Xem mẫu

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm Ngày nay xu hướng hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực kể cả lĩnh vực giáo dục đã đưa tiếng Anh lên một vị trí hết sức quan trọng. Tiếng Anh là công cụ giao tiếp là chìa khóa dẫn đến kho tàng nhân loại. Mặt khác việc ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin đã làm cho việc học tiếng Anh trở thành cấp bách và không thể thiếu. Vì vậy việc học tiếng Anh của học sinh các cấp nói chung, cấp Tiểu học nói riêng được học sinh, phụ huynh học sinh, giáo viên, đặc biệt là Phòng GD&ĐT huyện Quảng Ninh hết sức quan tâm. Tiếng Anh đã trở thành môn học chính yếu trong chương trình học của học sinh. Việc học và sử dụng tiếng Anh đòi hỏi cả một quá trình luyện tập cần cù sáng tạo của cả người học lẫn người dạy. Đặc biệt trong tình hình cải cách giáo dục như hiện nay, dạy tiếng Anh theo hướng giao tiếp được nhiều người ủng hộ. Theo phương pháp này học sinh có nhiều cơ hội để giao tiếp với bạn bè, với giáo viên để rèn luyện ngôn ngữ, chủ động tích cực tham gia vào các tình huống thực tế: Học đi đôi với hành. Bởi vậy hệ thống các môn học trong nhà trường hiện nay là hướng tới những vấn đề cốt lõi thiết thực đó. Bộ môn Tiếng Anh tuy đưa vào phổ biến muộn hơn so với các môn học khác ở nhà trường nói chung và Trường tiểu học Hải Ninh nói riêng, nhưng nó là chìa khóa mở ra kho tàng tri thức nhân loại. Nó là người hướng đạo đưa ta tới với Thế giới bắt tay với bạn bè năm châu, tiếp thu và lĩnh hội những tinh hoa nhân loại. Tuy nhiªn viÖc häc bé m«n TiÕng Anh ë c¸c Trêng tiểu học nãi chung vµ Trường Tiểu học Hải Ninh nãi riªng cßn gÆp rÊt nhiÒu khã kh¨n ®Æc biÖt lµ trong viÖc häc vµ sö dông tõ vùng vµ c¸c mẫu câu TiÕng Anh. V× vËy d¹y cho häc sinh c¸ch häc, luyÖn tËp vµ sö dông mẫu câu TiÕng Anh lµ ®Ó cung cÊp cho häc sinh mét kho tµng tõ ®iÓn sèng vÒ ng«n tõ vµ cÊu tróc c©u, lµ mét yªu cÇu rÊt cÇn thiÕt trong viÖc häc TiÕng Anh ®Æc biÖt đối víi nh÷ng häc sinh míi lµm quen víi m«n häc TiÕng Anh. Hiện nay Tiếng Anh được coi như là một công cụ để giao tiếp đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ, cho nên việc học từ vựng là một tất yếu không thể không kể đến trong việc học tiếng Anh. Nhưng đa phần, học sinh chưa hiểu hết tầm quan trọng của từ vựng nên rất lười học hoặc chỉ học qua loa rồi không sử dụng được nó , trong đó học sinh tiểu học cũng không ngoại lệ, với lượng kiến thức mới mà nó khác xa với tiếng mẹ đẻ như thế thì học sinh rất sợ học. Do vậy người giáo viên phải làm gì để từ vựng không còn là “ nổi khó khăn “của học sinh , suy nghĩ ấy cứ làm tôi trăn trở mãi, với vài năm 1 đứng lớp gặp không biết bao nhiêu lần học sinh không thuộc từ vựng , viết sai , hiểu sai câu và không dịch được. Lµm thÕ nµo ®Ó c¸c em cã ®îc mét vèn cÊu tróc cÇn thiÕt vµ cã thÓ sö dông ®îc cÊu tróc cña m×nh mét c¸ch cã hiÖu qu¶ nhÊt. Năm học 2014 ­2015 tôi đảm nhận dạy học bộ môn tiếng Anh từ khối 4, khối 5. Từ thực tế của đơn vị tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm “ Một số biện pháp dạy từ vựng môn Tiếng Anh ở Tiểu học” 1.2. Điểm mới của sáng kiến Trong việc dạy Tiếng Anh, giúp học sinh học được từ vựng, nói rõ ràng, nghe tốt là một hoạt động dạy không thể thiếu trong một tiết học nào. Việc học học từ vựng không chỉ đơn thuần là việc giúp học sinh học một cách chung chung mà còn là việc giúp các em luyện từ, luyện câu một cách chính xác và áp dụng từ trong giao tiếp bằng Tiếng Anh. Vì vậy, việc tìm ra những cách thức giúp các em nhớ tốt và phát âm tốt là nhiệm vụ của mỗi giáo viên với mục đích giúp học sinh hiểu, phát âm tốt. Trên thực tế để có được kỹ năng nghe, nói tiếng Anh thì người học ngoại ngữ phải có quá trình học từ vựng, luyện tập nghe, nói thường xuyên, lâu dài với những hình thức và nội dung khác nhau. Việc dạy và học môn tiếng Anh tuy không còn mới mẽ nhưng khó đối với tất cả giáo viên và học sinh nhất là học sinh ở vùng khó khăn.Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ phần nào giúp giáo viên dần khắc phục những khó khăn trên để tiến hành dạy môn tiếng Anh có hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực, chủ động trong việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức của bài học. Đó cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này. B. NỘI DUNG 2.1 Thực trạng của nội dung nghiên cứu Nhằm bắt kịp với xu thế hội nhập toàn cầu, ngành giáo dục Việt Nam đang ngày một hội nhập cùng thế giới. Hiểu rõ tầm quan trọng của giáo dục hiện đại là đào tạo ra những con người có thể bắt kịp xu thế hội nhập toàn cầu. Ngoại ngữ nói chung, Tiếng Anh nói riêng là công cụ đắc lực cho quá trình hội nhập. Nhiều công ty nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam, số người nước ngoài đến du lịch, làm việc ở nước ta ngày càng nhiều. Bên cạnh đó thì số học sinh Việt Nam du học nước ngoài cũng tăng một cách đáng kể và theo một thống kê gần đây đã công bố rằng: du học sinh của Việt Nam không kém các học sinh, sinh viên của nước khác về tiếp nhận kiến thức, nghiên cứu khoa học, ý thứ tự học. Tuy nhiên, đa số du học sinh Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong học tập và sinh hoạt ở nước ngoài do vốn ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, còn rất hạn chế. Thế nhưng làm thế nào để chuẩn bị tốt kiến 2 thức ngoại ngữ thì có lẽ đa số học sinh phải chuẩn bị Tiếng Anh ngay từ khi ở bậc tiểu học. Việc cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực, phát huy tính chủ động sáng tạo và năng lực tự học của học sinh là giải pháp cơ bản để nâng cao giáo dục. Chính vì vậy Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tập trung đổi mới chương trình dạy và học Tiếng Anh. Theo phương pháp cũ, giáo viên làm trung tâm, các em ghi chép thụ động từ và mẫu câu rồi sau đó về nhà học thuộc lòng sẽ không tạo khả năng tư duy và sáng tạo phong phú của các em. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy, việc thiết kế chương trình giảng dạy cũng phải phù hợp cho từng đối tượng học sinh của từng bậc học. Như vậy, tạo được khả năng tư duy và phát triển khả năng học tập một cách độc lập, tạo niềm say mê, thích thú cho cả thầy và trò trong quá trình giảng day và học tập môn Tiếng Anh. Nhiều phương pháp dạy­học được đưa ra trong ngành giáo dục nhằm khắc phục những hạn chế mà ngành đang đối mặt. Song các vấn đề đã đưa ra còn mang nặng lý thuyết chung chung và tập trung phần lớn ở các cấp học cao. Quan tâm tới phương pháp dạy­học của bậc tiểu học đang là vấn đề cấp thiết mang tính nền tảng lâu dài cho việc lên các cấp học sau này. Để trẻ học tốt môn Tiếng Anh và quan trọng là vận dụng được để trẻ phát triển khả năng giao tiếp Tiếng Anh tốt trong các cấp học sau này. Trong vài năm gần đây, một số trường cũng đã sử dung nhiều bộ sách Tiếng Anh của Bộ GD­ĐT , Nhà xuất bản Singapore, Trường đại học Oxford … để vừa phù hợp với khả năng thu nhập kinh tế của từng vùng và vừa phù hợp trình độ tiếp thu của trẻ. Hơn nữa việc giao tiếp của trẻ ở những vùng nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế. Đồng hành cùng với việc thay sách, đổi mới chương trình và phương pháp dạy và học, tôi nhận thấy việc hạn chế trong giao tiếp của học sinh ở vùng nông thôn là do việc ít được giao tiếp bằng Tiếng Anh nên các em ít nhớ được từ. Muốn giao tiếp được bằng Tiếng Anh đòi hỏi học sinh song song với việc rèn luyện các kĩ năng là học từ vựng và có vốn từ vựng nhất định. Đối với học sinh ở bậc tiểu học, nội dung kiến thức và mẫu câu không nhiều, nhưng đòi hỏi các em phải có một lượng từ vựng nhất định để thực hành và tham gia một số trò chơi. Tiếng Anh ở bậc tiểu học vẫn là môn học tự chọn nên một số phụ huynh lẫn học sinh không quan tâm dẫn đến việc các em ít học từ vựng và nhớ từ. Chính vì điều đó đã gây cho tôi sự trăn trở là phải tìm ra phương pháp giúp đỡ các em học từ, nhớ từ lâu. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Một số thủ thuật giúp học sinh nhớ từ vựng môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học” với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tiếng Anh cho các em học sinh tiểu học. * Thực trạng của trường Tiểu học Hải Ninh Thuận lợi 3 Trường tiểu học Hải Ninh vừa được công trường học đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1 và được các bậc phụ huynh học sinh nhiệt tình ủng hộ trong việc nâng cao dân trí. Do đó đầu năm học 2014 – 2015 Nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi trong việc giảng dạy môn Tiếng Anh và sắp xếp cùng học chung phòng học với phòng Tin học. Mua sắm trang thiết bị loa, máy Easy Talk, TV đa năng. Với sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong công tác giảng dạy của mình. Chương trình sách giáo khoa có nội dung kiến thức phù hợp với thực tế cuộc sống học sinh và có nhiều tranh ảnh đẹp, dễ bắt mắt, tạo niềm hứng thú cho học sinh. Sự phát triển của công nghệ thông tin giúp giáo viên có được nhiều nguồn tư liệu, hình ảnh qua mạng Internet. Giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm trong công tác giảng dạy môn Tiếng Anh. Khó khăn Bộ môn Tiếng Anh ở trường tiểu học Hải Ninh vừa mới đưa vào giảng dạy 5 năm gần đây nên học sinh chưa chú trọng trong việc học tập. Mặt khác phụ huynh chưa hiểu được tầm quan trọng của bộ môn Tiếng Anh nên chưa quan tâm đến việc học ở nhà của con em mình. Trường Tiểu học Hải Ninh nằm trên địa bàn dài và hẹp nên học sinh đi lại còn gặp nhiều khó khăn, có em phải đi quảng đường dài hơn 6 km để đến trường. Người dân ở đây đa số sinh sống bằng nghề đánh bắt cá trên biển, một số lại đi làm ăn xa nên điều kiện chăm sóc con em học tập chưa được thường xuyên. Thêm vào đó điều kiện trường còn khó khăn nên việc mua sắm trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học phần nào chưa đáp ứng được với mục tiêu bài giảng. Tổng số lớp học Tiếng Anh gồm 12 lớp với số học sinh là 322 em. Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh tiểu học mỗi tuần 04 tiết, mà hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Nhưng muốn dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, giáo viên phải làm tranh ảnh, đồ dùng để minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học. Về phía học sinh, bên cạnh một số em học tập nghiêm túc, nhưng cũng không ít học sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công. Bên cạnh đó rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của học sinh. Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo 4 viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh. 2.2. Các giải pháp * Khảo sát thực tế: Sau khi phân tích những nguyên nhân làm cho học sinh sợ học tiếng Anh, thường xuyên không thuộc bài và việc dạy từ vựng ở trường Tiểu học chưa đạt hiệu quả cao. Cụ thể vào đầu năm học khi nhận giảng dạy tiếng Anh, sau vài tiết học đầu tiên, tôi cho học sinh lớp 5 khảo sat chất lượng cụ thể như sau: Lớp TSHS Điểm 9­10 Điểm 7­8 Điểm 5­6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % 5A 24 0 0 7 29,2 10 41,6 7 29,2 5B 24 0 0 8 33,3 8 33,3 8 33,3 5C 24 0 0 7 29,2 10 41,6 7 29,2 5D 24 0 0 8 33,3 9 37,5 7 29,2 Với kết quả như thế, tôi đưa ra một số biện pháp thực hiện như sau. 1. Lựa chọn từ để dạy: Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. Khi nói đến ngữ liệu môi là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khăng khích với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: Từ chủ động (active vocabulary) Từ bị động (passive vocabulary) Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form. + Meaning. + Use. 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn