Xem mẫu

  1. PHẦN THỨ NHẤT ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Trong dạy học môn tập đọc ở tiểu học, việc rèn đọc hiểu chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Việc đọc hiểu được sử dụng để tìm hiểu nội dung bài mới. Rèn đọc hiểu giúp việc nâng cao năng lực tư duy của h ọc sinh, t ừ đó các em t ự chiếm lĩnh kiến thức mới và vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân. 2. Ta nhận thấy rằng, việc đọc hiểu ở tiểu học có nhi ều ph ương pháp (cách dạy) khác nhau, phương pháp nào cũng mang tính đặc trưng riêng của phương pháp đó, sao cho có tính khoa học, tính logic... Nh ưng qua th ực t ế gi ảng dạy, việc rèn kĩ năng đọc hiểu thì một số giáo viên còn chưa hiểu đ ược m ột cách sâu sắc yêu cầu đặc trưng của môn học. Trong sự phát triển chung của giáo dục, có sự thay đổi cải tiến của môn Tiếng Việt nói chung và môn Tập đọc nói riêng về cả nội dung cũng nh ư phương pháp dạy học. Mục tiêu của môn học theo mức độ từ dễ đến khó, t ừ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với tâm sinh lý đang phát triển của h ọc sinh tiểu học. Tuy vậy vẫn còn không ít nhưng hạn chế vướng mắc trong quá trình dạy và học. Một trong những vẫn đề tôi quan tâm trong giảng dạy đó là: “Đọc hiểu của học sinh tiểu học”. Xuất phát từ thực tiến dạy học môn Tập đọc lớp 1 tôi tiến hành nghiên cứu việc “Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 1 trong giờ Tập đọc”. 2
  2. PHẦN THỨ HAI NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, đoài hỏi phải đổi mới chương trình môn Tiếng Việt. Chương trình tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về: - Mục tiêu giáo dục. - Nội dung và phương pháp dạy học. - Cách thức đánh giá học tập của học sinh. Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quy ết vấn đề, tự chi ếm lĩnh kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân. Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng l ực ho ạt động ngôn ng ữ đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là m ột phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc hiểu” nói riêng. Một kĩ năng quan trọng hàng đầu của bậc tiểu học. Tập đọc là môn học công cụ, là chìa khoá, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người. Tập đọc giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của ngh ệ thuật ngôn từ. Tập đọc đặc biệt là đọc hiểu giúp các em học được cách nói, cách vi ết một cách chính xác, trong sáng có nghệ thuật, góp ph ần không nh ỏ vào vi ệc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh v ốn từ ng ữ Ti ếng Vi ệt phong phú. Từ đó, các em sẽ học tốt các môn h ọc khác bởi đ ọc đúng, hi ểu đ ược chính 3
  3. xác nội dung một vấn đề nào đó. Từ đó, các em sẽ làm Toán đúng, vi ết đúng và nói đúng... Với tư cách, nhiệm vụ là một phân môn thực hành Tiếng Việt, Tập đọc hiểu góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng l ực cho h ọc sinh. Những bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa lớp 1 mới là nh ững bài văn, bài thơ hay trong kho tàng văn học trong nước và nước ngoài. Chính vì thế mà các em có vốn văn học dân tộc, hay trên thế giới khá lớn. Bên cạnh đó, có các bài tập đọc còn cung cấp cho các em vốcn từ ngữ phong phú, thuộc nhi ều chủ đề để sử dụng vào việc tập viết, tập chép đoạn văn, bài th ơ... Và đ ặc bi ệt là việc viết các bài Tập làm văn của các lớp 2, 3, 4, 5. Sử dụng vào vi ệc giao tiếp, ứng xử hàng ngày, Mặt khác các bài tập đọc còn là bức tranh muôn hình, muôn vẻ về đề tài thiên nhiên, xã hội phong phú, về phong tục t ập quán, l ối sống và kinh nghiệm sống. Cho nên việc đọc hiểu giúp các em càng thêm hiểu biết về con người, về đất nước trong quá khứ cũng như trong hiện tại và tương lai. Khi học phân môn Tập đọc, đặc biệt là phần đọc hiểu giúp trí tuệ của các em ngày càng được nâng cao, bồi dưỡng cho các em tình yêu, ni ềm tin trong cuộc sống. Dạy Tập đọc nói chung và dạy Tập đọc ở lớp 1 nói riêng thì vi ệc đọc hiểu sẽ giúp các em phát triển tư duy logic, rèn luyện khả năng thông hiểu ngôn ngữ, khả năng suy nghĩ lo gic và tổng hợp. Cũng như các môn học khác ở các cấp học, môn Tập đọc đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp: Lấy học sinh làm trung tâm., học sinh gi ữ vai trò chủ đạo trong quá trình học tập. Tự tìm tòi để hiểu nội dung, phát hi ện ki ến thức dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của người thầy. Với những yêu cầu quan trọng như vậy thì người thầy phải là người tổ chức linh hoạt chu ẩn b ị đ ược nhiều tình huống phong phú cho học sinh. Tránh nhồi nhét vào đầu các em những kiến thức mà chính các em không hiểu gì cả. Trong chương trình tiểu học, các bài tập đọc của lớp 1 đã đ ược ch ọn l ọc kĩ càng. Được sắp xếp theo từng chủ đề, nội dung các bài tập đọc cung cấp, bồi 4
  4. dưỡng cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu người lao đông, yêu người thân... ở xung quanh các em. Vì thế, việc đọc hiểu từng bài tập đọc nhằm trau dồi lòng hướng thi ện đạo lí, truyền thống dân tộc... II. Nội dung của sỏng kiến: 1. Nội dung chương trình sách giáo khoa Sách Tiếng Việt 1 tập 2 - phần luyện tập tổng hợp gồm: 13 tuần tiếp tục phát triển các kĩ năng nghe - đọc - nói - viết cho học sinh thông qua các bài tập đọc. Về nội dung: hầu hết các chủ điểm tập đọc lớp 1 đều được lặp lại theo logic sau: - Chủ điểm: Nhà trương - Chủ điểm: Gia đình - Chủ điểm: Thiên nhiên đất nước. 2. Những yêu cầu về kĩ năng đọc Đọc đúng và đọc rõ ràng bài văn, bài thơ đơn giản Hiểu được nghĩa các từ thông thường và ý của câu. Bên cạnh đó còn kết hợp ôn luyện vần và luyện nói. 3.Tình hình chung của việc dạy Tập đọc ở lớp 1 * Nhận thức đặc trưng phương pháp bộ môn Nhìn chung, có ý kiến của giáo viên đều cho rằng dạy t ập đ ọc ở l ớp 1 là dạy cho học sinh đọc to, đọc đúng, đọc rõ ràng là đ ạt yêu c ầu. Còn v ấn đ ề đ ọc hiểu và bước đầu đọc diễn cảm chưa chú trọng. Phần đọc hiểu còn được xem nhẹ. Vẫn đề quan trọng nhất là sách giáo khoa lớp 1 mới các bài tập đọc mới, quy trình phương pháp dạy cũng hoàn toàn mới đối với giáo viên. * Thiết kế bài dạy của giáo viên Tất cả các giáo viên đều chuẩn bị những thiết kế bài dạy m ột cách chung chung như sách hướng dẫn. Đặc biệt là phần đọc hiểu còn chưa sâu, mới chỉ đưa ra hình thức giáo viên hỏi để học sinh trả lời câu hỏi. 5
  5. Do đó, đa số giáo viên sử dụng phương pháp giảng giải là ch ủ yếu. Giáo viên tập trung vào giảng từ, giảng nội dung câu, của đoạn chính. Đôi khi vi ệc giảng từ còn chưa sát, còn lan man sa đà vào giảng văn. Ch ưa chú tr ọng đ ến việc rèn đọc hiểu cho học sinh lớp 1. Điều đó khi ến cho h ọc sinh d ễ b ị th ụ động trong việc lĩnh hội kiến thức của bài. Chất lượng đọc hiểu chưa cao, chỉ mới dừng lại ở mực độ đọc đúng. Kĩ năng đọc hiểu còn chưa cao dẫn đến kết quả đọc chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng cơ bản quan trọng. Trong tiết dạy, giáo viên chưa hướng dẫn cho học sinh tự tìm tòi khám phá cái hay, cái đẹp của các bài văn, bài thơ. Về phương pháp chưa có nhiều đồi mới. Những vấn đề mang tính khoa học cũng chưa được giáo viên nghiên cứu đầy đủ. Giáo viên chưa mạnh dạn áp dụng việc đổi mới phương pháp giảng dạy và các hình thức học tập cho học sinh. Đọc hiểu ở tiết Tập đọc theo tôi là khâu mà h ọc sinh ch ưa đ ạt đ ược hi ệu quả cao. Học sinh lớp 1, các em còn nhỏ các em chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc đọc hiểu, mà các em chỉ chú trong đ ến vi ệc đ ọc đúng, đ ọc to rõ ràng. Học sinh không dám trình bày ý kiến của mình cho người khác nghe. Hi ểu vấn đề mà không diễn đạt được để người khác nghe hiểu. Các em trả lời câu hỏi hoặc giải nghĩa từ còn lúng túng. PHẦN THỨ BA KẾT LUẬN CHUNG 1. Ý nghĩa của sáng kiến “Rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 1” đối với công tác giáo dục. 4.: Giải phỏp Từ những cơ sở lý luận trên tôi xin đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu trong giờ tập đọc cho học sinh lớp 1 như sau Trong quá trình giảng dạy, tôi đã không phủ nhận các phương pháp, nhiều hình thức tổ chức dạy học. Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, không áp đặt, không cứng nhắc. Những phương pháp đặc biệt chú trọng là những phương pháp sau: - Đọc sách, đọc tài liệu. - Mô tả. 6
  6. - Giảng giải. - Hỏi đáp. - Trực quan. - Rèn luyện theo mẫu. - Thực hành giao tiếp và tổ chức trò chơi. - Tổng kết rút kinh nghiệm. Kĩ năng đọc hiểu là một kĩ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình lâu dài. Trong những năm đầu bậc tiểu học, đặc biệt là ở lớp 1, quá trình đọc, ngày càng nâng cao. Học sinh cần phải chiếm lĩnh văn bản cả về nội dung và ngh ệ thu ật. Vì thế, cần hình thành cho học sinh các bước tìm hiểu văn bản. - Hiểu các từ, các cụm từ. - Hiểu các câu. - Hiểu các đoạn, những tập hợp câu dùng đẻ phát biểu một ý kiến trọn vẹn. - Hiểu được cả bài thơ hay bài văn. Trong hai tiết Tập đọc, để giúp các em hiểu sâu vấn đ ề t ạo nên h ững thú trong giờ học, giáo viên nên cho học sinh tự phát hiện kiến thức hoặc tự kiểm tra bạn, hoặc kiểm tra chính mình. Như phần kiểm ta bài cũ ở tiết 1, giáo viên nên cho học ính đọc một đoạng văn hoặc khổ tho mà các em yêu thích và nêu lí do tại sao em lại thích đoạng văn hay kh ổ thơ đó. Tổ ch ức cho các em ki ểm tra lẫn nhau theo nhóm nhỏ (nhóm 2) quay vào nhau để bàn bạc, thảo luận về việc đọc bài và trả lời câu hỏi có trong bài. Như thế sẽ tạo hứng thú h ọc tập cho h ọc sinh ngay từ đầu tiết học. Phần kiểm tra bài cũ cũng có thể tổ chức cho h ọc sinh đọc th ầm m ột đoạng văn, một khổ thơ, biết tìm và đặt câu hỏi trong bài để cho bạn mình trả lời. Ví dụ: Khi dạy bài: Mưu chú sẻ- Tiếng Việt 1 - t ập 2 . Giáo viên yêu c ầu học sinh đọc thầm đoạn: “Nghe vậy, Mèo... đã muộn mất rồi”. R ồi tự nêu câu hỏi để tìm hiểu sự thông minh nhanh trí của Sẻ. Học sinh s ẽ t ự h ọc đ ọc, t ự tìm 7
  7. hiểu và nêu một câu hỏi để tìm hiểu đoạng văn. Sẽ có rất nhi ều ý ki ến khác nhau, chẳng hạn: - Sẻ làm gì khi nào đặt nó xuống đất? - Mèo vừa đặt Sẻ xuống đất, Sẻ đã làm gì? - Tại sao Sẻ lại thoát khỏi miệng Mèo? Từ những ý kiến mà học sinh đưa ra, giáo viên phải tổ chức để học sinh trả lời, đồng thời kiểm tra hiểu bài của từng cá nhân học sinh. Hình thức thứ hai có thể chuyển những hoạt động bằng lời của học sinh thành các bài tập thông qua việc sử dụng vở bài tập phiếu học tập hay b ảng phụ. Ví dụ: Khi dạy bài: Quyển vở của em - Tiếng Việt 1- tập 2 (tiết 2) Giáo viên gọi 1 đến 2 học sinh đọc 2 khổ thơ đầu, cả lớp đọc thầm đ ể tìm hiểu bài qua câu hỏi: - Bạn nhỏ thấy gì khi mở quyển vở ra? Hãy ghi dấu x vào ô trống trước ý trả lời đúng. Những trang giấy trắng thơm tho, mát rượi, những dòng kẻ ngay ngắn, những hàng chữ nắn nót. Bao nhiêu trang giấy trắng. Những dòng kẻ đẹp. Giáo viên gọi 2 học sinh đọc khổ thơ cuối, cả lớp đọc thầm để tìm hiểu bài. - Chữ đẹp thể hiện tính nết của ai? Hãy nỗi ô ch ữ ở c ột A v ới 1 ô ch ữ ở cột B sao cho đúng ý trong bài. Cùng với phần kiểm tra bài cũ ở tiết 1 và phân tìm hiểu bài ở ti ết 2 thì Người CạnBốt b ột t phần Cột A Người trò ngoan Chữ đẹp thể hiện tính nết của Người cẩn thận 8
  8. củng cố bài là một yếu tố quan trọng, nó quy ết định đến vi ệc đánh giá m ức đ ộ hiểu bài của từng học sinh. Tôi đã tiến hành như sau; Khi dạy xong bài: Ngôi nhà - Tiếng Việt 1 - tập 2, tôi đặt câu hỏi: Em hãy đ ặt khác cho bài th ơ? Nhi ều học sinh đã đặt tên cho bài thơ là “Nhà em”. Hay củng cố bài: Con qu ạ thông minh - giáo viên yêu cầu học sinh - Đọc câu tả chú quạ không uống được nước? - Đọc câu văn tả chú quạ uống được nước? Hầu hết học sinh đều nắm được bài và đọc được diễn cảm nh ững câu văn đó. Để hiểu sâu bài văn, bài thơ thì học sinh phải th ực s ự là ng ười ch ủ động tìm tòi ra cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ đó. Việc tổ chức lớp học để học sinh tự phát hiện ý, phát hiện ngh ệ thu ật là yêu cầu căn bản đối với giáo viên. Trong lĩnh vực này, h ầu nh ư gioá viên ch ư a chú ý cao. Giáo viên còn nói nhiều, giảng nhiều làm cho giờ h ọc bi ến thành ti ết giảng văn. Hoặc giáo viên nêu câu hỏi để học sinh trả lời làm cho ti ết h ọc nhàm chán, không khắc sâu, không cô đọng được nội dung bài, không hiểu được từ ngữ hay, một số câu hoặc nội dung bài. Điều đó dẫn đ ến k ết qu ả gi ờ t ập đ ọc không cao. Phát hiện ý của bài: bao gồm phát hiện tình cảm chứa đựng trong bài th ực hiện việc phản ánh đời sống qua đoạn văn, khổ thơ, bài văn, bài thơ. Phát hiện tính cách nhân vật được thể hiện như thế nào? Em hãy tỏ thái độ yêu hay không yêu với các nhân vật trong bài. Qua đó giáo d ục tình c ảm thái đội cho học sinh. Bước đầu học sinh biết phát hiện nghệ thuật: bao gồm nghệ thuật dùng từ, nghệ thuật viết câu. - Nghệ thuật dùng từ: Từ láy, từ gợi tả, gợi cảm, từ chỉ mùi vị màu sắc, từ chỉ hình ảnh ... có trong bài. - Nghệ thuật viết câu: Câu văn dài, ngắn diễn tả điều gì? gợi cảm đi ều gì? Các biện pháp tu từ, nhân hoá hay so sánh. 9
  9. Bước đầu học sinh phát hiện thấy nghệ thuật miêu tả: Kể chuy ện, tường thuật, tả cảnh... Qua việc phát hiện về ý và phát hiện ngh ệ thuật, h ọc s ẽ c ảm nh ận đ ược cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ. Khi dạy đọc hiểu cho học sinh ở tiết 2 vẫn ti ếp t ục nhi ệm v ụ luy ện đ ọc kết hơp với nhiệm vụ giúp học sinh nhớ, hiểu được nội dung bài. Nh ớ được nội dung bài là sự khởi đầu của việc hiểu bài. Quá trình hiểu một bài gồm nhiều bước, với nhiều thao tác tư duy. Giáo viên không nên nôn nóng bắt học sinh chưa kịp nhớ nội dung bài đã phải phân tích tổng hợp, khái quát hoá... Các yếu tố trong bài để tìm ra ý nghĩa bài (ở các tầng bậc khác nhau) Đây là công việc của các lớp học và bậc học sau này. Việc nhớ và hiểu nội dung bài được kết hợp chắt chẽ với việc luy ện đọc nhiều lần văn bản. Vì thế việc đọc lưu loát cũng là một nhi ệm v ụ r ất quan trọng, nó giúp cho các em đọc hiểu về nội dung một câu, một đoạn trong bài. Cần yêu cầu các em đọc nhiều lần đoạn, câu văn đó (đọc thành tiếng, đọc thầm) sao cho thông thạo (không phải nhẩm vần). Ch ỉ khi học sinh đ ược gi ải phóng khỏi việc giải mã văn tự để chuyển thành âm thanh ngôn ngữ, t ư duy c ủa các em mới có điều kiện kiểm soát nội dung của câu, của đoạn. Ở các lớp có nhiều học sinh yếu, giáo viên nên để thời gian dài hơn cho việc luyện đọc. Phần hỏi về nội dung bài có thể chưa thu ngắn l ại (trong một vài tr ường hợp có thể thu ngắn lại) thay câu hỏi sách giáo khoa bằng câu hỏi khác đơn giản hơn, để các em dễ tìm hiểu hơn hoặc lược bớt câu h ỏi trên t ổng s ố hai ho ặc ba câu hỏi trong bài. Ví dụ: - Để hỏi câu: “Ai dắt em bé tập đi men ngưỡng cửa?” trong bài Ngưỡng cửa - Tiếng Việt 1 - tập 2, giáo viên cho vài em đọc đi đọc lại kh ổ th ơ 1 rồi m ới đ ặt câu hỏi. 10
  10. - Để học sinh trả lời được câu hỏi: “Khi bị đứt tay cậu bé có khóc không?” trong bài: Vì bây giờ mẹ mới về - Giáo viên cho nhi ều h ọc sinh đ ọc l ại câu “Khi cậu bé cắt bánh bị đứt tay nhưng không khóc” rồi mới nêu câu hỏi. Sau bước tìm hiểu nội dung bài thì yêu cầu một vài h ọc sinh đọc l ại bài với yêu cầu cao hơn: đọc hay, đọc diễn cảm. Từ việc đọc diễn cảm bài văn, bài thơ giúp cho các em hiểu bài sâu hơn. Với các bài tập đ ọc là th ơ th ường có yêu cầu học sinh học thuộc lòng. Giáo viên hướng dẫn học sinh học thuộc lòng ngay tại lớp. Trong hai tiết dạy Tập đọc, thông thường giáo viên chỉ chú trọng đến việc làm thế nào để các em biết đọc đúng, đọc to cả bài mà bỏ qua việc đọc hiểu bài văn hay bài thơ. Cách giải nghĩa từ, giảng nội dung từng câu hay đoạn, bài còn mang tính gò bó, mang tính khuôn mẫu. Vì thế làm hạn chế óc tưởng tượng phong phú của các em. Trong tiết Tập đọc để phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, khâu chuẩn bị bài, thiết kế bài dạy rất quan tr ọng, d ựa trên c ơ s ở của các phương pháp truyền thống, tôi đưa ra nhưng định hướng đổi mới các hoạt động, hình thức dạy - học như sau: * Phần kiểm tra bài cũ: - Học sinh tự kiểm tra lẫn nhau. * Phần bài mới: - Giới thiệu bài bằng tranh, ảnh hoặc vật thật để gây hứng thú trong giờ học cho học sinh (tuy nhiên ở phần này giáo viên phải đầu tư cho sự chuẩn bị, phải tìm tòi). - Luyện đọc: + Đọc tiếng, từ: Cho học sinh tự phát hiện từ khó đọc, tự giải thích từ khó theo sự hiểu biết của mình. + Tìm hiểu bài: Tuỳ theo từng bài mà giáo viên tổ ch ức các hình th ức khác nhau để học sinh tìm hiểu. Ở đây, tôi cho học sinh trả lời câu hỏi để tìm hi ểu bài dưới hình thức sử dụng bảng phụ (nội dung như vở bài tập Tiếng Việt) để học 11
  11. sinh dễ dàng nhận ra được nội dung phần trả lời của câu hỏi (đối với học sinh trung bình). Với mức độ học sinh khá, giỏi tôi cho các em đọc một đoạn văn hay bài thơ rồi đặt câu hỏi cho bạn trả lời, hay tự đọc câu văn diễn tả ý. Với mức độ học sinh trung bình của lớp, khi tìm hiểu bài tôi cho h ọc sinh đọc kĩ câu văn, đoạn văn hay dòng thơ, kh ổ th ơ trả lời cho n ội dung câu h ỏi r ồi mới đặt câu hỏi để các em trả lời. * Phần củng cố, dặn dò: - Học sinh đọc khổ thơ hay đoạn văn mà mình yêu thích lý do mà mình yêu thích? - Học sinh kể lại chuyện cho các bạn nghe (tuỳ theo từng bài Tập đọc). * Ví dụ: Khi dạy bài: Vì bây giờ mẹ mới về - Tôi tiến hành soạn giảng như sau: (A) Mục đích yêu cầu: - Học sinh đọc trơn cả bài. Chú ý tự phát hiện tiếng khó và phát âm. - Biết nghỉ hơi đúng ở chỗ có dấu chấm, dấu phẩy, biết đọc cao giọng, vẻ ngạc nhiên ơ râu có dấu chấm hỏi. - Ôn lại các vần: ưt, ưc. Khắc sâu vần, cấu tạo vần. Tìm được ti ếng, nói được câu chứa tiếng có vần ưt, ưc. - Hiểu được nội dung bài Tập đọc, luyện nói tự nhiên theo chủ đề. - Rèn kĩ năng đọc, nói đúng tốc độ. - Thái độ tích cực học tập. (B) Đồ dùng dạy học: - Giáo viên: +Tranh vẽ một em bé cắt bánh bị đứt tay nhưng không khóc (tranh v ẽ phóng to từ sách giáo khoa). + Bộ thực hành biểu diễn Tiếng Việt. - Học sinh: + Bộ thực hành Tiếng Việt, sách giáo khoa. (C) Các hoạt động dạy - học: (1) Kiểm tra bài cũ: 12
  12. - Đọc một khổ thơ mà em yêu thích trong bài “Quà của bố”? Vì sao em thích khổ thơ ấy? - Tự kiểm tra: Kiểm tra đọc (từng cặp học sinh cùng bàn) quay mặt vào nhau để kiểm tra. - Giáo viên nhận xét mực độ hiểu bài của học sinh và đánh giá ghi điểm. (2) Bài mới: - Giới thiệu bài: Giáo viên theo tranh để giới thiệu + Tranh vẽ gì? (học sinh quan sát tranh và trả lời) + Giáo viên chỉ vào tranh nói: Tranh vẽ cậu bé cắt bánh bị đứt tay nhưng không khóc. Chúng ta hãy đoán xem điều gì xảy ra khi mẹ cậu ta về? Cô cùng các em đọc và tìm hiểu bài: Vì bây giờ mẹ mới về. - Luyện đọc: + Giáo viên đọc mẫu lần 1: Đọc giọng người mẹ hoảng hốt khi thấy cậu bẽ khóc oà lên, giọng ngạc nhiên khi hỏi “Sao bây giờ con mới khóc?” Giọng cậu bé nũng nịu. + Giáo viên nêu câu hỏi: Bài văn gồm có mấy câu? rồi khoanh tròn dưới những dấu câu có trong bài. - Học sinh luyện đọc + Đọc tiếng, từ. Tìm trong bài những tiếng, từ khó đọc? (cắt bánh, đ ứt tay, hoảng hốt...) + Đọc câu: Giáo viên hướng dẫn đọc liền câu. + Đọc đoạn, bài: Giáo viên hướng dẫn cách ngắt, nghỉ đúng dấu câu - Ôn các vần ưt, ưc: + Học sinh tìm tiếng có vần cần ôn trong bài, ngoài bài (khuy ến khích các em tìm được nhiều tiếng, từ, đồng thời giúp các em hiểu được nghĩa c ủa t ừ v ừa tìm) + Học sinh nói câu có tiếng chứa vần ưt, ưc. Giáo viên cho h ọc quan sát tranh, nói câu mẫu, từ đó tự các em sẽ nói câu theo ý hi ểu c ủa mình (t ổ ch ức nói trong nhóm, tự kiểm tra sau đó lên trình bày trước lớp. giáo viên uốn nắn, sửa sai và động viên những học sinh có câu nói hay...) 13
  13. - Tiết 2: Ngoài việc rèn kĩ năng đọc đúng, đọc lưu loát đọc rõ ràng tiến tới đọc diễn cảm toàn bài thì giáo viên cần tạo h ứng thú cho h ọc sinh qua vi ệc tìm hiểu nội dung bài. Vì khi các em đã đọc được tốt rồi, lại được hiểu kĩ v ề nội dung bài thì chắc chắn khi được gọi đọc lại bài các em sẽ đọc tốt hơn. Do đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa việc hiểu nội dung bài với việc luy ện đ ọc nhi ều l ần văn bản. Trước khi đặt câu hỏi tôi thường vho học đọc nhiều l ần đo ạn văn chứa nội dung trong câu hỏi đó để giúp các em có trọng tâm cho câu trả lời. - Phần tìm hiệu nội dung, câu hỏi 1 tôi gọi theo nhóm t ự nêu câu h ỏi t ự trả lời. Câu hỏi 2, tôi treo bảng phụ để cả lớp cùng quan sát để tìm ra ý đúng. + Lúc nào cậu bé mới khóc? Vì sao? Đánh dấu vào ô trông trước ý đúng: Mẹ về cậu mới khóc, vì bây giờ cậu mới thấy đau. Mẹ về cậu mới khóc, vì cậu làm nũng mẹ. - Học sinh thảo luận đưa ra câu trả lời đúng. Giáo viên đ ọc l ại câu tr ả l ời đầy đủ để khắc sâu kiến thức. giáo viên gọi học sinh khá, giỏi đọc những câu hỏi có trong bài. Lưu ý giọng đọc: cao giọng ở mỗi câu hỏi, gi ọng h ốt ho ảng lo lắng...: + Con làm sao thế? + Đứt khi nào thế? + Sao bây giờ con mới khóc? - Cuối giờ, học sinh đọc phân vai, mỗi nhóm 3 h ọc sinh: ng ười dẫn chuyện, mẹ, cậu bé. - Sau khi mỗi nhóm trình bày, các nhóm khác nh ận xét, b ổ sung. Qua ph ần này sẽ góp phàn củng cố thêm cho học sinh hiểu nội dung sâu hơn. - Phần củng cố bài, học tự liên hệ: Con có giống bé ở trong bài không? Vì sao? II. MỘT SỐ LƯU Ý TRONG QUÁ TRÌNH RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH. Trong thực tế giảng dạy, chúng ta gặp rất nhiều những đối t ượng h ọc sinh khó khăn khi tìm hiểu nội dung bài. Khi đó giáo viên ph ải có kế hoạch rèn kĩ năng cho từng đối tượng học sinh. Phải thể hiện rõ ở bài soạn: câu h ỏi dành cho học sinh khá, giỏi, học sinh trung bình, học sinh yếu để từ đó có bi ện pháp 14
  14. uốn nắn. Giáo viên cần phải biết động viên, tránh sự nôn nóng đ ể t ạo h ứng thú cho các em trong việc tự rèn tìm ra kiến thức mới. Đối với những học sinh còn lúng túng khi tìm câu trả l ời thì giáo viên c ần có câu hỏi gợi mở hoăc cho học sin khá giỏi nói trước, rồi cho h ọc sinh y ếu nhắc laij. Có những học sinh hiểu được ý, nhưng khi diễn đạt bằng lời thì l ại lúng túng và khi đó giáo viên phải tích cực gọi nhiều lần để khuyến khích tính bạo dạn ở các em... Đối với những học sinh tiếp thu chậm, giáo viên cần chú ý đ ến các hình thức tổ chức hoạt động, đưa ra yêu cầu phù h ợp với đ ối t ượng đ ể các em hăng hái, tích cực học tập. Nếu học sinh trả lời ch ưa đúng, hoặc thi ếu ý thì giáo viên cũng không nên khiển trách ngay mà phải nhẹ nhàng, hướng dẫn để các em khôn tự ti, mặc cảm với các bạn khác. Kết hợp với gia đình động viên các em chăm đọc bài và chuẩn bị nội dung bài trước khi đến lớp. Trong gi ờ truy bài phân công học sinh khá kiểm tra học sinh yếu, nội dung bài là ôn bài cũ và chuẩn bị bài mới. Cần khuyến khích các em có nhu cầu đọc qua sách báo, truy ện tranh thi ếu nhi. Giáo viên thấy được những tiến bộ rõ rệt của học sinh qua việc các em tự kể lại theo ý hiểu cho các bạn nghe câu chuyện mình vừa đọc. Hay trong các giờ tự học, giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua lẫn nhau k ể chuy ện, tìm hi ểu n ội dung truyện hoặc bài Tập đọc... qua đó để học sinh tự h ọc tập, phát huy kh ả năng của bản thân mình. * Trò chơi học tập Để gây hứng thú cho học sinh, làm cho giờ học sôi nổi hơn, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tham gia một số trò chơi theo nguyên t ắc: “H ọc mà chơi, chơi mà học”. Thông qua các hình thức tổ chức hoạt đoọng vui chơi, h ọc sinh được vui chơi được củng cố các kiến thức đã học, tạo điều kiện cho học sinh được rèn kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nghe - nói. Từ đó kích thích kh ả năng ứng xử ngôn ngữ của học sinh. Rèn tư duy linh hoạt, tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin cho học sinh. Giáo dục tư tưởng lành mạnh, tình c ảm t ốt đ ẹp cho h ọc sinh (qua các tổ chức mang tính tập thể). 15
  15. Một số trò chơi đa dạng về hình thức như: Thi đọc ti ếp s ức, th ả th ơ, đ ọc bài truyền điện, dọc đúng đọc hay, đọc hiểu, giải ô ch ữ... Tuỳ t ừng bài mà giáo viên lựa Ngoài ra có thể tổ chức các hình thức ngoại khoá Tiếng Việt như: Nhóm Tiếng Việt, góc Tiếng Việt, trò chơi ngôn ngữ ... để phục vụ cho bài đọc một cách tốt nhất. IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Tôi tiến hành thực hiện những biện pháp, những kinh nghi ệm t ừ đ ầu năm học, sau khi khảo sát chất lượng đầu năm. Quá trình th ực hi ện các bi ện pháp đã nêu là quá trình lâu dài trong năm học và có sự đi ều ch ỉnh n ếu các bi ện pháp đó còn bất hợp lý đối với đối tượng học sinh. Tôi dự kiến sẽ tiến hành khảo sát chất lượng vào dịp cuối học kì II đ ể có căn cứ đánh giá hiệu quả của kinh nghiệm sau khi thực hiện từ đầu năm học. 16
  16. Tập đọc là môn học thực hành Tiếng Việt. Dạy Tập đ ọc chính là d ạy một kĩ năng, cần coi trọng kĩ năng đọc hiểu cho học sinh, coi vi ệc rèn kĩ năng là nhiệm vụ trọng tâm của bài. Giáo viên cần tổ chức cho học sinh b ằng nhi ều hình thức hoạt động: phiếu học tập cá nhân, bảng phụ đóng vai, đàm thoại, k ể chuyện... Trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu muốn phát huy tính tích cực h ọc t ập c ủa họ sinh, giáo viên cần tạo mọi điều kiện cho các em được “t ự b ộc l ộ” năng l ực nhận thức và thực hành luyện tập kĩ năng đọc hiểu với s ự h ỗ trợ c ủa b ạn bè và cô giáo. Cần tránh dạy thụ động: Thầy cứ giảng, cứ đọc còn trò cứ ngồi nghe mà các em phải suy nghĩ, nói lên ý nghĩ đó, được trả lời theo ý hiểu c ủa mình. Thầy cô chỉ là người hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức, giúp các em t ự tìm ra ki ến thức mới. Giáo viên nên quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt những em nhút nhát, lúng túng khi trả lời... Ngoài ra, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, vượt khó, tìm tòi sáng tạo và phải có tinh th ần trách nhi ệm cao, lòng say mê với công việc. Mặt khác, giáo viên phải nắm chắc mục tiêu, phương pháp giảng d ạy b ộ môn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, cải tiến sao cho phù hợp với từng bài dạy cụ thể để học sinh nào cũng có thể hiểu bài, nắm chắc nội dung bài. Giáo viên cần khéo léo, khuyến khích động viên khen th ưởng k ịp th ời đ ối với những học sinh có tiến bộ, phát huy được khả năng phát triển tư duy t ạo cho không khí lớp học sôi nổi, hào hứng. Có như vậy thì giờ h ọc m ới đạt hi ệu quả cao. Giáo viên cần kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục đó là: Nhà trường, gia đình, xã hội để tạo điều kiện cho học sinh có điều kiện thuận l ợi phục vụ cho việc học tập. Giáo viên cũng thường xuyên trao đổi v ới cha m ẹ học sinh để khắc phục những nhược điểm mà học sinh còn mắc phải trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu. 17
  17. Giáo viên biết vận dụng, kết hợp hài hoà các điều ki ện th ực hi ện th ường xuyên, liên tục thì việc rèn kĩ năng đọc hiểu của học sinh sẽ đạt kết quả cao, tạo đà cho học sinh học tốt các môn học khác và học tiếp lên các lớp trên. 2. Những nhận định chung về khả năng áp dụng của vi ệc “Rèn k ỹ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 1” trong giờ Tập đọc. Qua nghiên cứu, thực hành dạy “đọc hiểu” trong giờ Tập đ ọc cho h ọc sinh lớp 1 theo chương trình và sách giáo khoa mới tôi nhận thấy: - Kết quả đọc hiểu của học sinh bước đầu được nâng cao c ả v ề ch ất lượng và số lượng. Qua đó, tôi thấy đây là việc làm thiết thực và h ết s ức quan trọng để nâng cao chất lượng học tập toàn diện cho học sinh. - Học sinh được phát huy tính tích cực, ch ủ động, sáng tạo trong gi ờ h ọc. Các em có ý thức tự giác trong việc tự phát hiện, tìm tòi nội dung kiến thức mới. Mặt khác, các em còn thi đua đọc hay, đọc đúng và đọc hiểu để từ đó có đi ều kiện giao tiếp và học giao tiếp. - Giáo viên thường xuyên quan tâm, uốn nắn để kĩ năng đọc – nói và trả lời của học sinh. Đánh giá, nhận xét và tuyên dương kịp th ời để khích l ệ vi ệc học tập. Để từ đó, các em có lòng say mê hơn trong học tập. 3. Những ý kiến đề xuất để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Giáo viên cần học hỏi, tiếp thu, nghiên cứu tài liệu th ực hành đổi m ới các phương pháp rèn đọc hiểu trong giờ Tập đọc cho học sinh. Nhà trường thường xuyên tổ chức các cuộc thi “đọc đúng, đọc hay và đ ọc hiểu” cho cả giáo viên và học sinh. Động viên khen th ưởng k ịp th ời đ ối v ới các lớp và giáo viên làm tốt phong trào này. Thông qua giáo dục cần tổ chức các chuyên đề phổ biến kinh nghiệm “Rèn đọc hiểu trong giờ Tập đọc”. Trên đây là một số kinh nghiệm rèn đọc hiểu cho học sinh lớp 1 trong gi ờ Tập đọc. Với khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu chưa nhiều và th ời gian thực nghiệm đang tiến hành thực hiện, chắc chắn còn nhiều khi ếm khuy ết. R ất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp giúp cho kinh nghiệm của tôi thêm hoàn thiện hơn. 18
  18. Hoà Sơn, ngày 15 tháng 05 năm 2008 Người viết Trần Thị Mai Hoa 19
nguon tai.lieu . vn