Xem mẫu

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG TRỊ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỒN TIÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO DỤC NĂNG LỰC THẨM MỸ QUA MÔN NGỮ VĂN CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỒN TIÊN, TỈNH QUẢNG TRỊ Người thực hiện: Trần Thị Lý Đơn vị công tác: Trường THPT Cồn Tiên
  2. BƯỚC HOẠT ĐỘNG 1.Hiện trạng Vấn đề giáo dục đạo đức trong trường THPT qua môn Giáo dục công dân cần được bổ sung thêm con đường, giải pháp khác nữa để giúp cho việc hoàn thiện nhân cách. 2. Giải pháp thay thế Giáo dục cho học sinh năng lực thẩm mỹ từ bộ môn Ngữ Văn để cho học sinh biết/ hiểu về cái thẩm mỹ, từ đó yêu thích và làm theo cái đẹp, cái thiện, từ bỏ cái xấu, cái ác. 3. Vấn đề nghiên cứu Giáo dục năng lực thẩm mỹ qua bộ môn Ngữ Văn cho học sinh Giả thuyết nghiên cứu trường THPT Cồn Tiên, tỉnh Quảng Trị. 4. Thiết kế Sáng kiến có 3 phần: 1) Tổng quan về huyện Gio Linh và trường THPT Cồn Tiên. 2) Điều tra thực trạng năng lực thẩm mỹ của học sinh trường Cồn Tiên. 3) Đề xuất giải pháp giáo dục năng lực thẩm mỹ qua bộ môn Ngữ Văn. 5. Đo lường Thiết kế 3 mẫu phiếu điều tra gồm 84 tiêu chí (đính kèm), tổ chức phỏng vấn qua phiếu cho 530/ 648 (87,2 %) học sinh của trường THPT Cồn Tiên 6. Phân tích dữ liệu Phân tích số liệu từ kết quả điều tra, rút ra nhận xét, tổng hợp. 7. Kết quả Trình bày trên 25 trang viết + 530 Phiếu phỏng vấn (kèm theo toàn văn trình bày sáng kiến sau đây) TÓM TẮT Giáo dục, về nguyên tắc cần phải hiểu là sự giáo dục một cáh toàn diện cho người học, nhất là đối tượng người học ở bậc phổ thông, trong đó giáo dục để có một nhân cách đẹp là mục tiêu hướng đến của nền giáo dục chân chính. Về giáo dục nhân cách cho người học, hầu như lâu nay thường “khoán trắng” cho các môn chuyên ngành: ở trường phổ thông là môn Giáo dục công dân, ở trường đại học là môn Đạo đức học, trong khi sự hoàn thiện nhân cách lại là kết quả tổng hợp của sự giáo dục từ nhiều bộ môn, từ lý thuyết đến thực tiễn, từ nhà trường đến gia đình và xã hội. Nhận thấy điều đó, sáng kiến kinh nghiệm này của chúng tôi nhằm trình bày thêm một phương diện giáo dục nhân cách hữu hiệu (giáo dục thẩm mỹ) và bằng con đường chúng tôi đang trực tiếp đảm nhiệm (bộ
  3. môn Ngữ Văn) tại môi trường quen thuộc (trường THPT Cồn Tiên, Quảng Trị). Sáng kiến kinh nghiệm gồm có 3 phần: 1. Tổng quan tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục của huyện Gio Linh và của trường THPT Cồn Tiên. 2. Điều tra thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của học sinh THPT Cồn Tiên. 3. Đề xuất giải pháp giáo dục năng lực thẩm mỹ từ bộ môn Ngữ Văn. Phương pháp tiến hành chủ chốt của sáng kiến kinh nghiệm này là từ thực tiễn công tác điều tra, rút ra kết luận, từ đó đề xuất giải pháp. MỞ ĐẦU 1. Mục tiêu giáo dục, đào tạo của bất cứ thời đại nào, thuộc bất cứ dân tộc nào đều nhắm tới mục tiêu xây dựng con người có nhân cách và tri thức phù hợp yêu cầu của dân tộc và thời đai. Trong mối quan hệ giữa dạy chữ và dạy người thì dạy người bao giờ cũng phải là mục tiêu đầu tiên và tối thượng. Chúng ta đã đưa vào chương trình Tiểu học môn Đạo đức, chương trình Trung học cơ sở, Trung học phổ thông môn Giáo dục công dân, nhưng thực tiễn giáo dục cho thấy không thể “khoán gọn” việc giáo dục đạo đức cho học sinh cho hai môn này. Rất nhiều nơi xem bộ môn này chỉ mang tính chất “dạy cho có”! 2. Một nghịch lý là xã hội càng văn minh, càng phát triển thì sự tha hóa của một bộ phận dân cư (trong đó có học sinh các cấp), biểu hiện ở: lối sống vô cảm, vô trách nhiệm, chạy theo những “giá trị ảo”, ứng xử thiếu văn hóa và phản cảm, sống sa đọa, tệ tham nhũng, lãng phí, văn hóa “chạy” tràn lan, tội phạm ngày càng “trẻ hóa”, bạo lự học đường ngày càng gia tăng, v.v…Tất cả đó đã đến hồi báo động, nếu không kịp thời kìm hãm thì nguy cơ sai lệch nhân cách, thoái hóa đạo đức là không tránh khỏi.
  4. 3. Nếu chỉ có dạy Đạo đức hoặc Giáo dục công dân như hiện nay thì, theo chúng tôi, không thể mang lại hiệu quả toàn diện. Bởi trước tiên học sinh nghe đến từ “dạy” đã lập tức nảy sinh tâm lý dị ứng, đặc trưng bộ môn lại có vẻ khô khan (đạo đức là cái quy chuẩn, bắt buộc phải theo, là “trách nhiệm”, là “luật”), thiếu tính linh hoạt, phong phú…nên học sinh lại càng thiếu hứng thú mà người dạy cũng cảm thấy chán! Cần phải tìm ra giải pháp nữa để tạo cho học sinh một nhân cách hài hòa, lành mạnh mà các em đến với nó lại hào hứng, tự nguyện. 4. Các tri thức, năng lực thẩm mỹ (tiêu biểu là cái đẹp, cái thiện, cái hay) có một thuận lợi vì nó chính là mơ ước khát vọng từ trong bản năng của con người. Không có bất kỳ một ai lại từ chối cái đẹp, cái hay, cái thiện. Vấn đề là hiểu nó thế nào cho đúng để hành xử cho hợp lý. Có rất nhiều con đường để cung cấp năng lực thẩm mỹ cho học sinh cả về lý thuyết lẫn thực hành mà Ngữ Văn là một môn rất có lợi thế, bởi nó có từ chương trình tiểu học đến đại học, bản chất của nó là chỉ có cái đẹp. Đây cũng là bộ môn tôi yêu mến và lựa chọn nó làm nghề để theo đuổi suốt cuộc đời mình. Đó là những lý do khiến tôi chọn vấn đề này để làm sáng kiến kinh nghiệm. 2. Để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã lựa chọn các phương pháp thích hợp: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp so sánh, đối chiếu Trong 3 phương pháp, tôi chọ phương pháp thống kê, phân loại làm phương pháp chính để nghiên cứu. 4. KẾT QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Phần này sẽ có 3 mục lớn: 1. Tổng quan về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục của huyện Gio Linh và trường THPT Cồn Tiên.
  5. 2. Thực trạng năng lực thẩm mỹ và việc giảng dạy cái đẹp qua bộ môn Ngữ Văn ở trường THPT Cồn Tiên. 3. Một số kiến nghị về giải pháp giáo dục năng lực thẩm mỹ qua bộ môn Ngữ Văn ở trường THPT Cồn Tiên. I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, XÃ HỘI, GIÁO DỤC CỦA HUYỆN GIO LINH VÀ TRƯỜNG THPT CỒN TIÊN ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ, DÂN CƯ HUYỆN GIO LINH 1. Điều kiện địa lý, cư dân của huyện: 1.1 Diện tích, đất đai: Gio Linh là một trong 10 đơn vị hành chính của tỉnh Quảng trị, được thành lập trở lại vào năm 1990. Là một huyện có địa hình bán sơn địa, thấp dần từ Tây sang Đông, phía Tây là đồi núi, ở giữa là đồng bằng và phía Đông là bãi cát và biển; địa hình chia cắt bởi các hệ thống sông, suối, ao hồ nên có thể chia thành 4 tiểu vùng chính: Vùng núi có diện tích 20.539,61ha (chiếm 43,54%), vùng đồi có diện tích 11.180,74 ha (chiếm 23,64%), vùng đồng bằng có diện tích tự nhiên 12.631,010 ha (chiếm 26,7 %), Vùng biển diện tích 2.892,8ha (chiếm 6,12%)(1). 1.2 Xã và dân cư: Huyện gồm 19 xã, 2 thị trấn. Tính đến cuối năm 2010, dân số huyện Gio Linh là 72.921 người, trong đó nữ 37.214 người, nam 35.707 người, dân số phân bố không đều chủ yếu là tập trung ở các trung tâm huyện lỵ. Dân số trong độ tuổi lao động là 42.497 người chiếm 58,27% dân số. 1.3. Thuận lợi và khó khăn: Trên địa bàn huyện có tuyến đường sắt; đường Quốc lộ 1A chạy qua; đường Hồ Chí Minh...Tuyến đường xuyên Á thông qua biển Đông là một nút quan trọng trong mối liên kết kinh tế hành lang Đông Tây và chạy qua
  6. cửa khẩu Lao Bảo nối với đất bạn Lào. Gio Linh còn có vùng phụ cận đó là trung tâm thị xã Đông Hà. Với vị trí và lợi thế đó cho phép Gio Linh có thể giao lưu phát triển kinh tế - xã hội với tất cả các vùng khác trong cả nước. Hội tụ với nhiều yếu tố tự nhiên cùng với các giá trị nhân văn: truyền thống anh dũng, kiên cường trong chiến đấu; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, cùng với sự đoàn kết một lòng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân,…Điểm nổi bật ở Gio Linh là việc đã hình thành khu Công nghiệp Quán Ngang (đã có 03 dự án đầu tư), khu dịch vụ du lịch Cửa Việt (đã có trên 10 tổ chức trong nước xin đầu tư với giá trị trên 10 ngàn tỷ đồng), đang quy hoạch đầu tư sân bay Quảng Trị tại Quán Ngang... Bên cạnh đó các loại hình dịch vụ đang được chú trọng như du lịch lịch sử cách mạng gắn với các cụm di tích lịch sử nổi tiếng: đôi bờ Hiền Lương, Cồn Tiên - Dốc Miếu, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn…, dịch vụ du lịch biển với bờ biển, bãi tắm đẹp như biển Cửa Việt, Gio Hải…, du lịch sinh thái ngày càng được đặc biệt quan tâm chú trọng,… Gio Linh là một vùng quê ẩn chứa trong lòng mình biết bao giá trị văn hóa, lịch sử mà không phải ở đâu cũng có được: từ hệ thống giếng cổ Gio An đến chùa Bảo Đông xây dựng từ trước thế kỷ thứ X và Lăng mộ Trần Đình Ân thôn Hà Trung, Gio Châu - di tích văn hóa cấp quốc gia được phụng thờ trang nghiêm, tôn kính. Di tích đình làng Hà Thượng nơi thành lập chi bộ đầu tiên được tôn tạo, nâng cấp. Từ điệu hò khoan nhặt bên dòng sông Hiền Lương đến âm thanh rộn rã của tiếng cồng, chiêng vang lên từ lễ hội đâm trâu của đồng bào dân tộc Vân Kiều ở 2 xã Linh Thượng, Vĩnh Trường; từ nét đẹp mạnh mẽ, khéo léo của Hội đua thuyền Gio Mai đến niềm vui náo nức của Hội cù Gio Mỹ, sự uyển chuyển, nhịp nhàng của Hội đu Lan Đình, Gio Phong,…tất cả tạo nên một nét văn hóa đa sắc, đa thanh, rất riêng của miền quê Gio Linh, có sức lôi cuốn, níu giữ bước chân du khách. Nhân dân Gio Linh vốn mang nặng tình yêu và lòng quí trọng những giá trị văn hóa được tạo dựng bằng tài năng và công sức của tiền nhân. Vì
  7. vậy, không chỉ nỗ lực bảo tồn “lớp vỏ vật chất” của các di tích lịch sử, người dân Gio Linh còn ra sức bảo vệ cả cái “hồn” của văn hóa Gio Linh với những phong tục, tập quán, cũng như những lễ hội văn hóa dân gian. Cùng với đó, người dân Gio Linh hôm nay đang nỗ lực xây dựng một đời sống văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh những thuận lợi nói trên thì huyện cũng gặp những khó khăn nhất định: địa hình của huyện khá hiểm trở gây khó khăn cho việc giao thông và phát triển kinh tế; dân số của huyện có sự chêch lệch giữa nam và nữ và số người phụ thuộc còn cao nên gặp rất nhiều khó khăn trong tìm việc làm và phát triển kinh tế cho đồng đều. 2. Điều kiện văn hóa, xã hội, giáo dục: 2.1 Cơ cấu bộ máy huyện, xã: Ngày nay, huyện Gio Linh gồm 19 xã và 02 thị trấn: Gio Linh, Cửa Việt. Huyện có một ủy ban nhân dân huyện và 21 ủy ban nhân dân xã, thị trấn. 2.2. Điều kiện giáo dục: Toàn huyện có 22 trường mầm non, 21 trường tiểu học và 21 trường trung học cơ sở phân bố đồng đều trên các xã, thị trấn. Gio Linh có 2 trường THPT (trường THPT Gio Linh và THPT Cồn Tiên), 1 trường THPT bán công Nguyễn Du và 1 TT giáo dục thường xuyên huyện Gio Linh. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TRƯỜNG THPT CỒN TIÊN 1.Năm thành lập: Trường THPT Cồn Tiên là sự tiếp nối của Trường PTTH-VHVL (vừa học vừa làm) Cồn Tiên, được thành lập theo QĐ 304/QĐ-UB ngày 19/3/1979 của UBND tỉnh Bình Trị Thiên đến nay đã trải qua 30 năm xây dựng và trưởng thành. Việc thành lập Trường PTTH-VHVL Cồn Tiên đặt tại Nông trường Cồn Tiên chính là để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho
  8. vùng kinh tế miền Tây Gio Linh. Ngày đầu thành lập, trường được tuyển 5 lớp 10 với 250 học sinh. Đội ngũ CB-GV ban đầu có 16 thầy cô giáo. Những năm 1987-1989, điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, quy mô nhà trường bị giảm sút có nguy cơ giải thể, trường chỉ còn 3 lớp/ 3 khối, tổng số gần 100 em, thậm chí lớp 12 chỉ còn 17 em. Thế nhưng trường vẫn có 2 học sinh đạt giải cao trong kỳ thi học sinh giỏi Bình Trị Thiên, đó là các em Trương Châu, Nguyễn Sáu. Ngày 24/8/1990 UBND tỉnh Quảng Trị ra quyết định số 934/QĐ-UB cho sáp nhập Trường PTCS Cồn Tiên vào Trường PTTH-VHVL Cồn Tiên thành Trường phổ thông cấp 2, 3 Cồn Tiên. Mô hình trường cấp 2, 3 duy trì đến năm 1997, lúc này tổng số CBGV-CNV có 31 người, quy mô 13 lớp, trong đó cấp 3 có 3 lớp. Tháng 5/1996, UBND tỉnh Quảng Trị ra Quyết định số 51/QĐ-UB đổi tên trường thành PTTH Cồn Tiên. Do yêu cầu học tập ngày càng tăng, Sở GD-ĐT Quảng Trị ra Quyết định số 90 chủ trương tách trường thành 2 đơn vị là PTCS Cồn Tiên và THPT Cồn Tiên kể từ năm 1996-1997. 2. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí và học sinh của trường: - Tổng số cán bộ giáo viên, nhân viên hiện nay: 51 (Nữ 17, nam 34), trong đó: Giáo viên 44 (tỷ lệ đạt chuẩn 98,9%, có 3 thạc sĩ, 2 đang học cao học, 47% đạt giáo viên giỏi cấp trường, 2,2% cấp ngành), nhân viên 04, CBQL 03. Tổ chức bộ máy của trường: Chi bộ có: 22 đảng viên; BGH :03; Chi đoàn giáo viên: 28; Tổ chuyên môn: 10; Tổ hành chính: 01 - Tổng số học sinh toàn trường: 648, được biên chế thành 18 lớp. Gồm: Khối 12: 210 (nữ 121); Khối 11: 194 (nữ 107); Khối 10: 244 (nữ 98) - Đối tượng chính sách: Con thương binh, bệnh binh: 09; Con mồ côi
  9. cả cha lẫn mẹ: 01; Con dân tộc 08; Hộ nghèo: 39 3. Cơ sở vật chất trường học: Trường đã có 2 dãy nhà kiên cố 17 phòng học, 1 nhà hiệu bộ, 2 phòng máy tính, 3 phòng công nghệ Lý- Hóa- Sinh, 1 phòng thư viện, 1 phòng thiết bị thể dục, 1 phòng thiết bị QPAN. Nhà trường đã đầu tư thêm nhiều trang thiết bị, đồ dùng dạy học. 4. Truyền thống của trường: Đến nay, trường đã đào tạo được khoảng 5.000 học sinh vừa có tri thức văn hóa, vừa có kỹ năng lao động, vừa có sức khỏe. Các em ra trường hòa nhập nhanh với cuộc sống. Đó là cái được lớn nhất. Mặc dầu chất lượng đầu vào văn hóa thấp so với các trường thị xã, đồng bằng nhưng với sự nhiệt tình, tận tâm và sự chịu khó của thầy và trò, hàng năm khối 12 đỗ tốt nghiệp trên 90%, năm 1995-1996, 2 năm liền đỗ 100%. Hàng năm đội tuyển học sinh giỏi khối 12 thi học sinh giỏi tỉnh nhiều em đạt giải cao. Tỷ lệ đỗ đại học có năm đạt 26%. Nhiều em đạt học sinh giỏi toàn diện tuyển thẳng vào đại học và được đào tạo ở nước ngoài. Trường cũng có nhiều học sinh hăng hái lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc, có em đã anh dũng hy sinh như liệt sĩ Mai Gia Vĩnh, học sinh khóa I , nhiều học sinh khác trở thành thương binh... Các thế hệ học sinh nối tiếp đã xây dựng công trình tuổi trẻ trường học mang tên "Đồi cây Mai Gia Vĩnh" đã và đang xanh tươi nhắc nhở thế hệ hôm nay đạo lý "Uống nước nhớ nguồn". Trong những năm 1979-1980, Trường cùng với Nông trường quốc doanh Cồn Tiên đảm nhận mũi nhọn trồng cây vành đai, trồng rừng, đã trồng được hơn 1 triệu cây, được Bộ Lâm nghiệp tặng danh hiệu "Trường
  10. triệu cây". Những năm tiếp theo, trường tham gia trồng và chăm sóc 150 ha cà phê của nông trường. Công đoàn trường trồng được 2 ha cao su, năm 1984 trồng và chăm sóc 10 ha cao su cho Nông trường Cồn Tiên và đã bàn giao cho Công ty cao su Quảng Trị. Trường THPT Cồn Tiên trở thành điểm sáng, là điển hình tiêu biểu cho hoạt động trồng cây ở trường học trong cả nước. Do đó, Trường được Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT giao trách nhiệm chăm sóc và trồng cây cảnh ở tượng đài ngành Giáo dục tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Các hoạt động văn nghệ, TDTT là thế mạnh của học sinh Trường THPT Cồn Tiên so với các trường trong tỉnh. Nhiều năm liên tục đạt giải nhất, nhì toàn đoàn và cá nhân trong các giải TDTT, Hội khỏe Phù Đổng do huyện, tỉnh tổ chức. Ba mươi năm qua, trường đã được Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền, các ban ngành trao tặng nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quý: bằng khen của Bộ GD-ĐT, 2 bằng khen của Bộ Lâm nghiệp, bằng khen của UBND tỉnh Bình Trị Thiên, UBND tỉnh Quảng Trị, Sở GD-ĐT , bằng khen của Tỉnh ủy Quảng Trị tặng bằng khen cho chi bộ đạt trong sạch vững mạnh từ năm 1996-2000 và nhiều giấy khen khác. Đoàn trường được Trung ương Đoàn tặng 5 bằng khen về thành tích hoạt động Đoàn. Công đoàn trường nhiều năm được tặng bằng khen và giấy khen của LĐLĐ tỉnh, Công đoàn giáo dục tỉnh.
  11. II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC THẨM MỸ VÀ VIỆC GIÁO DỤC NĂNG LỰC THẨM MỸ QUA MÔN NGỮ VĂN CHO HỌC SINH TRƯƠNG THPT CỒN TIÊN II.1. Một cái nhìn vắn tắt về khái niệm năng lực thẩm mỹ Cái thẩm mỹ gồm có các phạm trù vừa thống nhất vừa đối lập như: cái đẹp-cái xấu, cái bi-cái hài, cái cao cả-cái thấp hèn,…trong đó cái đẹp là phạm trù trung tâm (bởi nó có mặt ở cả 3 thế giới: tự nhiên, xã hội con người, nghệ thuật; và bởi nó là một giá trị chuẩn dùng để đánh giá các gía trị khác). Vì thế khi nói đến mỹ học, nhiều khi người ta đánh đồng cái thẩm mỹ là cái đẹp. Năng lực thẩm mỹ hiểu một cách ngắn gọn là khả năng tiếp nhận (hiểu/ thích hoặc không hiểu/ không thích) một giá trị thẩm mỹ nào đó và khả năng thực hành (bộc lộ bằng thái độ, hành vi) các giá trị thẩm mỹ ấy trong cuộc sống. Về phương diện tiếp nhận thẩm mỹ chủ chủ thể (xét phạm vi hẹp ở đây là học sinh trường THPT Cồn Tiên) chủ yếu được thể hiện trên 3 bình diện: - Tình cảm thẩm mỹ: Sự phản ứng về mặt tình cảm của chủ thể thẩm mỹ trước đối tượng thẩm mỹ. Qua hành vi phản ứng, bộc lộ năng lực tình cảm của chủ thể. Chẳng hạn, cùng đi qua đám tang (cái bi, một đối tượng thẩm mỹ), nếu có 3 chủ thể/ nhóm chủ thể, tùy theo năng lực thẩm mỹ của chủ thể sẽ có 3 phản ứng khác nhau: chủ thể đi qua một cách bình thường, dửng dưng như đi qua bất kỳ hiện tượng nào (vì không có mối quan hệ -> vô cảm); chủ thể xuất hiện một hành vi: cất nón, cúi đầu (dù không có quan hệ - > nhạy cảm); chủ thể vô tư cười đùa, xô đẩy nhau (không đếm xỉa đến nỗi buồn của tang chủ -> phản cảm). Xem một bộ phim, một vở kịch,…cũng diễn ra tình trạng tương tự. Tuy nhiên, tình cảm thẩm mỹ chỉ thống nhất chứ không đồng nhất với tình cảm đạo đức vì đạo đức là nguyên tắc hành xử mang tính bắt buộc, quy
  12. phạm trong khi tình cảm thẩm mỹ mang tính khoái cảm, bột phát tức thời, vô tư. - Thị hiếu thẩm mỹ: là sở thích về mặt thẩm mỹ, là sự hài lòng và hứng thú của chủ thể khi tiếp xúc với đối tượng thẩm mỹ (tức là tình cảm thẩm mỹ đã đi vào chiều sâu, mang tính ổn định, có sự hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng). Do đó, nói đến thị hiếu thẩm mỹ là nói đến một hiện tượng xã hội – lịch sử được biểu hiện thông qua thị hiếu cá nhân. Chẳng hạn, nhìn một sở thích (lối sống, trang phục, thái độ với thần tượng,…) của một cá nhân nào đó, ta sẽ hiểu được cá nhân ấy được hưởng thụ một nền giáo dục nào, nền văn hóa nào, hoặc đang sống trong môi trường nào. Vì thế, thị hiếu thẩm mỹ được biểu hiện thông qua một hiện tượng mang tính bề nổi của nó là “mốt” (mode, model). Sáng kiến kinh nghiệm của chúng tôi tập trung đi sâu vào vấn đề thị hiếu thẩm mỹ này bởi thực tiễn cho thấy, việc giáo dục thẩm mỹ thông qua giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là việc làm năng động nhất, hiệu quả nhất. Trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cần chú ý đến các điểm như: + Mối quan hệ giữa tình cảm và lý trí: có thể có trường hợp một ai đó về mặt tình cảm không phải là xấu nhưng họ thiếu đi sự dẫn đường của lý trí nên gặp phải sự bế tắc về mặt tình cảm (sống buông thả, chạy theo mốt lố lăng, kệch cỡm mà cứ nghĩ là đẹp…). Cần phải giúp họ về mặt lý trí để họ tỉnh táo hơn. + Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội: với thị hiếu thẩm mỹ của một cá nhân cụ thể thì yếu tố xã hội chủ yếu nằm ở mặt nội dung còn yếu tố cá nhân nằm ở mặt hình thức, hai yếu tố này gắn chặt với nhau. + Tính quy luật của thị hiếu thẩm mỹ: muốn làm nảy nở hay triệt tiêu một thị hiếu thẩm mỹ thì điều cốt lõi, gốc rễ của nó là phải cải tạo xã hội và lối sống. Thị hiếu thẩm mỹ cũng có quy luật “lây lan”, vì thế trong giáo dục phải vận động được sự “lây lan” lành mạnh để lấn át “lây lan” tiêu cực chứ không phải đơn thuần chỉ bằng biện pháp hành chính.
  13. - Lý tưởng thẩm mỹ: là những quan niệm mang tính cụ thể - cảm tính về sự phát triển tự do và đầy đủ nhất những khả năng thể chất và tinh thần của con người, về vẻ đẹp hài hòa của đời sống tự nhiên và xã hội, về chuẩn mực cao nhất của sự hoàn thiện hoàn mỹ và con đường để đi tới đó. Tức lý tưởng thẩm mỹ là sự hoàn thiện các trạng thái tình cảm thẩm mỹ của con người. Điểm lưu ý là: Giáo dục thẩm mỹ cho con người không phải là một môn học như Giáo dục đạo đức mà là một sự giáo dục mang tính tổng hợp, có sự phối hợp giữa nhà trường, xã hội, các tổ chức đoàn thể (với học sinh THPT thì tốt nhất là tổ chức Đoàn thanh niên) để người tiếp nhận mang tính tự nguyện và hào hứng tham gia chứ không phải chỉ bắt buộc. II.2. Lợi thế của việc giáo dục năng lực thẩm mỹ cho học sinh thông qua bộ môn Ngữ Văn Văn học (cùng với âm nhạc, hội họa) là 3 bộ môn có lợi thế nhất so với các bộ môn khác trong nhà trường. Đối với một trường không có bộ môn âm nhạc, hội họa riêng như trường THPT Cồn Tiên thì việc giáo dục năng lực thẩm mỹ qua môn học sẽ tập trung vào bộ môn Văn. Thực tế, trong văn học cũng đã có tích hợp cả âm nhạc, hội họa nên văn học có điều kiện “kiêm nhiệm” công việc cho cả hai bộ môn kia. Ngôn ngữ văn chương, đặc biệt là ngôn ngữ thơ, ngay trong đặc trưng của nó đã mang tính nhạc, thể hiện ở 3 tính chất: cân đối về dòng thơ, khổ thơ giống như các quãng trong âm nhạc(“Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Đền cũ lâu đài bóng tịch dương”- thơ Bà huyện Thanh Quan); trầm bổng: sự thay đổi âm thanh cao thấp khác nhau giữa thanh bằng và thanh trắc giống như giai điệu trong âm nhạc. Câu thơ có nhiều thanh bằng thường chỉ không gian chiều cao, thanh thoát (“Mùa xuân cùng em lên đồi thông/ Ta như chim bay trên tầng không”- thơ Huy Cận) trong khi các thanh trắc thường chỉ không gian thấp, bức bối (“Sóng sầm sập lưng chừng ngoại bể Bắc/ Giọt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên”- ca dao); trùng điệp: việc sử dụng vần, điệp câu, điệp ngữ…giống như
  14. phép lặp trong âm nhạc (Bài Thề non nước của Tản Đà gồm 22 dòng thì chữ non được lặp lại 15 lần, chữ nước được lặp lai 13 lần). Ngôn ngữ thơ cũng chứa đựng chất hội họa (“thi trung hữu họa”) khiến nhiều câu thơ, bài thơ được hình dung như một bức tranh phong cảnh (“Cỏ non xanh rợn chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”- thơ Nguyễn Du hoặc “Tiếng sưối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”- thơ Hồ Chí Minh). Trong văn xuôi cũng có rất nhiều trang tả cảnh như vậy. Vì vậy, việc dạy văn chính là làm cho các em thấy được cái đẹp trong tác phẩm văn chương và phải truyền được cái đẹp trong đó cho học sinh (Lưu ý: Văn chương khi viết về cái xấu, cái ác cũng phải “chiếu ” dưới ánh sáng của cái đẹp. Chính nhờ thế mà khi chúng ta đọc đoạn Nguyễn Du tả cảnh Thúy Kiều bị Tú Bà hành hạ “Uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa” ta vẫn không thấy ghê tởm cảnh “thịt đổ, máu sa” mà chỉ thấy căm giận kẻ tàn phá cái đẹp, thấy thương cho cái đẹp). Văn chương lấy ngôn ngữ làm chất liệu, mà ngôn ngữ là “thể hiện trực tiếp của tư tưởng”, là “vỏ vật chất của tư duy” (C. Mác) nên có lợi thế là gọi đích danh sự vật, thể hiện trực tiếp cảm xúc, đi thẳng vào tâm hồn người đọc: “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi” (Tố Hữu), “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Nguyễn Bính), “Anh xa em như đất liền xa cách bể” (Chế Lan Viên),…Đấy lại là một lợi thế nữa của văn chương mà người giáo viên dạy văn cần tận dụng. Thế nhưng, lâu nay vì nhiều lý do khác nhau mà người dạy văn chưa phát huy hết lợi thế của bộ môn nên chưa truyền được hết cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học đến với học sinh để các em nhận ra và yêu thích cái đẹp, sống theo cái đẹp. Trong hoàn cảnh một trường còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất (CSVC) như trường THPT Cồn Tiên của chúng ta, chúng tôi nghĩ rằng, trong khi đòi hỏi được trang bị CSVC để giáo dục thẩm mỹ, từ đó giáo dục đạo đức cho các em học sinh thì hãy tận dụng lợi thế của bộ môn Văn để làm việc đó, nghĩa là cung cấp những giá trị thẩm mỹ ở các tác phẩm
  15. văn học cho các em để các em thấy cái đep, yêu cái đẹp, sống theo cái đẹp, ngược lại phải nhận diện cái xấu để xa lánh nó, cuối cùng để có một nhân cách đẹp, hoàn thiện. II.3. Điều tra thực trạng năng lực thẩm mỹ của học sinh THPT Cồn Tiên Từ những vấn đề có tính chất “lý thuyết” trên đây, chúng tôi thử điều tra năng lực thị hiếu thẩm mỹ của học sinh trường THPT Cồn Tiên. Để làm công việc này, ngoài việc tự tìm hiểu hoàn cảnh chung của địa phương (huyện Gio Linh) về trường Cồn Tiên, chúng tôi tổ chức thăm dò năng lực thẩm mỹ học sinh cả 3 khối 10, 11, 12 trường ta bằng cách phát Phiếu phỏng vấn để điều tra về sở thích lối sống, quan niệm sống; sở thích về các loại hình nghệ thuật, các thể loại nghệ thuật,…theo nguyên tắc điều tra ngẫu nhiên, tự nguyện. Các em trực tiếp đánh dấu vào những ô mình thích/ không thích/ không có ý kiến, hoàn toàn tự do bày tỏ chính kiến cá nhân, không ai được định hướng (do không yêu cầu công khai thông tin, nếu học sinh không muốn). Trên cơ sở các phiếu thu về, chúng tôi tập hợp, thống kê, phân loại ý kiến, cuối cùng là phân tích các dữ liệu thông tin. Kết quả thu được như sau: Tổng số học sinh các khối của trường: 648. Số phiếu trả lời phỏng vấn thu được: 530 phiếu, chiếm tỷ lệ 87,2 %. MẨU 2. PHIẾU PHỎNG VẤN: (530 phiếu) 1. CHUNG CÁI ĐẸP LÀ SỐ PHẦN LƯỢNG TRĂM Hình thức lộng lẫy 46 8,7 Sự hoàn mỹ 229 43,2 Nội dung tốt 180 35,5 Cái gợi ước mơ 81 15,2
  16. Ở phần 1 của Mẫu 2 này, chúng tôi chủ yếu muốn tìm hiểu các em về hiểu biết cơ bản nhất, đơn giản nhất về cái đẹp. Trong 4 nội dung đưa ra về cái đẹp, nhìn chung các em đã nhận diện được phạm trù cái đẹp, biểu hiện là các em dành tỷ lệ cao cho quan niệm cái đẹp là “Sự hoàn mỹ” (229/ 530 phiếu, tỷ lệ 43,2%). Đây là một quan niệm chính xác. Đồng thời, trong mối tương quan giữa hình thức và nội dung của cái đẹp thì các em cũng dành tỷ lệ cao cho quan niệm cái đẹp phải có nội dung tốt (180/ 530, tỷ lệ 35,5 %). Dĩ nhiên, điều này còn cần phải bàn thêm (có quan niệm cho rằng nội dung cái đẹp có thể “dạy” được, “đào tạo” được, còn hình thức là của “trời cho”, cũng có ý kiến ngược lại) nhưng có thể nói quan niệm của các em như vậy cũng không sai. Quan trọng nhất là giữa hai quan niệm nội dung và hình thức của cái đẹp không chênh lệch nhau bao nhiêu (43,2 % so với 35 % ), chứng tỏ trong các em vẫn có hai luồng quan niệm về cái đẹp hình thức/ nội dung y như trong đời sống. Qua phiếu phỏng vấn cho thấy các em đã trưởng thành, đã có nhận thức đúng, do đó người lớn không được chủ quan khi đứng trước các em, nhất là thái độ, trang phục, ăn nói,... 2. THỊ HIẾU BẢN THÂN TRONG ĐỜI SỐNG THỊ HIẾU BẢN THÂN SỐ PHẦN TRĂM LƯỢNG Sự bình yên 297 56,0 Nhiều bạn 365 68,8 Sống nghiêm túc 164 30,9 Thích uống rượu 19 3,9 Thích học 355 67,0 Thích buôn chuyện 129 24,3 Thích sống độc lập 203 38,3 Thích thần tượng 263 49,6
  17. Sôi động 160 30,1 Thích sống một mình 32 6,0 Sống thoải mái 378 71,3 Thích caffee 191 36,0 Không thích học 23 4,3 Thích sống thử với bạn khác 77 14,5 giới Thích mặc đẹp 236 44,5 Không thích thần tượng 49 9,24 Nhiều tiền 137 25,8 Sòng phẳng 179 33,8 Thích ăn vặt 89 16,7 Thích hút thuốc 25 4,7 Thích du lịch 309 58,3 Không thích gì cả 50 9,43 Tổng 530 phiếu Ở phần 2 của Mẫu 2, chúng tôi đi sâu khảo sát sở thích, quan niệm của các em về lối sống. Qua phân tích bảng trên, ta thấy: - Học sinh thích nhất là được sống thoải mái (378/ 530 phiếu, tỷ lệ 71,3 %). Điều này cũng phản ánh một thực tế trong đời sống xã hội ngày nay là quan niệm thoáng hơn, nhiều phương diện cuộc sống được mở ra hơn trong khi áp lực dành cho các em không nhỏ (công việc nhà, học trên lớp, thi tốt nghiệp Tú tài, thi đại học, bị cấm đoán,…). Hiểu được thực trạng như thế, vấn đề còn lại là thầy cô giáo (nhất là Giáo viên chủ nhiệm, Ban Giám hiệu, Đoàn thanh niên…) phải tận dụng cơ hội (sinh hoạt lớp, Đoàn, nhắc nhở trong lễ chào cờ đầu tuần,..) phân tích cho các em hiểu: thế nào là sống thoải
  18. mái đúng đắn? Sống thoải mái khác với sống buông thả, tự do, bất cần như thế nào?,…để điều chỉnh, “lái” các em vào quỹ đạo sống đúng đắn, có ích. Một điều chúng tôi thấy rất đáng quý của học sinh trường ta là có hai mục về thị hiếu các em tán đồng rất cao, đó là thích nhiều bạn (365/ 530 phiếu, tỷ lệ 68,8 %) và thích học (355/ 530 phiếu, tỷ lệ 67,0 %). Điều này có thể do vùng đất (hoàn cảnh địa lý, đời sống, truyền thống) nơi địa phương trường đóng mà chúng tôi đã mô tả ở mục 1 trên đây. Một vùng đất như vùng của chúng ta nói riêng, Quảng Trị nói chung, các em sẽ có mục tiêu học rất rõ ràng: học để có cơ hội thoát nghèo, bởi vậy sự khao khát được học của các em là điều mà nhà trường cần phát huy, nhân rộng ra và toàn trường phải tập trung mọi điều kiện có thể để đáp ứng nguyện vọng chính đáng này của các em. Phải xem đây là tín hiệu đáng mừng để phát huy nó lên. Về việc thích nhiều bạn cũng không có gì khó hiểu. Lứa tuổi này (nhất là học sinh khối lớp 10), mới từ trường Trung học cơ sở lên, nay được “nối mạng” khắp cả huyện nên nhu cầu bạn bè là nhu cầu đương nhiên, tự nhiên. Điều này cũng có phần giống như sống thoải mái nói trên nên vấn đề là phải làm cho các em hiểu việc tìm bạn, chơi với bạn như thế nào để bạn bè trở thành “động lực” chứ không phải là “trở lực” cho sự tiến bộ. - Có 3 chỉ số điều tra có tỷ lệ rất thấp cho thấy đáng hi vọng ở học sinh THPT Cồn Tiên, đó là: số học sinh thích uống rượu (19/ 530, tỷ lệ 3,9 %), thích hút thuốc (25/ 530, tỷ lệ 4,7 %) và số không thích học (23/ 530, tỷ lệ 4,3 %). Theo chúng tôi biết, nhiều trường ở nhiều địa phương đang rất khó khăn khi đối mặt với những biểu hiện tiêu cực của lớp trẻ như trốn học đi chơi (nhất là vào các tiệm Internet), đua đòi hút hít, đánh nhau, thậm chí cả rượu chè, đua xe trái phép,…Nhưng ở đây, qua số liệu điều tra cho thấy hiện tượng này chiếm tỷ lệ thấp, đấy là điều, tuy vẫn phải lưu ý, cảnh giác nhưng đồng thời cũng cho thấy học sinh ở trường tương đối thuần, dễ bảo. Điều này có thể cũng có nguyên nhân từ truyền thống của vùng đất, từ nhà trường (xem thêm mục 1).
  19. - Ngoài ra, cũng qua phiếu điều tra, chúng tôi thấy có mấy điều mang tính khuyến cáo: tỷ lệ học sinh thích thần tượng cũng khá cao (263/ 530, tỷ lệ 49,6 %). Điều này phản ánh đúng tình hình tuổi trẻ bây giờ, không có gì đáng lo ngại. Vấn đề là phải chỉ ra cho các em thấy được: say mê thần tượng là đúng nhưng mê muội thần tượng là điều không nên; và điều căn bản nhất là phải xác định được: ai là thần tượng? Việc thích du lịch (309/ 530, tỷ lệ 58,3 %) cũng vậy. Đây vừa là nguyện vọng rất chính đáng lại rất phù hợp với giáo dục đạo đức cho học sinh bằng hình thức dễ gây hứng thú. Vì vậy, chúng ta nên tìm biện pháp đáp ứng nhu cầu của các em. Huyện Gio Linh và tỉnh Quảng Trị có rất nhiều thắng cảnh, di tích lịch sử đẹp, anh hùng, nếu các em được đáp ứng nhu cầu thì đây là dịp rất tốt để giáo dục thẩm mỹ (lòng yêu quê hương, lòng tự hào) cho học sinh. Vấn đề là sắp xếp thời gian hợp lý, kinh phí tiết kiệm cho phù hợp. Nhưng cái tỷ lệ thích mặc đẹp (236/ 530, tỷ lệ 44,5 %), thích cà phê (191/ 530, tỷ lệ 36 %), dù cũng không có gì sai trái nhưng cũng cần lưu ý các em rằng vùng đất mình sinh sống hãy còn nghèo, cha mẹ các em cũng phải tằn tiện để các em đi học, các em cũng còn nhiều việc phải dùng đến tiền,…Các em phải thương cha mẹ để tiêu pha tiết kiệm, tránh chạy theo “mốt” một cách mù quáng, sau này dễ ân hận. Việc này hoàn toàn có khả năng điều chỉnh được. Dưới đây, chúng tôi điều tra thị hiếu của học sinh về những loại hình, thể loại nghệ thuật nhằm “đo” sự hiểu biết và ham thích nghệ thuật gì? mức độ ham thích ra sao? thử lý giải nguyên nhân thích/ không thích để có giải pháp đúng. Phiếu phỏng vấn Mẫu 3. này bao gồm hai nội dung: một dành cho các loại hình nghệ thuật nói chung; một dành cho các thể loại nghệ thuật cụ thể. 3.1 SỞ THÍCH CHUNG CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT CÁC LOẠI HÌNH SỐ PHẦN TRĂM
  20. NGHỆ THUẬT LƯỢNG Hội họa 118 22,3 Múa 54 10,2 Điêu khắc 61 11,5 Điện ảnh 262 49,5 Âm nhạc 376 70,9 Kịch/ sân khấu 20 3,8 Văn chương 68 12,8 Tổng: 7 loại hình 959 ý kiến 3.2. SỞ THÍCH CỤ THỂ VỀ CÁC THỂ LOẠI NGHỆ THUẬT CÁC THỂ LOẠI NGHỆ THUẬT SỐ PHẦN TRĂM LƯỢNG Tranh dân gian 213 43,5 Tranh sơn mài 79 14,9 Tranh lụa 88 16,6 Tranh bột màu 82 15,5 Tranh sơn dầu 74 13,9 Tranh mực Tàu 35 6,6 Tranh chân dung 97 18,3 Tranh phong cảnh 270 50,9 Tranh phấn màu 55 10,3 Tranh kí họa 51 9,6 Tranh giấy 64 12,0 Tranh châm biếm 45 8,4 Tranh khác 45 8,4
nguon tai.lieu . vn