng tôi cũng là một đồng nghiệp và là lãnh đạo trong nhà trường nên anh đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong giảng dạy; các con tôi đã khôn l ớn; kinh t ế gia đình tạm ổn định… - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến công tác đổi m ới ph ương pháp dạy – học nhằm nâng cao chất lượng mọi mặt của nhà trường. - Đa số cha mẹ học sinh lớp do tôi ph ụ trách quan tâm đ ến vi ệc h ọc c ủa con cái nên đã mua sắm khá đầy đủ sách, vở và các đồ dùng học tập cho các em ngay từ đầu năm học; họ thường xuyên giữ liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình học tập của con em mình. - Nhiều học sinh học tập tích cực. 2. Khó khăn: - Một số gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn, làm nghề lao đ ộng ph ổ thông vất vả cả ngày nên ít có thời gian và sức lực để chăm sóc con cái v ề m ọi mặt. - Một số học sinh gia đình có hoàn cảnh khó khăn phải phụ giúp công vi ệc gia đình như: trông em, mót điều, mót mủ cao su… không có th ời gian chu ẩn b ị bài ở nhà nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập, trong đó có môn Toán. 3
  4. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 4  - Địa bàn xã rộng, học sinh ở rải rác trong nhiều thôn; thậm chí có nh ững em nhà ở trong rẫy, trong bưng, đường đi lại khó khăn nên vi ệc gặp g ỡ tr ực ti ếp gi ữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh còn hạn chế. - 1/3 số học sinh trong lớp chưa được học qua trường Mẫu giáo nên còn nhút nhát, hạn chế về mặt tiếp thu kiến thức (do chưa được làm quen với mặt chữ, số). - Lớp có 2 học sinh lưu ban, trong đó 1 em đã lưu ban 3 năm lớp Một. III/ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: A- PHÂN LOẠI HỌC SINH: Như tôi đã trình bày ở phần trên, tuy trường tôi ở thị tứ, là trung tâm của cụm gồm 5 xã nhưng tình hình học sinh vẫn rất đa dạng, có em đã h ọc qua M ẫu giáo và cũng còn nhiều em chưa được học qua bậc học này, thậm chí có nh ững em lưu ban nhiều năm ở lớp Một; trình độ tiếp thu do vậy cũng rất khác nhau. Vào đầu mỗi năm học, sau khi tựu trường khoảng 1 tháng, tôi tiến hành khảo sát chất lượng và đánh giá trình độ tiếp thu của học sinh. Sau đó để tiện theo dõi và gi ảng d ạy, tôi tạm phân học sinh theo các trình độ: Giỏi, khá, trung bình, yếu, kém. Trong đó, tôi quan tâm nhiều đến 3 đối tượng học sinh: trung bình, yếu và kém. Để đảm bảo cho tất cả các đối tượng học sinh đều có thể tham gia vào quá trình tìm tòi, phát hi ện kiến thức, tôi chuẩn bị trước ở nhà các bài tập ( dựa vào vở Bài tập Toán) có yêu cầu kiến thức từ dễ đến khó. Các bài tập khó dành cho học sinh khá, giỏi; các bài tập dễ dành cho học sinh trung bình trở xuống nhằm tạo h ứng thú cho các em trong từng tiết học để các em chủ động tiếp thu kiến thức. Trong năm học đầu tiên khi áp dụng thử nghiệm đề tài, sau khi phân loại h ọc sinh và chuẩn bị được một số lượng bài tập đủ để dạy cho ít nhất 1 chương (các chương còn lại tôi sẽ tiến hành soạn tiếp trong những khoảng thời gian rảnh rỗi và những năm học tiếp theo sau đó tôi chỉ cần điều chỉnh, bổ sung thêm cho phù h ợp với đối tượng học sinh của từng năm học), tôi tiến hành các biện pháp cụ thể để áp dụng đề tài. B- BIỆN PHÁP CỤ THỂ: Trước hết, tôi tranh thủ trong cuộc họp phụ huynh h ọc sinh đ ầu năm h ọc đ ể gặp gỡ, yêu cầu họ mua sắm cho học sinh đầy đ ủ các dụng c ụ c ần thi ết t ối thi ểu cho việc học tập tất cả các môn học. Riêng môn Toán, ngoài các d ụng c ụ, đ ồ dùng học tập cần thiết như sách giáo khoa, bộ ghép Toán…, tôi yêu c ầu ph ụ huynh h ọc sinh trang bị thêm cho mỗi em 1 cuốn vở ô li đ ể h ọc sinh làm l ại các bài t ập b ị sai hoặc làm thêm một số bài mà các em chưa thông thạo về kiến thức (bài tập do giáo viên biên soạn). Việc làm này sẽ có tác dụng củng cố kiến th ức cho học sinh và giúp các em nhớ lâu hơn kiến thức mình vừa phát hiêïn được, đồng thời đây cũng là cách để rèn kỹ năng viết cho học sinh. 4
  5. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 5  Khi học sinh đã có đủ các dụng cụ, đồ dùng học tập cần thiết, tôi bắt đầu áp dụng đề tài cụ thể cho từng dạng Toán như sau: 1. Dạy toán về nhiều hơn, ít hơn: Với dạng toán về nhiều hơn, ít hơn học sinh phải nắm thật kỹ để các em chuyển sang học về dấu lớn hơn, bé hơn được dễ dàng. Đối vơí học sinh khá, giỏi, các em tiếp thu bài rất nhanh vì đó chỉ là những kiến th ức đơn giản các em nh ận biết trong giao tiếp hàng ngày với cha mẹ, với những người xung quanh. Đối với những học sinh trung bình, yếu, kém; kiến thức về nhiều h ơn, ít h ơn các em ch ỉ được nghe khi vào học lớp Một vì những học sinh này th ường ít được s ự quan tâm, hướng dẫn của cha mẹ từ những sinh hoạt, vui chơi hàng ngày; hơn nữa, cha, m ẹ của các em cũng vì lo bươn chải làm lụng để mưu sinh nên cũng ít chăm lo đến học tập của con cái mình. Vì vậy, khi dạy dạng toán này, tôi chú ý đ ể các h ọc sinh trung bình trở xuống được thực hành nhiều hơn. Để các em dễ nhận biết kiến thức, tôi áp dụng triệt để phương pháp trực quan. Từ việc cho các em quan sát cụ thể để các em phát hi ện và ghi nh ớ n ội dung kiến thức. Ví dụ: - Gọi hai nhóm học sinh đứng trước lớp, nhóm một có 4 h ọc sinh, nhóm hai có 3 học sinh. - Giáo viên yêu cầu cả lớp quan sát, sau đó gọi những học sinh thuộc nhóm đối tượng trung bình trở xuống trả lời câu hỏi: Nhóm nào nhiều bạn hơn? Nhóm nào ít bạn hơn? - Tôi tiếp tục thay đổi số học sinh của hai nhóm và nêu các câu h ỏi t ương t ự để nhiều học sinh yếu kém có cơ hội trả lời câu hỏi nhằm phát hiện kiến thức. 2. Dạy về dấu lớn hơn, bé hơn (>,
  6. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 6  thể sai khi tính toán vội vàng. Để hạn chế điều này, tôi giúp h ọc sinh phân bi ệt bằng cách co cánh tay của mình khi hướng dẫn các em điền dấu. a) Với dấu bé hơn (): Ví dụ: 6…3. Tương tự ví dụ trên, giáo viên cũng nêu câu hỏi và rút ra nhận xét: Dấu lớn hơn giống như tay phải co lại chống vào hông . Sau đó, cho học sinh thực hành, nêu nhận xét. Cuối tiết học, tôi tổ chức cho học sinh thi đua bằng hình th ức trò ch ơi nh ằm củng cố và khắc sâu kiến thức của bài học. Sau đây là một ví dụ: - Giáo viên chọn khoảng 5 học sinh trở lên, tùy theo thực tế học sinh và không gian lớp học, xếp các học sinh này thành một hàng ngang trên bục giảng theo hai nhóm, mỗi nhóm có số lượng học sinh không bằng nhau. 6
  7. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 7  - Hướng dẫn học sinh quan sát (khoảng 10 giây) và thi đua lên bảng điền dấu thích hợp vào giữa hai nhóm trên bảng bằng cách đứng quay mặt vào bảng rồi chống tay phải (trái) vào hông để biểu thị dấu > (
  8. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 8  Với cách làm như trên, học sinh vừa dễ dàng nhớ được đặc điểm của dấu > và dấu
  9. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 9  trình độ tiếp thu mức trung bình trở xuống có thể làm được các bài dạng này, tôi phải gợi ý các em tính từng phần của bài; nếu không nhớ được thì dùng bút chì ghi kết quả của mỗi phần, sau đó so sánh kết quả rồi điền dấu. Ví dụ1: 7…2 + 4. - Giáo viên nêu câu hỏi gợi ý: + Bài này có mấy phần? Gồm những phần nào? ( bài có hai ph ần, ph ần đứng trước dấu chấm và phần đứng sau dấu chấm). + Em có thể tính phần nào trước? (Tính 2 + 4 trước). 2 + 4 bằng mấy? ( 2 + 4 = 6). + Em dùng bút chì ghi số 6 phía trên (hoặc dưới) phép tính 2 + 4. + 7 như thế nào so với 6? (7 lớn hơn 6). + Em điền: 7 > 2 + 4. Ví dụ 2: 8 - 2…3 + 4. Tương tự ví dụ 1, giáo viên cũng nêu câu hỏi gợi ý để h ọc sinh nhận bi ết được bài toán này có hai phần. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh tính từng phần, ghi kết quả bằng bút chì phía trên (hoặc dưới) mỗi phần; so sánh hai kết quả rồi từ đó kết luận và điền dấu thích hợp (8 – 2 < 3 + 4). Ví dụ 3: Bài tập số 2; 3 sách giáo khoa Toán lớp 1 trang 143.  Bài 2: Khoanh tròn vào số lớn nhất: a) 72; 68; 80. b) 91; 87; 69. c) 97; 94; 92. d) 45; 40; 48.  Bài 3: Khoanh tròn vào số bé nhất: a) 38; 48; 18. b) 76; 78; 75. c) 60; 79; 61. d) 79; 60; 81. Các bài tập này rất khó đối với học sinh trung bình trở xu ống, do đó tôi ph ải hướng dẫn kỹ từng mục của mỗi bài. - Mục a, b: Hướng dẫn học sinh so sánh từng ch ục đ ể tìm đ ược s ố l ớn nh ất (bé nhất). - Mục c, d: Hướng dẫn học sinh so sánh các đơn vị để tìm số lớn nh ất (bé nhất). Cuối bài so sánh các số có hai chữ số, tôi tổ chức trò chơi đẻ củng cố như sau: - Tự làm các bông hoa có mang số ở nhụy hoa, ví dụ: 54; 61; 72; 24….Mặt sau bông hoa gắn các cục nam châm nhỏ hoặc keo dính 2 m ặt (n ếu l ớp h ọc không có bảng từ). - Tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi thành hai đội d ưới d ạng thi ti ếp sức, số lượng học sinh của mỗi đội tương ứng với số hoa mà giáo viên đã làm cho mỗi đội (tuy nhiên không nên tổ chức cho quá nhiều học sinh tham gia ở mỗi đội) 9
  10. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 10  - Giáo viên để các bông hoa của mỗi đội ở một vị trí phù h ợp và thuận l ợi (có thể để ở hai bàn đầu của học sinh, cũng có th ể đính không theo tr ật t ự trên hai phần bảng dành cho hai đội). - Giáo viên phát lệnh, học sinh hai đội lần lượt chọn số đính lên bảng theo thứ tự từ bé đến lớn hoặc ngược lại (tùy theo yêu cầu của giáo viên, theo m ục tiêu của từng bài học và thực tế học sinh ở mỗi lớp). Đội nào đi ền nhanh h ơn và đúng là thắng cuộc. 4. Dạy các bài dạng “ Tìm thành phần chưa biết của phép c ộng, phép trừ”: Ví dụ: …+3 = 7. … - 5 = 2. 5 + … = 8. 9 - … = 4. Đối với các lớp trên, dạng toán này có qui tắc cụ thể. Ơû lớp Một, các em tự nhẩm rồi điền vào chỗ chấm. Vì vậy, muốn làm đúng dạng toán này, các em ph ải thuộc kỹ các phép cộng, trừ trong phạm vi 10. Do đó, khi dạy phép cộng và trừ từ 2 đến 10, tôi chú ý rèn cho học sinh kỹ năng thuộc và nh ớ kỹ t ất c ả các phép tính. Đối với những học sinh yếu, kém, tôi sử dụng các hình thức dạy học trực quan, gợi mở, dạy học theo nhóm ở lớp, nhóm ở nhà và th ường xuyên ki ểm tra đ ể các em có thể thuộc và nhớ được các phép tính theo yêu cầu đã nêu. 5. Dạng điền số vào ô trống: Để tất cả học sinh có thể làm được và làm đúng dạng toán này, tôi phát huy tối đa ưu thế của phương pháp gợi mở, phân tích – tổng hợp. Cụ thể như sau: Ví dụ: 3 + 5 = 6 + … - GV hỏi: + Bài toán này có mấy phần? Đó là nh ững phần nào? ( Bài toán có hai phần, phần đứng trước dấu bằng và phần đứng sau dấu bằng). 10
  11. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 11  + Chúng ta có thể tính được phần nào trước? (Tính phần đứng trước dấu bằng). + Phần đứng trước dấu bằng được tính như thế nào? (3 + 5 = 8). + Phần đứng sau dấu bằng đã có 6, vậy chúng ta cộng thêm mấy nữa để bằng 8? (Cộng thêm 2). + Vậy 3 + 5 = 6 + mấy? ( 3 + 5 = 6 + 2). Trong các tiết Toán tự soạn sau đó, tôi sẽ đưa thêm một s ố bài tập t ự soạn ở dạng này vào bài để các em được luyện tập nhằm rèn luyện kỹ năng và củng cố, khắc sâu kiến thức. Các dạng toán tương tự như: 5 + … < 9; 7 >…>3; 30 < …< 70, tôi cũng s ử dụng các phương pháp dạy học như vừa nêu để h ướng dẫn học sinh phát hi ện kiến thức. 6. Dạy toán có lời văn: Khi học dạng toán này, rất nhiều học sinh gặp khó khăn trong việc đặt câu lời giải, thậm chí ngay cả một số học sinh khá cũng lúng túng trong vi ệc này. Các em thường đặt sai câu lời giải hoặc chép lại nguyên văn câu h ỏi trong bài toán. Đ ể tháo gỡ những khó khăn trên cho học sinh, tôi phải sử d ụng nh ững qui ước theo kiểu “luật bất thành văn”. Ngay từ những bài toán đầu tiên ở dạng này, tôi qui ước đối với học sinh những nội dung sau: - Việc đặt lời giải chính là việc trả lời câu hỏi của bài toán. - Khi trả lời, không lặp lại từ “hỏi”. - Khi trả lời, thay các từ “mấy?”, “ bao nhiêu?” trong các bài toán thành các từ “ số”. Đối với học sinh khá, giỏi, tôi không yêu cầu các em làm theo qui ước mà đ ể các em trả lời tự do theo ý hiểu của mình. Ví dụ: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà? - Lời giải là câu trả lời của câu hỏi “ Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?”. - Khi bỏ từ “hỏi” và thay từ “mấy” bằng từ số s ẽ được câu trả l ời: “Nhà An có tất cả số con gà”. Khi học sinh đã nắm được các qui ước trên, trong một s ố ti ết Toán đ ầu tiên học về dạng toán này, trước khi cho học sinh tiến hành giải bài toán, tôi tổ ch ức cho các em thảo luận theo nhóm 2 để hỏi và trả l ời v ới nhau theo n ội dung câu h ỏi của bài toán. Trong một số tiết Toán tự soạn sau đó, tôi đưa ra một số bài toán t ự biên soạn như đã nêu ở phần đầu với yêu cầu chủ yếu đối với học sinh là luy ện t ập k ỹ năng đặt câu lời giải. Với cách làm này, theo ghi nhận thực tế của tôi, 100% h ọc sinh đã đ ặt đ ược và đúng câu lời giải cho các bài giải toán có lời văn. 11
  12. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 12  IV- HIỆU QUẢ: Bắt đầu từ năm học 2004 - 2005, tôi hình thành đề tài nghiên cứu trên và áp dụng vào bước thử nghiệm dạng toán thứ nhất và dạng toán thứ t ư (m ục 1 và m ục 4 phần III của đề tài này). Năm học 2005-2006, tôi chính th ức vận d ụng đ ề tài vào giảng dạy. Những năm học tiếp theo, tôi tiếp tục nghiên cứu và phát triển đề tài. Kể từ đó tới nay, sau mỗi năm học tôi hoàn thiện dần đề tài của mình và nhận thấy hiệu quả rất khả quan. Cuối mỗi năm học, sau khi kiểm tra định kỳ học kỳ II, tôi đã th ống kê k ết quả chất lượng môn Toán ở lớp do mình phụ trách. Cụ thể như sau: TỈ LỆ ĐIỂM KTĐK MÔN TOÁN NĂM HỌC 9 - 10 7-8 5-6 3-4 1-2 2005 - 2006 43.7 23.0 21.8 5.1 6.3 2006 - 2007 58.6 24.1 10.3 3.5 3.5 2007 - 2008 91.7 14.2 4.2 0 0 2008- 2009 85.2 11.1 3.7 0 0 V - BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Sau quá trình 6 năm thai nghén và thực hiện đề tài nghiên cứu của mình v ề cải tiến nội dung và phương pháp dạy học môn Toán cùng với việc nghiên cứu, thực hiện những đề tài khác, tôi đã tự kiểm nghiệm và đúc rút ra được bài h ọc kinh nghiệm cho bản thân như sau: - Muốn một đề tài thành công, người nghiên cứu phải luôn tìm tòi, khám phá và có những bước đột phá trong quá trình giảng dạy. - Phải thực sự thương yêu học sinh, xem sự tiến bộ của h ọc sinh chính là s ự tiến bộ của bản thân mình. - Ngay từ đầu mỗi năm học, người giáo viên phải tìm hiểu để nắm bắt những kiến thức còn yếu của học sinh. Từ đó phân loại h ọc sinh theo t ừng đ ối tượng để có những điều chỉnh thích hợp về nội dung và ph ương pháp d ạy h ọc cho phù hợp vơi mỗi loại đối tượng. - Trong quá trình giảng dạy, phải biết em nào còn y ếu ở nội dung ki ến th ức nào, kịp thời có kế hoạch và tiến hành phụ đạo cho những học sinh này để trình độ kiến thức của học sinh không bị chênh lệch quá xa gây khó khăn cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. - Khi chấm bài, giáo viên nên thống kê những em còn sai sót ở từng d ạng kiến thức để soạn bài tập thích hợp cho các em luy ện t ập nh ằm c ủng c ố, kh ắc sâu kiến thức và rèn kỹ năng cho học sinh. 12
  13. SKKN . Naêm hoïc : 2009-210. Ñeà taøi: 13  - Luôn động viên, khen thưởng kịp thời những học sinh có tiến bộ, khuy ến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho những học sinh còn nhút nhát, chưa th ể hi ện sự tiến bộ. - Tạo không khí học tập vui tươi, thoải mái; áp dụng và khai thác t ối đa ưu thế của kiểu dạy học “ học mà chơi, chơi mà học” là điều kiện tiên quy ết đ ể tất cả học sinh đều được tham gia vào quá trình tìm tòi, phát hi ện ki ến th ức; đ ặc bi ệt là những học sinh yếu kém, vì những em này thường nhút nhát, thiếu tự tin. - Người giáo viên phải thường xuyên giữ liên lạc với cha mẹ học sinh d ưới nhiều hình thức để tạo sự tác động qua lại trong việc nâng cao ch ất l ượng h ọc t ập của từng học sinh. VI - KẾT THÚC VẤN ĐỀ: Với việc áp dụng những cải tiến về nội dung và phương pháp dạy h ọc trong môn Toán lớp Một như tôi đã trình bày ở trên, tôi thấy hiệu quả môn Toán đ ược nâng lên một cách rõ rệt. Tôi thiết nghĩ, nếu mỗi người giáo viên đều chuyên tâm nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo để tìm ra những cải tiến mới trong công tác d ạy – h ọc thì nền giáo dục nước ta hoàn toàn sớm có th ể trở thành một nền giáo dục hi ện đại, sánh kịp nền giáo dục của các nước trong khu vực và trtên thế giới. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong vi ệc c ải ti ến n ội dung và phương pháp dạy – học môn Toán ở lớp Một nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở môn học này mà tôi đã áp dụng trong nh ững năm h ọc qua ở các lớp do tôi phụ trách. Chắc chắn rằng trong đề tài này sẽ không thể không có những thiếu sót. Tôi kính mong lãnh đạo các cấp và các đồng chí đồng nghiệp đóng góp ý kiến bổ sung để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin thành thật cảm ơn những ý kiến đóng góp của các đồng chí! Bù Nho, ngày 04 tháng 01 năm 2010 Người viết Huỳnh Thị Ngọc Trâm 13
nguon tai.lieu . vn