Xem mẫu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY - HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH 1
  2. A/ PHẦN MỞ ĐẦU Môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại học môn GDCD vì coi đây là môn phụ, không phục vụ cho việc thi tốt nghiệp và Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên các em chỉ học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở thành thực trạng chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Thứ nhất: Nội dung, chương trình môn GDCD khô khan, nhiều kiến thức trừu tượng dẫn đến học sinh khó hiểu, khó tiếp thu vì vậy không gây được sự hứng thú đối với người học. Thứ hai: Tư tưởng “thi gì học ấy” đã len lỏi vào trong nhận thức của các em học sinh và gia đình, vì vậy các em chỉ tập trung đầu tư vào các môn thi Đại học. Các em xem nhẹ môn GDCD, đến lớp chỉ học qua loa, học một cách đối phó. Bên cạnh đấy bản thân một số giáo viên dạy môn GDCD còn xem nhẹ môn của mình, coi là môn phụ, không có hứng thú trong giảng dạy, ít đầu tư vào chuyên môn. Đến lớp chỉ truyền thụ những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, nặng về phương pháp dạy học truyền thống, ít đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến tiết học khô khan, học sinh dễ nhàm chán và ngại học. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với bộ môn GDCD ở trường THPT hiện nay.Vì vậy, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, để học sinh đóng vai trò trung tâm trong các tiết học đòi hỏi mỗi giáo viên dạy môn GDCD cần phải đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới công tác kiểm tra đánh giá. Xuất phát từ những yêu cầu trên, trong quá trình giảng dạy, tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm trong việc đổi mới kiểm tra đánh giá để mang lại hiệu 2
  3. quả trong dạy - học. Tôi xin mạnh dạn trình bày ở đây với hi vọng cung cấp cho các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy. B/ PHẦN NỘI DUNG I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ Trong những năm qua Bộ GD & ĐT thực hiện đổi mới nội dung chương trình, SGK ở bậc THPT. Quá trình thay SGK gắn liền với đổi mới về nội dung và phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Song quá trình đổi mới không đơn thuần về nội dung và phương pháp dạy học mà phải gắn liền với đổi mới về phương pháp kiểm tra đánh giá. Bởi vì kiểm tra, đánh giá có vai trò rất quan trọng, không thể thiếu trong công tác giảng dạy, nó là kết quả của một quá trình giáo dục. Qua kiểm tra đánh giá không chỉ biết được kết quả học tập của học sinh mà còn thể hiện rõ năng lực sư phạm và kết quả giảng dạy của giáo viên. Kiểm tra là phương tiện, là hình thức để đánh giá học sinh. Việc kiểm tra còn cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá. Ngoài ra, kiểm tra để công khai hoá năng lực và kết quả học tập của học sinh, giúp cho học sinh tự điều chỉnh hoạt động học, đồng thời giúp cho giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy của mình, nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong dạy – học. Đánh giá kết quả học tập của học sinh nhằm mục đích làm sáng tỏ mức độ đạt được của học sinh về kiến thức, kĩ năng và thái độ so với mục tiêu dạy học. Giúp cho học sinh nhận ra sự tiến bộ cũng như những tồn tại, từ đó khuyến khích, thúc đẩy việc học tập của các em. Trước đây việc kiểm tra đánh giá chất lượng môn GDCD chủ yếu thực hiện qua việc trả lời các câu hỏi tự luận. Nội dung các câu hỏi thường chỉ kiểm tra ở mức độ nhớ, thông hiểu ở học sinh chứ chưa chú ý đến khả năng vận dụng liên hệ thực tiễn, phân tích tổng hợp đánh giá. Vì vậy, dẫn đến tình trạng học sinh 3
  4. học, nhớ máy móc thụ động để đối phó với kiểm tra định kỳ và các kỳ thi. Mặt khác, việc kiểm tra truyền thống còn hạn chế ở việc giáo viên chấm bài đôi khi mang tính chủ quan, nhất là đối với môn học mang tính khái quát và trừu tượng hoá cao. II/ THỰC TRẠNG VỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN GDCD HIỆN NAY Ở TRƯỜNG THPT. 1. Ưu điểm và nhược điểm a. Ưu điểm: Trong quá trình dạy học ở các trường THPT trước đây chúng ta thường kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng hình thức tự luận là chủ yếu. Ưu điểm: + Đánh giá được trình độ tổng hợp và cách thức diễn đạt của học sinh. + Nội dung kiểm tra thường xoáy vào những kiến thức trọng tâm của bài. + Học sinh có thể phân tích, so sánh kiến thức, từ đó vận dụng kiến thức trong sách giáo khoa để giải thích hiện tượng thực tế. + Học sinh có thể trả lời theo ý mình, diễn đạt theo suy nghĩ của mình. Bên cạnh phương pháp truyền thống, chúng ta đã tiến hành kiểm tra đánh giá học sinh bằng hình thức trắc nghiệm khách quan. Ưu điểm của hình thức trắc nghiệm khách quan: + Có thể kiểm tra được một phạm vi kiến thức rộng của chương trình. + Mức tin cậy của bài trắc nghiệm khách quan cao hơn tự luận. + Khuyến khích học sinh tích luỹ được nhiều kiến thức. + Kết quả kiểm tra khách quan hơn, không phụ thuộc vào ý muôn chủ quan của người chấm. + Trắc nghiệm khách quan có thể đánh giá khả năng ghi nhớ các số liệu, sự kiện, các đặc trưng, ... khả năng phán đoán và suy luận của học sinh. + Khâu chấm bài, chữa bài diễn ra nhanh hơn. 4
  5. Bước đầu khâu kiểm tra đánh giá đã có tích cực như đã biết kết hợp kiểm tra giữa phương pháp truyền thống (tự luận) với trắc nghiệm khách quan. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra thường xuyên trên các tiết dạy và kiểm tra định kỳ theo phân phối chương trình và theo sự chỉ đạo của đơn vị. b. Nhược điểm Hiện nay ở trường THPT việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh chủ yếu vẫn bị giới hạn bởi một thời gian hạn chế trong tiết học, không gian hạn hẹp trong lớp học. Năng lực soạn thảo các câu hỏi kiểm tra còn hạn chế Đa số giáo viên chỉ chú trọng kiểm tra nội dung, chủ yếu là kiến thức một cách thuyết trình, nặng về tái hiện, trí nhớ, học thuộc mà chưa phát huy được tính tích cực ở học sinh. Giáo viên mới chú trọng phần hiểu mà ít chú ý tới khả năng vận dụng. Hình thức kiểm tra đánh giá còn đơn điệu chủ yếu được tiến hành theo từng cá nhân mà chưa kết hợp với kiểm tra hoạt động nhóm…, kiểm tra tự luận, hỏi miệng. Mức độ đánh giá trong nhà trường vẫn còn mang tính đồng nhất, cào bằng, tức đó làm cho học sinh có thói quen học đối phó, sử dụng tài liệu trong thi cử. Trách nhiệm trong công tác coi thi, chấm thi đôi lúc chưa cao. Giáo viên độc quyền đánh giá mà chưa có sự tham gia đánh giá lẫn nhau của các học sinh và tự đánh giá của bản thân học sinh đó. Khi chấm bài giáo viên cho điểm sàn sàn như nhau không phân loại được hoc sinh. Một thực tế cho thấy, khi giáo viên chấm bài chỉ cho điểm mà quên đi việc nhận xét ưu khuyết điểm bài làm của học sinh. Thời gian trả bài kiểm tra không có trong phân phối chương trình, vì vậy thời gian nhận xét ưu nhược điểm của học sinh trong bài làm còn hạn chế. 5
  6. Môn GDCD do ít tiết trên một lớp, vì vậy mỗi người phải dạy nhiều lớp. Do vậy việc ra đề đã gây khó khăn cho giáo viên. 2. Nguyên nhân Bộ môn GDCD phần lớn câu hỏi chỉ mang tính chất tái hiện kiến thức, yêu cầu học sinh học thuộc lòng nội dung bài học, do đó phần lớn học sinh học thuộc bài mà không hiểu bài, khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống hoặc vận dụng vào các bài tập tình huống còn rất yếu. Trình độ của một bộ phận giáo viên còn hạn chế, chưa chú trọng đầu tư chuyên môn. Hình thức kiểm tra đánh giá đang còn theo phương pháp cũ, chủ yếu là tự luận. Câu hỏi đặt ra đang còn theo lối mòn, nặng về học thuộc. Đòi hỏi học sinh ôm đồm kiến thức, nhồi nhét, ít phát triển tư duy sáng tạo của các em. Giáo viên đánh giá kết quả nặng về học thuộc lòng, nhớ sự kiện mà không chú ý đến rèn luyện tư duy, khả năng lập luận. Phần lớn học sinh coi môn GDCD là môn học “phụ” nên việc học còn mang tính đối phó là phổ biến, phần lớp các em chỉ học để đối phó với kiểm tra bài cũ, hoặc khi nào chuẩn bị kiểm tra một tiết học kiểm tra học kỳ thì mới học. Thời lượng dành cho môn GDCD mỗi tuần 1 tiết nên rất khó khăn cho việc đổi mới phương pháp kiểm tra, hơn nữa thời gian dành cho đánh giá, nhận xét không nhiều nên chưa có sự điều chỉnh chu đáo về kiến thức, kĩ năng cho học sinh. Kỹ năng làm đề kiểm tra phân tích, khả năng vận dụng còn hạn chế do trình độ nhận thức, kiến thức xã hội của học sinh còn yếu kém III/ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH HIỆN NAY. Từ thực trạng trên, để việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá đem lại hiệu quả chất lượng, góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD ở trường THPT tôi đã sử dụng một số giải pháp sau: 6
  7. 1. Đối với hình thức kiểm tra miệng: Tôi đã sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau để kiểm tra học sinh vào đầu bài dạy, giữa hoặc cuối bài dạy hoặc kiểm tra trong quá trình giảng dạy. Nội dung câu hỏi ngoài việc kiểm tra kiến thức đã học còn phải có sự liên hệ thực tế để rút ra bài học cho bản thân: Ví dụ1: Bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình (tiết 1- lớp 10) Câu hỏi: Ở độ tuổi nào là yêu quá sớm? Là học sinh cần phải làm gì để không yêu quá sớm?. Ví dụ 2: Bài 2: Hàng hoá - tiền tệ - thị trường.(tiết 2-lớp 11) Câu hỏi: Nguyên nhân dẫn đến lạm phát.Mỗi công dân cần phải làm gì để góp phần tăng tốc độ lưu thông của tiền tệ, khắc phục lạm phát? Ví dụ 3: BàI 10: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. (Tiết 1 - lớp 11) Câu hỏi: Theo em, học sinh đến trường phải thực hiện nội quy cả nhà trường có phải là mất dân chủ không? Vì sao? - Bên cạnh kiểm tra từng cá nhân học sinh, có thể kiểm tra một nhóm học sinh. Đối với hình thức kiểm tra này có thể thực hiện ở cuối bài dạy để củng cố tiết học. Ví dụ 1: bài 14: công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Tiết 2 - lớp 10) Câu hỏi: Thanh có giấy gọi nhập ngũ. Nếu là bạn, sẽ xử lý tình huống đó như thế nào? Ví dụ 2: Bài 12: Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường (Lớp 11) Tình huống: “Trên đường đi học về bạn Trang nhìn thấy bác Long vứt một con heo chết xuống sông. Nếu là bạn Trang em sẽ nói gì với Bác đó”? 2. Đối với hình thức kiểm tra viết (Kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết, kiểm tra học kỳ): 7
  8. - Phạm vi ra đề kiểm tra: bài kiểm tra 15 phút nên ra đề trong phạm vi bài học trước đó hay bài đang học. Bài kiểm tra 1 tiết nội dung ra đề kiểm tra theo phân phối chương trình. Bài kiểm tra học kỳ cần ra trong phạm vi kiến thức của học kỳ đó. - Số lượng, nội dung các câu hỏi, số điểm cụ thể ở mỗi câu giúp học sinh định lượng được nội dung và thời gian làm bài. a. Hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan: - Trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn: Đưa ra các phương án khác nhau có liên quan đến nội dung của bài học, từ đó học sinh lựa chọn phương án đúng nhất. Ví dụ 1: Hãy lựa chọn phương án đúng nhất sau đây: Để phân biệt một sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác, người ta căn cứ vào A. Lượng của sự vật, hiện tượng B. Chất của sự vật, hiện tượng C. Quy mô của sự vật, hiện tượng D. Thuộc tính của sự vật, hiện tượng - Trắc nghiệm khách quan dạng đúng, sai. Đưa ra nhiều phương án lựa chọn có liên quan đến nội dung bài học Ví dụ 2: Đúng Sai a.Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động b. Nhà nước mang bản chất của giai cấp thống trị. c. Nhà nước ta không phải là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này với giai cấp khác. - Trắc nghiệm khách quan dạng ghép đôi: Ví dụ: lựa chọn vế câu thứ 2 để ghép đúng với vế câu thứ nhất 8
  9. Vế câu thứ nhất Vế câu thứ hai 1. Sự ra đời của tiền tệ A. Tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng của hàng hoá 2.Giá cả của hàng hoá B.Là quá trình phát triển lâu dài của các hình thái giá trị 3. Thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua C. Dựa trên thời gian lao động xã hội bán mà ở đó các chủ thể kinh tế cần thiết Chọn: 1 tương ứng với......, 2 tương ứng với........, 3 tương ứng với........ - Trắc nghiệm khách quan dạng điền khuyết Yêu cầu học sinh điền những từ hoặc cụm từ còn thiếu để hoàn chỉnh một định nghĩa, một nội dung... Ví dụ: Thị trường là lĩnh vực...........mà ở đó các .............tác động qua lại lẫn nhau để xác định ........số lượng hàng hoá. Vì trắc nghiệm khách quan có những ưu, nhược điểm riêng, vì vậy tuỳ vào tính chất, đặc điểm, điều kiện dạy học để giáo viên xác định tỉ lệ giữa trắc nghiệm khách quan với tự luận (30% trắc nghiệm, 70% tự luận). b. Hình thức kiểm tra tự luận: - Đối với bài kiểm tra 15 phút nên ra một câu. Trong đó, yêu cầu phải kiểm tra được kiến thức, kỹ năng, thái độ của học sinh: Ví dụ 1: Đối với bài kiểm tra 15 phút học kỳ 2 lớp 10: Câu hỏi: Em hãy nhận xét về câu nói sau: “Hãy giữ lấy áo khi còn mới, hãy giữ thanh danh khi còn trẻ” Ví dụ 2: Đối với bài kiểm tra 15 phút học kỳ 1 lớp 11: Câu hỏi: Phân tích những mặt tích cực và tiêu cực của quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hoá. Là người sản xuất kinh doanh em vận dụng quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hoá như thế nào? 9
  10. - Đối với bài kiểm tra 1 tiết hay kiểm tra học kỳ, đề ra khoảng 2 câu và 1 bài tập tình huống, hoặc một sự kiện, hoặc một quan điểm, luận điểm...Ngoài chú trọng yêu cầu học sinh học thuộc bài còn chú trọng đến kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá, vận dụng liên hệ ...góp phần phát triển tư duy của học sinh. Ví dụ: Đề kiểm tra 1 tiết : Câu 1(2.0 điểm): Tại sao giá trị của hàng hoá là phạm trù lịch sử? Câu 2: Em có nhận xét gì về việc thực hiện yêu cầu của quy luật giá trị của 3 người sản xuất (1, 2, 3) trong biểu đồ sau đây? Là người sản xuất kinh doanh, muốn thu đươc nhiều lợi nhuận cần phải làm gì? Thời gian lao động xã hội cần thiết (của 1 hàng hóa A) (1) (2) (3) Câu 3 (4.0 điểm): Bài tập tình huống Gia đình bạn An có số vốn là 50 triệu đồng tiền mặt. Mẹ bạn An muốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Người Bố thì cho rằng nên cất trữ số tiền đó để phòng khi gặp khó khăn. Còn An thì cho rằng nên gởi vào ngân hàng để hưởng lợi. Theo em,quan điểm của ai đúng? Vì sao? Đáp án và biểu điểm chấm Câu ý Nội dung Điểm 1 Giá trị của hàng hoá là phạm trù lịch sử: Vì: 1.0 10
  11. - Giá trị của hàng hoá là lao động của người sản xuất hàng 1 hoá kết tinh trong hàng hoá. 2 - Chỉ trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hoá, sản phẩm 1.0 sản xuất ra phải đem ra trao đổi mua bán thì mới tính đến giá trị của nó. 1.0 Nhận xét: - Người thứ nhất: Thời gian lao động cá biệt(TGLĐCB) = Thời gian lao động xã hội cần thiết(TGLĐXHCT), thực hiện đúng yêu cầu của quy luật giá trị nên thu được lợi 2 1 nhuận trung bình - Người thứ hai: TGLĐCB < TGLĐXHCT, thực hiện tốt 1.0 yêu cầu của quy luật giá trị, nên thu được lợi nhuận nhiều hơn mức trung bình -- Người thứ ba: TGLĐCB > TGLĐXHCT, vi phạm yêu 1.0 cầu của quy luật giá trị, bị thua lỗ. Là người sản xuất kinh doanh, muốn thu được nhiều lợi 1.0 2 nhuận phải làm sao cho TGLĐCB thấp hơn ít nhất là bằng với TGLĐXHCT 3 1 Quan điểm của mẹ An và An là đúng 1.0 Giải thích: 1.0 +Tiền giấy không có giá trị thực, vì vậy nếu đưa vào cất trữ 2 sẽ không sinh lợi và mất giá trị. + Cần tích cực vào đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc gởi tiền 2.0 vào ngân hàng là góp phần làm tăng mức lưu thông tiền tệ, hạn chế lạm phát, vừa ích nước, vừa lợi nhà. 11
  12. Tổng 10.0 - Khi ra đề kiểm tra viết, giáo viên có thể ra các dạng đề mở. Học sinh có thể tự nói lên suy nghĩ của mình mà không phụ thuộc vào sách giáo khoa. Ví dụ 1: Em có suy nghĩ gì về truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam. Ví dụ 2: Nhận xét của bản thân về lối sống của giới trẻ hiện nay. * Đối với các tiêt thực hành ngoại khoá: Giáo viên có thể cho học sinh làm các đề tài ngoại khoá. Có thể giao đề tài cho từng nhóm, từng lớp trước khi có tiết thực hành. Ví dụ: khi thực hành về các chính sách xã hội, phần GDCD 11 Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, giao đề tài cho từng nhóm về nhà chuẩn bị nội dung, tiết học tiếp theo sẽ báo cao. Nhóm 1: Chuẩn bị và trình bày một tình huống nói về thực hiện chính sách dân số. Nhóm 2: Chuẩn bị và trình một đề tài nói về bảo vệ tài nguyên Nhóm 3: Chuẩn bị và trình bày một đề tài nói về bảo vệ môi trường Nhóm 4: Tình huống “ Thanh có giấy gọi nhập ngũ. Nếu là Thanh, em sẽ làm gì” Yêu cầu nhóm đóng vai. 3. Một số lưu ý khi ra đề kiểm tra: Đề ra phải phù hợp với từng đối tượng học sinh, phân loại được học sinh, đề không quá dễ, không quá khó, không đánh đố học sinh để đảm bảo học sinh có học lực trung bình cũng có thể làm được ở mức trung bình và đạt điểm trung bình. Bám sát mục tiêu chung của giáo dục, mục tiêu chung của môn học được thể hiện bằng chuẩn kiến thức và kĩ năng của các đơn vị kiến thức. Để đảm bảo tính chính xác, khách quan, giáo viên nên thông báo trước kế hoạch kiểm tra để học sinh chuẩn bị. 12
  13. 4. Hình thức xây dựng đáp án và chấm điểm - Đáp án phải chi tiết, rõ ràng . Giáo viên cần tôn trọng cách diễn đạt của học sinh - Công khai đáp án cho học sinh biết để các em tự đánh giá và biết được kết quả làm bài của mình. - Thang điểm phải chi tiết, mỗi ý phải rõ ràng, đảm bảo tình khoa học 5. Kết quả thực nghiệm. - Trong quá trình giảng dạy tôi đã tiến hành thực nghiệm ở 11H và đối chứng ở lớp 11I. Kết quả như sau: Lớp Sĩ số Điểm 0 - > 3.5 3.5- > 5 5- > 6.5 6.5 - > 8 8.0 ->10 SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 11H 45 hs 2 4,4% 3 6,6 % 10 22% 25 55% 5 11% 11I 45 hs 0 0 0 0 21 46,2% 23 50,6% 1 2,2% Ở lớp 11H số điểm đã thể hiện được sự phân hoá trình độ học sinh, cụ thể số điểm được rải đều từ 4 đến 9 điểm. Trong khi đấy nếu thực hiện kiểm tra theo phương pháp truyền thống thì số điểm tập trung chủ yếu ở điểm 5, 6 và 7. số điểm giỏi trở lên không đáng kể. 6. Kiến nghị, đề xuất. - Học sinh: Có thái độ đúng đắn khi học bộ môn GDCD. - Giáo viên: Tăng cường đầu tư soạn giảng, đổi mới phương pháp trong dạy học và kiểm tra đánh giá... - Nhà trường: tạo điều kiện về thời gian và kinh phí để mua sắm tư liệu bộ môn, tổ chức hoạt động ngoại khoá. 13
  14. C/ PHẦN KẾT LUẬN Xuất phát từ vai trò, vị trí của môn GDCD trong việc hình thành nhân cách con người....Thế nhưng cho đến nay nôm GDCD vẫn còn bị coi nhẹ, nhiều nơi thậm chí không có giáo viên được đào tạo đúng chuyên môn. Từ thực tế đó cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy, trong đó có phương pháp đổi mới cách kiểm tra đánh giá để nâng cao hiệu quả dạy - học môn GDCD, kích thích sự say mê học tập của học sinh. Làm được việc này đòi hỏi người giáo viên cần phải tốn nhiều công sức, thời gian để suy nghĩ và thực hiện sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, nhằm giúp các em làm việc tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học môn GDCD, góp phần đưa đến thành công trong đổi mới chương trình giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy noi riêng. Xuất phát từ thực tiễn, trong khuôn khổ của SKKN tôi xin mạnh dạn nêu ra một số biện pháp của bản thân đã thực hiện khi giảng dạy môn GDCD ở trường THPT Ba Đình. Do hạn chế về thời gian, năng lực bản thân và điều kiện thực hiện nên bản SKKN khó tránh khỏi những hạn chế, rất mong được sự đóng góp ý kiến xây dựng của các bạn đồng nghiệp để bản SKKN được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! 14
nguon tai.lieu . vn