- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- SKKN: Giáo dục lịch sử dân tộc cho học sinh THPT tại Hưng Yên hiện nay qua khảo sát một số trường - thực trạng và giải pháp
Xem mẫu
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
Sáng kiến kinh nghiệm
Giáo dục lịch sử dân tộc cho học sinh
THPT tại Hưng Yên hiện nay qua
khảo sát một số trường - thực trạng
và giải pháp
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
ĐHQG. HN Đại học Quốc gia
ĐHSP. HN Đại học Sư phạm Hà Nội
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
GS.TS Giáo sư. Tiến sĩ
HS Học sinh
KHXH&NV Khoa học Xã hội và Nhân văn
KHTN Khoa học Tự nhiên
LSDT Lịch sử dân tộc
NXB Nhà xuất bản
PGS.TS Phó giáo sư. Tiến sĩ
TC. NCLS Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử
THPT Trung học phổ thông
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................................ 8
I. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LSDT CHO HỌC SINH THPT TẠI HƯNG
YÊN HIỆN NAY QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG
1. Thực trạng ............................................................................................... 8
1.1. Thực trạng giáo dục nhà trường .......................................................... 8
1.2. Thực trạng giáo dục gia đình ............................................................ 13
1.3. Thực trạng giáo dục xã hội .............................................................. 15
2. Nguyên nhân ......................................................................................... 19
2.1. Về mặt khách quan ......................................................................... 19
2.1.1. Sự khó khăn của ngành học Lịch sử trong định hướng, tạo cơ
hội việc làm và thu nhập ...................................................... 19
2.1.2. Môn Lịch sử không được coi trọng trong xã hội .................... 20
2.1.3. Sự thiếu quan tâm từ phía gia đình trong việc giáo dục kiến
thức lịch sử - văn hóa cho học sinh ................................................. 22
2.2. Về mặt chủ quan .............................................................................. 23
2.2.1. Sự hạn chế của sách giáo khoa Lịch sử ................................... 23
2.2.2. Sự hạn chế về mặt phương pháp dạy học, về phía người dạy và
trong tổ chức kiểm tra, đánh giá ............................................. 24
2.2.3. Sự hạn chế về cơ sở vật chất trường học ................................. 27
2.2.4. Sự hạn chế trong quản lý giáo dục đối với môn Lịch sử ......... 27
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC LSDT CHO HỌC SINH THPT TẠI HƯNG YÊN HIỆN NAY
1. Nhóm giải pháp tổng thể và mang tính lâu dài .................................. 29
1.1. Yêu cầu từ vai trò lãnh đạo và định hướng của Đảng và Nhà nước .. 29
1.2. Đổi mới sách giáo khoa, phương pháp - chương trình dạy học và tổ
chức kiểm tra, đánh giá........................................................................... 30
1.3. Đưa vấn đề đào tạo đội ngũ giáo viên dạy Sử đi vào chiều sâu chất
lượng ...................................................................................................... 32
1.4. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào giáo dục lịch sử 33
1.5. Phát huy vai trò của giáo dục gia đình và dòng họ 37
1.6. Đẩy mạnh vai trò giáo dục của xã hội, tăng cường các loại hình truyền
bá lịch sử 38
1.7. Tổ chức các cuộc vận động chính trị sâu rộng đưa tri thức LSDT vào
trong nhân dân 41
2.. Nhóm giải pháp cụ thể và mang tính trước mắt cho các nhà trường 43
2.1. Xác định đúng tầm quan trọng của việc giáo dục LSDT cho học
sinhTHPT trong nhà trường hiện nay 43
2.2. Những cố gắng, chủ động của riêng từng nhà trường 45
2.3. Thay đổi tư duy, cách làm góp phần phát huy tính tích cực của học
sinh THPT 46
KẾT LUẬN 49
PHỤ LỤC 54
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, khi đất nước đang vững bước trên con đường công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước, đổi mới và hội nhập; bên cạnh mặt tích cực như kinh tế
phát triển, đời sống vật chất của nhân nhân không ngừng được nâng cao thì cũng
nãy sinh không ít những tiêu cực: nổi cộm trong đó là thực trạng các ngành
KHXH&NV nói chung và Lịch sử nói riêng không được xã hội xem trọng.
Bài nghiên cứu của tôi về ý nghĩa lý thuyết góp phần vào việc tìm hiểu
thực trạng cũng như nguyên nhân và giải pháp của vấn đề giáo dục LSDT cho
học sinh THPT tại Hưng Yên hiện nay qua khảo sát một số trường; còn về ý
nghĩa thực tiễn nó góp một phần nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề còn hạn
chế, tồn tại của việc giáo dục LSDT cho học sinh THPT tại Hưng Yên cũng như
“vực dậy” vị trí hàng đầu của Sử học trong đời sống xã hội hiện tại và tương lai.
Hưng Yên là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa – giáo dục của đồng bằng
Sông Hồng, đây cũng là nơi giàu truyền thống đấu tranh cách mạng xứng đáng
là quê hương “văn hiến” của đất nước. Bởi vậy nên việc nghiên cứu vấn đề trở
nên thật sự cấp thiết đối với yêu cầu của thực tiễn xã hội trong tình hình hiện
nay, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững của dân tộc.
Thiết nghĩ với những lý do như vậy nên tôi đã quyết định chọn đề tài này.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong những năm vừa qua đã có không ít những công trình, đề tài, hội
thảo khoa học, bài báo khoa học (đăng trên các tạp chí như: NCLS, Xưa & Nay
v.v…, các báo: Tuổi trẻ, Dân trí, Giáo dục Việt Nam v.v…) đề cập đến vấn đề
thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của giáo dục lịch sử ở nhà trường phổ
thông hiện nay. Xin dẫn ra một số ví dụ tiêu biểu như:
- Hội thảo khoa học về "Thực trạng việc dạy và học Lịch sử trong trường
Phổ thông - nguyên nhân và giải pháp" do Hội Khoa học lịch sử, Bộ
GD&ĐT, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Trường Đại học KHXH&NV
(ĐHQG TP. Hồ Chí Minh), Đại học Hồng Bàng phối hợp tổ chức ngày
27/3/2008
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
- Phương pháp dạy học Lịch sử. Tập I +Tập II do GS.TS Phan Ngọc Liên,
ĐHSP. HN chủ biên, xuất bản năm 2008.
- Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông do
GS.TS Phan Ngọc Liên Chủ biên, 2008.
- “Hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường phổ thông thực trạng và giải pháp”
của PGS.TS Nguyễn Thị Côi, trường ĐHSP. HN, TC. NCLS, số 7.2007
Tuy nhiên phần lớn mới chỉ dừng lại ở mô hình “giáo dục nhà trường”
như về nội dung và phương pháp dạy học Lịch sử theo các mô tiếp sư phạm mà
chưa hoặc ít đề cập đến “giáo dục gia đình” và “giáo dục xã hội”. Mặc dù đánh
giá cao về những thành tựu nghiên cứu vấn đề mà các tác giả đã đạt được, với tư
cách là những người đi trước “khai phá mở đường”. Tuy nhiên cũng phải khẳng
định rằng: vấn đề nghiên cứu mà tôi hướng tới là nghiên cứu trường hợp; bởi thế
nên ngoài việc kế thừa và phát huy những thành tựu nghiên cứu đã đạt được
trong thời gian qua của các thế hệ học giả đồng nghiệp thì tôi tất yếu phải dụng
công để hướng tới những tri thức mới, sâu sắc và cụ thể.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng giáo dục LSDT cho học sinh THPT tại
Hưng Yên qua khảo sát tại một số trường trên địa bàn tỉnh; kể cả quan điểm
nhìn nhận, đánh giá về vai trò của môn lịch sử trong đời sống, trong lập thân, lập
nghiệp của giáo viên – học sinh tại một số trường và trong gia đình, xã hội hiện
nay..
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về quy mô: giới hạn ở việc nghiên cứu, khảo sát tại một số trường
THPT trên địa bàn tỉnh.
Phạm vi về nội dung: giới hạn ở việc tìm hiểu, đánh giá thực trạng giáo
dục LSDT cho học sinh THPT tại Hưng Yên qua việc khảo sát ở một số trường;
dẫn giải và phân tích nguyên nhân của thực trạng đó cũng như suy nghĩ về một
số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục LSDT cho học sinh THPT
tại Hưng Yên hiện nay.
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu
của đề tài từ 1 năm trở lại đây.
Một vài chỉ số cần điều tra: kết quả sự đánh giá của học sinh THPT về vai
trò môn Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông, mục đích, động lực học
tập môn Sử, thời gian dành cho việc học môn này trong tuần của học sinh v.v…
3.3.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Được thể hiện dưới dạng cây mục tiêu sau:
Giáo dục LSDT cho học sinh THPT tại Hưng Yên qua khảo sát một số trường –
thực trạng và giải pháp
Thực trạng giáo dục
Giải pháp
Thực trạng Nguyên nhân Giải pháp Giải pháp
tổng thể và cụ thể,
mang tính trước mắt
lâu dài cho các nhà
Giáo Giáo Giáo Nguyên Nguyên trường
dục nhà dục dục xã nhân nhân chủ
trường gia đình hội khách quan
quan
4.Các khái niệm, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Các khái niệm
Các khái niệm bao gồm:
- Giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục nhà
trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Trong đó giáo dục nhà trường
phải đi đầu và đóng vai trò chủ đạo.
- Lịch sử dân tộc Việt Nam bao gồm lịch sử của 54 dân tộc sinh sống trên
lãnh thổ Việt Nam hợp thành (trong đó dân tộc Kinh đóng vai trò chủ thể) trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. LSVN là một bộ phận có quan hệ hữu
cơ, khăng khít và không tách rời của Lịch sử thế giới. Bởi vậy LSDT luôn phải
được trong bối cảnh tác động qua lại với Lịch sử thế giới. Tuy nhiên trong vấn
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
đề giáo dục lịch sử ở nước ta thì bao giờ LSDT cũng được đặt ở vị trí trung
tâm, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
4.2. Nguồn tư liệu chủ yếu
- Các công trình nghiên cứu (in thành sách), các bài báo khoa học trên các
trang báo và tạp chí.
- Nguồn tư liệu thu được từ điều tra xã hội học (quan sát, phỏng vấn).
- Tài liệu internet, tuy nhiên đối với nguồn tài liệu này, tôi cũng đặc biệt lựa
chọn, cân nhắc, cẩn trọng trong việc sử dụng (chủ yếu là thông tin trên các
trang báo điện tử như Dân trí, Tuổi trẻ online).
4.3.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lôgic
- Phương pháp mô tả, phân tích
- Phương pháp định tính, định lượng
- Phương pháp liên ngành.
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LSDT CHO HỌC SINH THPT TẠI HƯNG
YÊN QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
HIỆN NAY
1. Thực trạng
1.1. Thực trạng giáo dục nhà trường
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
Bảng 1: Kết quả thống kê 7/14 tiêu chí khảo sát về thực trạng giáo dục
cho học sinh THPT tại một số trường trên địa bàn Hưng Yên hiện nay:
(Đơn vị: %)
Trường Trườn
Trường THPT g Trường
Tổng
THPT Nguyễn THPT THPT
số
Tên Mỹ Hào Thiện Minh Yên Mỹ
trường Thuật Châu
STT
128 122 502
137 HS 115 HS
HS) HS HS
Nội dung khảo sát
Đánh giá 13,15
về vai Quan trọng 10,49 9,47 10,31 43,42
1 trò của
môn Sử Không quan 14,14 15,01 14,83 12,60 57,58
cúa HS trọng
Vì yêu thích,
Mục
để hiểu biết 14,21 8,17 8,73 11,02 42,13
đích học
hơn LSDT
2 tập của
Đơn thuần
HS trong
chỉ để qua 11,08 17,33 15,57 9,89 57,87
môn Sử
các kỳ thi
Thời Dưới 1 h 8,31 9,47 9,64 6,21 33,63
gian Từ 1-2 h 5,95 7,73 6,77 4,16 24,61
dành cho
Từ 2-3 h 8,34 4,94 5,31 7,37 25,96
3 việc học
môn Sử
trong Trên 3 h 4,68 3.36 2.59 4,17 14,80
tuần
Tình Có, nhưng
12,52
trạng không đáng 9,27 8,34 10,82 40,95
4 học lệch kể
giữa các Lệch tương
14,76 16,23 15,97 12,09 69,05
học phần đối lớn
Tổ chức Tương đối
×
hoạt thường xuyên
5 động
Ít và không
ngoại × × ×
thường xuyên
khóa
Đánh giá
6 Nhiều, quá tải 15,63 17,21 16,80 13,93 63,57
về dung
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
lượng
kiến Ít đến vừa
11,65 8,29 7,52 8,97 36,43
thức của phải
môn học
TV, Radio 7,73 7,29 6,55 6,22 27,79
Kênh Sách, báo, tạp
thông tin chí tham 6,48 4,86 4,52 6,46 22,32
khác khảo
7
ngoài
Internet 8,43 9,65 9,26 6,71 34,05
sách
giáo Kết hợp 4,64 3,70 3,98 3,52 15,84
khoa
(Dấu × đánh dấu ô thông tin đã được lựa chọn)
Về mặt thuận lợi và tích cực: trong vấn đề dạy và học môn Lịch sử hiện nay, các
trường THPT trên địa bàn Hưng Yên có nhiều thuận lợi: sách tham khảo, báo và
tạp chí rất phong phú, đa dạng; các kênh phương tiện thông tin hỗ trợ khác như
tivi, radio và đặc biệt là internet được phổ biến; cơ sở vật chất hạ tầng và trang
thiết bị phục vụ dạy – học cũng tương đối đầy đủ; nơi đây cũng là địa bàn có
nhiều di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng cả nước. Nhờ đó mặt bằng chất lượng
giáo dục nói chung và giáo dục Lịch sử nói riêng của Hưng Yên đạt ở mức
tương đối cao. Một số học sinh của tỉnh đã đạt thành tích cao trong kỳ thi chọn
học sinh giỏi Quốc gia hằng năm đối với môn Lịch sử.
Tuy nhiên, hiện nay, việc dạy học môn Lịch sử cho học sinh THPT qua khảo sát
tại một số trường trên địa bàn tỉnh như: THPT Mỹ Hào, THPT Nguyễn Thiện
Thuật, THPT Minh Châu, THPT Yên Mỹ đang nổi cộm lên một số vấn đề sau:
1 –Một bộ phận không nhỏ học sinh không coi trọng môn học Lịch sử,
chỉ xem nó là môn học phụ trong chương trình giáo dục phổ thông. Tâm lý, thái
độ xem môn Lịch sử là môn phụ trong hệ thống chương trình giáo dục của học
sinh THPT. Có tới 55,58 % học sinh trong tổng số 502 học sinh được hỏi cho
rằng môn lịch sử là “môn phụ” hay không quan trọng. Lý do của sự sai lầm mà
học sinh (kể cả phụ huynh và một bộ phận giáo viên) căn cứ vào đó là thời
lượng giảng dạy của môn học trên lớp và nó không phải là môn thi Tốt nghiệp
bắt buộc hay không (hiện nay, môn lịch sử ở các trường trên thời lượng 1,5-2
tiết/tuần và môn Sử không phải là môn thi Tốt nghiệp THPT bắt buộc). Đi liền
với đó, mục đích học môn Lịch sử của không ít học sinh (57,87% số sinh viên
trong mẫu khảo sát) chủ yếu chỉ để nhằm đối phó với kiểm tra, thi cử nhiều hơn
là sự yêu thích, tìm tòi về LSDT. Thời gian dành cho môn học của học sinh
THPT trong tuần nằm trong phổ từ 1-3 tiếng, chiếm 85,2%. Riêng loại dưới 1
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
tiếng chiếm tỷ lệ cao nhất (33,63%). Qua đó có thể thấy sự tự giác của học sinh
đối với môn học này còn chưa cao.
60
50
40
30
Quan trọng
20
10 Không quan trọng
0
THPT THPT THPT THPT Tổng số
Mỹ Hào Nguyễn Minh Yên Mỹ
Thhiện Châu
Thuật
Biểu đồ 1: Đánh giá về vai trò của môn Sử trong học sinh THPT tại một số
trường trên địa bàn Hưng Yên hiện nay
2 - “Sách áp đặt, thầy dạy nhàm, trò chán!” Đó là những nội dung đã
được đề cập tại hội thảo khoa học về "Thực trạng việc dạy và học Lịch sử trong
trường phổ thông - nguyên nhân và giải pháp" do Hội Khoa học Lịch sử, Bộ
GD&ĐT, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG
TP.Hồ Chí Minh), Đại học Hồng Bàng phối hợp tổ chức ngày 27/3/2008. Theo
GS.TS Vũ Dương Ninh, PGS.TS Vũ Quang Hiển (ĐHQG Hà Nội), thời lượng
1,5-2 tiết Lịch sử/tuần ở bậc phổ thông không phải là ít. Nhưng như PGS.TS Vũ
Dương Ninh phát biểu: việc coi nhẹ môn Sử thể hiện ở chỉ đạo của các trường,
Sở trong việc cắt xén giờ học môn Lịch sử và một số môn học khác, học dồn giờ
để tập trung thời gian chuyên sâu các môn "quan trọng hơn". Nó cũng thể hiện ở
chỗ có năm thi tốt nghiệp THPT môn Sử, có năm không. Môn Sử còn được xếp
vào môn thi thay thế cho học sinh không được học Ngoại ngữ 15.
3 - Tình trạng học lệch của học sinh THPT. Sự học lệch đó không chỉ
dừng lại giữa các ban (như giữa ban KHXH&NV và ban KHTN), giữa các bộ
môn (như Văn, Sử, Địa) mà trên thực tế còn có sự học lệch giữa các học phần
trong cùng bộ môn (như giữa Lịch sử Cổ trung đại và Lịch sử Cận hiện đại). Tỷ
lệ 56,01 % học sinh thuộc mẫu khảo sát rơi vào trường hợp mức độ học lệch
tương đối lớn. Hiện nay có một thực trạng là nội dung thi Tốt nghiệp, Đại học –
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
Cao đẳng môn Lịch Sử được giới hạn đến đâu thì công tác dạy và học của các
trường Trung học phổ thông thường triển khai trọng tâm theo hướng đó. Còn
phần Lịch sử Cổ trung đại, vì không nằm trong phạm vi nội dung thi; thêm vào
đó nhiều thầy cô dạy Sử ở các trường THPT cho rằng học phần này tương đối
khó với học sinh khi trình độ nhận thức của các em còn đang còn hạn chế, trong
khi đối với phần này đã phải học từ năm đầu cấp III (lớp 10). Do vậy, giáo viên
chỉ dạy sơ lược, đại khái và học sinh cũng ít chú tâm. Sự lơi lỏng kiến thức về
học phần này tương đối phổ biến đối với học sinh lớp 12. Phần Lịch sử Cổ trung
vô cùng quan trọng và ý nghĩa kéo dài ngót mấy ngàn năm của dân tộc chưa
nhận được sự quan tâm đúng mức trong chương trình giáo dục môn Sử ở các
trường THPT. Nếu để cho tình trạng học lệch diễn ra quá mức và sự phân biệt
môn chính môn phụ trong nhà trường phổ thông thì về mặt lâu dài sẽ dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng, làm suy giảm chất lượng giáo dục, chất lượng con
người.
60
50
40
30
20
10 Lệch không đáng kể
0 Lệch tương đối lớn
THPT THPT THPT THPT Tổng số
Mỹ Hào Nguyễn Minh Yên Mỹ
Thiện Châu
Thuật
Biểu đồ 2: Tình trạng học lệch ở môn Sử của học sinh THPT tại một số trường
trên địa bàn Hưng yên hiện nay
4 - Nhiều nhóm học tập và câu lạc bộ Sử học trong trường được lập nên
nhưng hoạt động không mấy hiệu quả, còn các hoạt động ngoại khóa tuy có
nhưng thường ít và không được tổ chức, duy trì thường xuyên và liên tục. Cô
Phan Thị Hương– giáo viên dạy Sử của trường THPT Mỹ Hào còn cho biết
“Hiện nay tại một số trường, phương tiện – trang thiết bị phục vụ cho việc dạy
và học, nhất là những thiết bị hiện đại như máy chiếu vẫn còn thiếu thốn. Sách
giáo khoa thì nội dung chưa được thực sự khách quan và khoa học: nhiều thông
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
tin sử liệu không được trích dẫn nguồn; nặng về lịch sử chính trị - quân sự mà
nhẹ về lịch sử kinh tế - xã hội và khoa học – kỹ thuật, cũng như còn ít đề cập
đến tình hình kinh tế - chính trị xã hội phía bên kia chiến tuyến trong giai đoạn
lịch sử hiện đại 1954-1975 v.v… Những hạn chế đó khiến cho học sinh cảm thấy
môn Sử tương đối khô khan và nhàm chán.”
70
60
50
40
30
20 Nhiều, quá tải
10
Ít đến vừa phải
0
THPT Mỹ THPT THPT THPT YênTổng số
Hào Nguyễn Minh Mỹ
Thiện Châu
Thuật
Biểu đồ 3: Đánh giá về dung lượng chương trình học môn Sử của học sinh
THPT tại một số trường trên địa bàn Hưng Yên hiện nay
1.2. Thực trạng giáo dục gia đình
Bảng 2: Kết quả thống kê 1/ 14 tiêu chí khảo sát về thực trạng giáo dục gia
LSDT trong gia đình qua sự nhìn nhận của học sinh tại một số trường THPT
trên địa bàn tỉnh hiện nay:
(Đơn vị: %)
Trường Trường Trườn Trường Tổng
THPT THPT g THPT số
Tên Mỹ Nguyễn THPT Yên Mĩ
trường Hào Thiện Minh
ST
Thuật Châu
T
122 502
137 HS 128 HS 115 HS
HS HS
Nội dung khảo sát
Sự quan tâm Tương
của gia đình đối
9,11 7,25 9,69 9,5 35,82
tới việc giáo thường
1 xuyên
dục tri thức
(8)
lịch sử-văn
Rất hiếm
hóa dân tộc 18,17 17,98 14,62 13,41 64,18
khi
của HS
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
Một số hình Cùng đi tham quan du lịch; hay kể các câu chuyện lịch
thức quan tâm sử để noi gương; mua, sưu tầm sách hay về lịch sử văn
cụ thể hóa cho HS, tạo điều kiện học thêm v.v…
Mặc dù không phải không có những điểm sáng đáng được nêu gương, khích lệ
như việc một số gia đình nếu khi có thời gian, điều kiện thường cùng với con em
– học sinh đi du lịch, thăm quan các viện bảo tàng, di tích lịch sử - văn hóa,
những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước; thường hay kể cho con, cho
cháu nghe những câu chuyện lịch sử lý thú mà mình từng được chứng kiến hay
được nghe kể lại, những câu chuyện về các vị anh hùng có công đánh giặc bảo
vệ đất nước quê hương, cậu bé nhà nghèo hiếu học mà đỗ Trạng v.v… Những
câu chuyện góp phần nuôi dưỡng tâm hồn và những ước mơ của con em họ, để
ngày sau, những ước mơ đó của tuổi trẻ có thể sẽ trở thành hiện thực. Đây là
hình thức giáo dục kiến thức lịch sử - văn hóa cho con em trong gia đình mang
tính tự nhiên, nhuần nhuyễn nhất mà một số ít gia đình ở tỉnh cho đến ngày nay
vẫn còn bảo lưu được.
Tuy nhiên phần lớn các gia đình của tỉnh, trong “guồng quay” của cơ chế
kinh tế thị trường hiện nay, giữa bộn bề lo toan của cuộc sống, hầu hết họ phó
mặc việc giáo dục con em mình cho nhà trường. Qua nhìn nhận của học sinh,
sự thường xuyên quan tâm tới việc giáo dục các giá trị lịch sử - văn hóa truyền
thống của dân tộc cũng như sự quan tâm tới việc học nói chung tới học sinh –
con em trong các gia đình mà tôi khảo sát được chỉ đạt ở mức thấp 13,61%; còn
phần lớn là rất ít quan tâm (chiếm tới 64,18%).
70
60
50
40
30
Tương đối thường
20 xuyên
10 Rất hiếm khi
0
THPT Mỹ THPT THPT MInh THPT Yên Tổng số
Hào Nguyễn Châu Mỹ
Thiện Thuật
Biểu đồ 4: Sự quan tâm của gia đình trong giáo dục LSDT cho học sinh THPT
tại một số trường trên địa bàn tỉnh hiện nay
1.3. Thực trạng giáo dục xã hội
. Nhà sử học tư sản Việt Nam Trần Trọng Kim nhân khi viết cuốn “ Việt
Nam sử lược” (cuốn sách quốc ngữ đầu tiên về lịch sử nước nhà, xuất bản trước
Cách mạng Tháng Tám 1945) đã phải từng phàn nàn rằng dưới chế độ phong
kiến, người nước ta “bất kỳ lớn nhỏ hễ ai cắp quyển sách đi học chỉ học sử Tàu,
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn chương gì cũng lấy điển tích ở sử
Tàu, chứ chuyện nước mình nhất thiết không nói đến” 6, 6. Câu chuyện về
việc giáo dục lịch sử ở nước ta từ hơn một thế kỷ trở về trước là như vậy. Hiện
nay, chúng ta đang xây dựng nền văn hóa – giáo dục nước nhà theo hướng “dân
tộc, khoa học, và đại chúng”. Đó là tư tưởng chân lý và cách mạng vô cùng sáng
suốt của Đảng, là kim chỉ nam soi đường dẫn lối cho dân tộc Việt Nam trên con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, “xã hội dân chủ, công bằng, văn mình” Tuy
nhiên với hoàn cảnh thực trạng việc giáo dục LSDT cho các em học sinh THPT
như hiện nay, thì chắc chắn nó chưa thể khiến cho những người tâm huyết với
lịch sử nước nhà, với sự thịnh suy của dân tộc có thể an tâm được.
1 - Về phim ảnh đề tài lịch sử, nếu chúng ta khá thành công với những bộ
phim tư liệu, lịch sử thời hiện đại, tiêu biểu như: Sao tháng Tám, Lễ Tuyên ngôn
Độc lập, Hà Nội mùa đông 46, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Nguyễn Ái Quốc ở
Hồng Kông, Hồ Chí Minh chân dung một con người v.v… thì do rất nhiều khó
khăn việc làm phim về mảng đề tài Lịch sử Cổ trung đại dân tộc hầu như còn rất
hạn chế cả về số lượng và chất lượng, liệt kê ra chỉ có số ít bộ phim tiêu biểu
như: Khát vọng Thăng Long, Tây sơn hào kiệt, Mười đội quân kiệt xuất của Việt
Nam...
Một thực tế hiện nay các phim kiếm hiệp, cổ trang Trung Quốc, và kể cả Hàn
Quốc tràn ngập trên các kênh truyền hình trong nước thay vì những bộ phim sử
“thuần Việt” để giới thiệu, giáo dục về những đặc điểm lịch sử - văn hóa truyền
thống của dân tộc cho giới trẻ, học sinh phổ thông. Để không ít người trong giới
trí thức phàn nàn rằng: “dường như chúng ta đang tuyên truyền cho họ”. Về
mảng đề tài này, số phim truyện rất hữu hạn và cũng có rất ít bộ phim tạo được
sự quan tâm lâu bền của giới trong nghề cũng như công chúng, mặc dù tiền của
đầu tư cho nó không phải là ít. Có những bộ phim làm xong rồi phải cất vào kho
thay vì được công chiếu, gây lãng phí lớn về tiền bạc của nhà nước và nhân dân.
Vẫn biết rằng nhận thức của chúng ta về nhiều phương diện, lĩnh vực trong lịch
sử xa xưa của dân tộc còn chưa sáng tỏ, chúng ta không biết tìm đâu bối cảnh cổ
xưa (đường xá, thành quách, cung vua phủ chúa, trang phục, v.v…) để dựng
phim. Nhưng cũng phải suy xét cho thật nghiêm túc khi nhiều nhà đạo diễn
phim Việt Nam đã không tìm ra phương pháp nào khác hay hơn ngoài việc khai
thác đến “lạm dụng” các yếu tố lịch sử - văn hóa của nước ngoài. Có biến cố, sự
kiện lịch sử được dựng lại bằng nghệ thuật điện ảnh kiểu như thế này hoàn toàn
khác xa so với sự thực lịch sử.
Có nhiều ý kiến cho rằng, do ham mê phim ảnh kiếm hiệp, cổ trang Trung Quốc
mà học sinh phổ thông nước ta bây giờ còn thông thạo Sử Tàu hơn cả Sử nước
mình. Thật ra ý kiến đó có phần chưa xác đáng. Do những phim về đề tài lịch sử
của Trung Quốc như: “Tam Quốc diễn nghĩa”, “Hán Sở tranh hùng”, phim về
các vị vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa như Tần Thủy Hoàng, Đường
Huyền Tông, Võ Tắc Thiên, Khang Hy, Càn Long v.v… phần lớn được chuyển
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
thể từ các tiểu thuyết lịch sử. Mà theo như đánh giá của các học giả, cốt truyện
tình tiết chủ yếu được hư cấu nên, cốt lõi lịch sử chỉ chiếm một phần rất nhỏ
trong đó. Thế nên chúng ta không thể cho đó là lịch sử một cách nghiêm túc,
khách quan được. Việc các tác giả thêm thắt những chi tiết về cốt chuyện, nhân
vật đã làm những tác phẩm của mình mang đậm tính văn học, nghệ thuật hơn là
một tác phẩm sử học thuần túy với tính chân thực và khách quan. Bởi vậy, có
hay chăng chỉ có thể nói giới trẻ nước ta hiện nay tương đối hứng thú đối với bối
cảnh lịch sử - văn hóa xã hội truyền thống của Trung Hoa, Hàn Quốc v.v….
Nhưng cũng chỉ cần bấy nhiêu đó thôi cũng đã chứng tỏ được sự thành công của
nền điện ảnh nói riêng và nền văn hóa - giáo dục, nghệ thuật của họ nói chung.
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
Bảng 3: Kết quả thống kê 3/14 tiêu chí khảo sát về thực trạng giáo dục xã hội
qua khảo sát học sinh tại một số trường THPT trên địa bàn tỉnh hiện nay như
sau: (Đơn vị: %)
Trường Trườn Trường
Trường
THPT g THPT
THPT Tổng
Tên Nguyễn THPT Yên
chuyên số
STT trường Thiện Minh Mỹ
Mỹ Hào
Thuật Châu
122 502
137 HS 128 HS 115 HS
Nội dung khảo sát HS HS
Phim Việt
1,31 2,03 2,16 1,83 7,33
Nam
Phim Hàn
Loại phim dã 7,39 6,47 7,58 7,24 28,68
Quốc
1 sử, cổ trang
Phim
(9) yêu thích
Trung 16,53 15,22 13,05 12,91 57,71
nhất
Quốc
Phim
2,05 1,78 1,52 0,93 6,28
nước khác
Tương đối
thường 10,86 8,39 10,32 10,76 40,33
xuyên
Thời lượng
Hiếm khi
của việc đi 16,42 17,11 14,00 12,14 59,67
2 đi
tham quan
(10) Nếu
các di tích,
bảo tàng rất ít
Do không có thời gian, nhà xa, không hứng
khi thì
thú, v.v…
lý do
vì sao?
Sách lịch
sử - văn 4,25 2,97 3,52 3,19 13,93
học
Loại sách Sách tiểu
3
yêu thích thuyết ái 9,36 10,24 7,33 8,76 35,79
(11)
nhất tình “hot”
Sách khác 13,67 12,28 13,47 10,96 50,38
Thường
Sự quan tâm, 4,28 3,16 2,69 3,46 13,60
xuyên
theo dõi đối
Thỉnh
với chương 7,39 5,04 4,72 5,68 22,83
thoảng
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
4 trình “Theo
Rất ít,
(12) dòng lịch
không 15,61 17,29 16,91 13,76 63,57
sử”
hứng thú
Tổng số
THPT Yên Mỹ
THPT Minh Châu
THPT Nguyễn Phim nước khác
Thiện Thuật
Phim Trung Quốc
Phim Hàn Quốc
THPT Mỹ Hào
Phim Việt Nam
0 10 20 30 40 50 60 70
Biểu đồ 5: Loại phim dã sử, cổ trang được học sinh THPT tại một số trường
trên địa bàn tỉnh hiện nay thích nhất
2 - Về mảng sách báo, truyện tranh; hiện nay trên thị trường, có không ít những
đầu sách và truyện về chủ đề lịch sử dân tộc hay dành cho đối tượng thanh, thiếu
niên và nhi đồng. Tuy nhiên, trên thực tế nó cũng chưa đủ tạo được sức quan
tâm của độc giả là các bạn học sinh THPT (tỷ lệ học sinh yêu thích kết quả khảo
sát chỉ chiếm 13,93%). Thay vào đó là sự “chạy hàng” của các loại tranh truyện
nước ngoài hay những cuốn tiểu thuyết tình ái “ướt át”, lãng mạn thời đương đại
(phổ tỷ lệ học sinh THPT yêu thích những sách này đạt ở mức cao 86,07%).
Nguyên nhân của thực trạng trên một phần do không ít sách trong nước viết về
chủ đề lịch sử nhưng nội dung còn nghèo nàn đơn điệu. Nhiều loại tranh truyện
về chủ đề lịch sử, tiêu biểu như Thần đồng đất Việt thì chỉ phù hợp với sở thích
và tâm lý của thiếu nhi, nhi đồng. Hơn thế nữa, trong thời đại ngày nay, sức hút
của các thiết bị nghe nhìn (như TV, radio, máy nghe nhạc, internet v.v…) rất
lớn. Bởi vậy nên học sinh THPT thường có thói quen “lướt web”, vào mạng xem
tin tức hơn là sở thích đọc sách. “Văn hóa đọc sách” của giới trẻ hiện nay rơi
xuống mức thấp. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu của thực trạng “thừa thông
tin, thiếu kiến thức” (thông tin ở đây được hiểu là những tin tức thời sự, còn kiến
thức là những tri thức về lịch sử - văn hóa – xã hội nói chung) ở học sinh phổ
thông hiện nay.
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
60
50
Sách lịch sử - văn
40 học
30 Sách tiểu thuyết
ái tình
20
Sách khác
10
0
THPT THPT THPT THPT TỔNG SỐ
MỸ HÀO NGUYỄN THIỆN MINH CHÂU YÊN MỸ
THUẬT
Biểu đồ 7: Loại sách được học sinh THPT ở một số trường trên địa bàn tỉnh hiện
nay thích nhất
4 - Bên cạnh đó là những trò chơi truyền hình có truyền tải những kiến thức lịch
sử - văn hóa như: “Ai là triệu Phú, “Đấu trường 100”, “Rung chuông vàng”.
Đặc biệt là chương trình “Theo dòng lịch sử” phát trên kênh VTV2 của Đài
truyền hình Việt Nam; tuy nhiên hiệu quả, tác động xã hội của nó đến học sinh
THPT chưa cao (có tới 63,57% học sinh rất ít theo dõi hoặc không có hứng thú
quan tâm đến chương trình này – xem bảng thống kê ở trên). Một kênh thông tin
khá mới mẻ là internet được phần lớn học sinh THPT khai thác và thường xuyên
sử dụng. Nó có ưu điểm là tốc độ tra cứu nhanh, nguồn thông tin phong phú, đa
dạng. Tuy nhiên mặt hạn chế của nó là những thông tin thường không được
kiểm định, không rõ nguồn gốc xuất xứ; có nhiều thông tin lịch sử bị các thế lực
phản động “bóp méo”, xuyên tạc rồi tung lên mạng để nhằm thực hiện những
mưu đồ chính trị đen tối, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ . Chúng có thể
gây ra tâm lý hoang mang, dao động cho một bộ phận bộ phận giới trẻ, trong đó
có các em học sinh THPT.
2. Nguyên nhân
2.1. Về mặt khách quan
2.1.1. Sự khó khăn của ngành học Lịch sử trong định hướng, tạo cơ hội việc
làm và thu nhập
Có một thực tế là, hiện nay ngành Sử chưa được xã hội đề cao, sinh viên ngành
Sử (cũng các ngành Xã hội nói chung) ra trường họ luôn đối mặt với nguy cơ
không tìm được việc làm. Nhiều người muốn có việc thì phải làm trái ngành, trái
nghề với chi phí "lót tay" xin việc hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng.
Nếu xin được việc đúng chuyên ngành thì mức thu nhập cũng tương đối thấp.
- Đào Thị Hương - THPT Yên Mỹ
Đảng và Nhà nước cũng chưa đề ra được cơ chế, chính sách phù hợp để có thể
cải thiện được tình hình.
Hiện nay số lượng hồ sơ đăng ký dự thi khối C của tỉnh đã ít nhất so với các
khối khác,
Tại sao lại có tình trạng ngày càng ít thí sinh dự thi vào khối C? Nguyên nhân do
hiện nay số học sinh đăng ký nguyện vọng vào học ban Khoa học Xã hội và
Nhân văn rất ít ỏi. Khi phân ban, nhiều trường THPT tuyển không đủ một lớp,
thậm chí nhiều trường THPT không có ban C. Nhiều trường có đủ 3 ban nhưng
thay vì có ban xã hội như truyền thống, các trường mở ban Cơ bản A, Cơ bản D,
ban Khoa học Tự nhiên và học theo chương trình chuẩn. Tại trường THPT Yên
Mỹ, với điểm chuẩn là 26,5, tuyển 430 chỉ tiêu, chia làm 10 lớp nhưng không có
lớp cơ bản C, hoặc ban KHXH&NV (trong khi trường vẫn có lớp cơ bản A, D,
ban khoa học tự nhiên). Các học sinh hiện nay chỉ tập trung vào các môn tự
nhiên vì nhiều trường, nhiều ngành dự thi, cơ hội việc làm cao hơn. Học sinh
Nguyễn Thị Cách trường THPT Yên Mỹ tâm sự: "Lớp em chỉ có vài bạn đăng
ký dự thi khối C. Hơn nữa, chúng em thấy học khối C hiện nay ra trường khó tìm
việc làm mà lương không cao". Học sinh nhiều trường THPT cũng có cùng quan
điểm như vậy.
2.1.2. Môn Lịch sử không được coi trọng trong xã hội
Môn có ý nghĩa “cội rễ”, đóng vai trò là nền tảng tri thức, tinh thần của dân tộc
này đang bị không ít người trong xã hội hiện tại thờ ơ, coi thường. Vấn đề này
hiện chưa được nhìn nhận một cách khách quan và thấu đáo. Còn có những quan
điểm cách nhìn như “Học sinh giờ bị hô hào phải học ngoại ngữ, học tiếng Anh,
học tin học… thì có những môn như Lịch sử và cả Văn học bị xem nhẹ hơn chút
thì cũng dễ hiểu” (Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận) . Việc môn lịch sử bị
xem nhẹ lại có thể trở thành một việc bình thường. Người ta có thể giải thích
“trơn tuột”, đó là vấn đề của thời đại: “Môn Lịch sử kém thu hút, điểm lịch sử
thấp không phải chỉ ở Việt Nam, ở châu Á. Đó là chuyện của thời đại, của thế hệ
này, do cách mạng khoa học công nghệ, do sự biến đổi, đòi hỏi của thị trường
lao động…” 18
Có thể khẳng định thái độ lạnh nhạt, xem thường môn Lịch sử trong xã hội hiện
nay chính là sự quay lưng lại với các giá trị làm người về truyền thống văn hóa,
tâm hồn, nhân cách, là sự coi rẻ hoặc gạch bỏ các giá trị lịch - văn hóa, tinh thần
của dân tộc và nhân loại. Tầm quan trọng của môn Lịch sử, nhất là phần LSDT
hiện nay chưa được xã hội nhìn nhận một cách khách quan, công bằng và thấu
đáo.
Giải thích về nguyên nhân sâu xa của vấn đề này, do trong bối cảnh hiện nay của
đất nước, công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa với cơ chế kinh tế
thị trường đang từng bước được đẩy mạnh thì một trong những mặt trái của nó
là những giá trị xã hội - nhân văn trong đó có khoa học Lịch sử - thứ thiết yếu
cho sự phát triển bền vững của dân tộc lại chưa được xã hội thừa nhận và đề cao.
Hệ quả của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng công nghệ thông
tin, của nền kinh tế hàng hóa thị trường có sức tác động ghê gớm, dễ khiến cho
con người ta trở nên thực dụng, bị cuốn theo lợi ích vật chất mà quên đi các giá
trị tinh thần.
nguon tai.lieu . vn