Xem mẫu

  1. SÁCH NHẠC DÀNH CHO NGƯỜI HẦU VIỆC LÝ THUYẾT ÂM NHẠC NHẠC LÝ CĂN BẢN DÀNH CHO NGƯ ỜI ĐÁNH ĐÀN DÀNH CHO NGƯỜI HÁT DÀNH CHO NGƯỜI HƯỚNG DẪN CẨM NANG DÀNH CHO NGƯỜI PHỤC VỤ 1
  2. MỤC LỤC NHẠC LÝ CĂN BẢN Trang 3-21 I. KÝ HIỆU ÂM NHẠC Trang 4-13 II. TIẾT TẤU. Trang 13-17 III. TIẾT NHỊP Trang 18-19 IV. CUNG VÀ QUÃNG Trang 20-21 DÀNH CHO NGƯỜI ĐÀN Trang 22-trang 37 V. PHƯƠNG PHÁP NHẬN BIẾT HỢP ÂM. Trang 23-29 VI. MỘT SỐ CÁC HỢP ÂM CĂN BẢN VÀ NÂNG CAO. Trang 31-32 VII. CÁC CÁCH BỎ TIẾT ĐIỆU VÀ TỐC ĐỘ NHẠC Trang 33-34 VIII. CÁCH TÌM HỢP ÂM CHO MỘT BẢN NHẠC Trang 34 -37 DÀNH CHO NGƯỜI HÁT Trang 38 -trang 46 IX THANH NHẠC VÀ CÁCH HÁT Trang 39-46 DÀNH CHO NGƯỜI HƯỚNG DẪN Trang 47 - trang 49 X. KIẾN THỨC TỔNG QUÁT Trang 47 XI. KỸ THUẬT TẬP HÁT VÀ HUẤN LUYỆN HỢP CA Trang 47-48 XI. MỘT VÀI KỸ THUẬT ĐÁNH NHỊP CĂN BẢN Trang 49 XII. LỜI KẾT Trang 49 2
  3. NHẠC LÝ CĂN BẢN 1. Muốn hiểu ngôn ngữ viết, tối thiểu ta phải biết đánh vần, đọc chữ. Tương tự như vậy, muốn xem và hiểu một bản nhạc, ta cũng phải hiểu được các ký hiệu âm nhạc, và biết xướng âm. Có thể nói Nhạc pháp (gồm nhạc lý và xướng âm) là cửa ngõ dẫn vào âm nhạc. 2. Âm nhạc là một bộ mộn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn đạt tình ý của con người. Nó được chia ra hai loại chính, đó là thanh nhạc và khí nhạc. Thanh nhạc là âm nhạc dựa trên lời ca, nên ý tưởng và tình cảm cụ thể và rõ ràng. Còn khí nhạc là âm nhạc dựa trên âm thanh thuần tuý của các nhạc cụ, nên trừu tượng, nó gợi ý, gây cảm giác hơn là nói lên một tình cảm nào rõ rệt. Cần phải học hỏi nhiều hơn mới lĩnh hội được. 3. Nghệ thuật là kết quả của hoạt động của con người biết dùng các phương tiện âm thanh. một cách khéo léo, tài tình, để thông đạt tình ý của mình. Do đó, âm nhạc chủ yếu làm cho tai nghe. Muốn thưởng thức âm nhạc, phải nghe thực thụ chứ xem bằng mắt thì chưa đủ. 4. Âm thanh dùng trong âm nhạc thường có bốn đặc tính sau : Cao độ là độ cao thấp của âm thanh (được phân thành 7 nốt cơ bản Đồ, Re, Mi, Fa, Sol, La, Si). Cường độ là độ mạnh nhẹ của âm thanh. Trường độ là độ dài ngắn của âm thanh (ký hiệu bằng các hình nốt) Âm sắc là các sắc thái khác nhau của âm thanh đục trong, sáng tối … (ví dụ như khúc đó, nốt đó cần đánh chậm buồn hay là nhanh vui tươi) Thiếu một trong các đặc tính trên thì chỉ là tiếng động. Hiện nay người ta dùng nhiều tiếng động khác nhau trong âm nhạc, nhằm tăng cường mức độ diễn cảm cũng như tính tiết tấu của âm nhạc. Đó là các nhạc cụ thuộc bộ gõ như trống con, trống cái, phách, maracas, triangle, cymbal … 5. Ký hiệu âm nhạc là toàn bộ các dấu hiệu cũng như chữ viết được dùng để ghi lại âm thanh với các đặc tính của chúng. Môn ký âm là ghi âm thanh lại bằng các ký hiệu âm nhạc trên giấy mực. 3
  4. I. CÁC KÍ HIỆU ÂM NHẠC Để ghi lại âm thanh cao thấp, dài ngắn... người ta dùng các kí hiệu ghi nhạc. A. KHUÔNG NHẠC Muốn ghi cao độ tuyệt đối của các âm thanh, người ta dùng đến khuông nhạc và khoá nhạc. Khuông nhạc là hệ thống gồm 5 dòng kẻ và 4 khe nằm song song và cách đều nhau theo phương nằm ngang. Trên khuông nhạc đó, ta có 11 vị trí khác nhau, ghi được 11 bậc cơ bản. Thứ tự của các dòng và khe được tính từ dưới lên trên Khuông nhạc giúp ta nhận ra cao độ của âm thanh ghi lên đó. Tuy nhiên phải kết hợp với khoá nhạc ở đầu khuông nhạc. Khoá nhạc khác nhau thì tên nốt nhạc sẽ khác nhau. Cụ thể sẽ được trình bày phần 4 ( trang 3 và trang 4 ). Đối với những nốt nhạc cao hơn hoặc thấp hơn không thể ghi lên khuông nhạc chính thì người ta thêm vào những dòng kẻ phụ và khe phụ để ghi các nốt nhạc đó. dòng kẻ phụ trên dòng kẻ phụ dưới Những dòng và khe phụ chỉ kẻ nhỏ chỉ đủ để ghi nốt nhạc và chỉ xuất hiện khi cần thiết. Thứ tự của dòng và khe phụ được tính từ khuông nhạc chính tính ra. B. TÊN NỐT NHẠC Để ghi lại độ cao thấp của âm thanh người ta dùng 7 âm, thứ tự từ thấp đến cao là: Đô - Rê - Mi - Fa -Sol - La – Si Viết tắt : Đô (C); Rê (D); Mi (E); Fa (F); Sol (G); La (A); Si (B) hay là H Có 7 âm cơ bản được sắp xếp trên khuông nhạc như sau: 4
  5. C. HÌNH NỐT NHẠC Để phân biệt độ ngân dài ngắn của âm thanh người ta dùng một số hình nốt nhạc: Có 7 loại hình nốt nhạc sau: Các giá trị của nốt nhạc: tương ứng ta có các giá trị của dấu lặng : D. KHÓA NHẠC Khoá nhạc là một hình vẽ nằm ở đầu mỗi khuông nhạc. Khoá nhạc giúp ta nhận ra tên các âm (tên nốt nhạc) trên khuông nhạc. Có nhiều loại khoá nhạc nhưng thường dùng nhất là khoá Sol, khoá Fa và khóa Đô. Những ca khúc thanh nhạc (bài hát) thường chỉ dùng khoá Sol. 1) Khoá Sol dòng 2 : Nốt Sol bắt đầu từ dòng thứ 2, từ đó người ta tính các nốt khác. - Dành cho bè nữ và các đàn âm khu cao như violon, Flute, Oboe ... Ví dụ người ta tính lên . - Dành cho các bè nam cao và trầm : gồm khoá Sol Ricordi và khóa Sol hạ quãng 8 Ví dụ người ta tính xuống. 5
  6. 2) Khoá Fa dòng 4 : dành cho các giọng nam và các dàn thuộc âm khu trầm như Violoncello (cello), Contrabasso, Fagotto, Trombone ... Nốt nhạc ở dòng 4 là nốt Fa. Từ nốt Fa ta tính được các nốt khác trên khuông. 3) Khoá Đô dòng 3 : dùng cho đàn viola. Nốt nhạc nằm trên dòng 3 là nốt Đô. Từ nốt đô ta tính các nốt khác trên khuông. E. CÁCH GHI NỐT NHẠC TRÊN KHUÔNG. Để việc ghi chép nhạc được đẹp, thống nhất, người ta qui định cách ghi chép các hình nốt nhạc như sau: 1) Cách ghi đuôi nốt không có dấu móc: -Nốt nhạc quay lên, đuôi nốt viết bên phải. -Nốt nhạc quay xuống, đuôi nốt viết bên trái. 2) Cách ghi đuôi nốt có dấu móc: Các nốt nhạc có dấu móc cách ghi hướng đuôi cũng như trên nhưng hướng của dấu móc bao giờ cũng ở phía bên phải: 3) Cách ghi nhạc ở bài hát một bè: -Những nốt nhạc từ vị trí La trở xuống đuôi nốt viết quay lên. -Nốt nhạc viết ở dòng 3 (nốt Si) viết tuỳ ý. -Những nốt nhạc từ vị trí La trở xuống đuôi nốt viết quay lên. 4) Cách ghi nhạc ở bài hát hai bè (tham khảo) -Tất cả các nốt ở bè trên đuôi nốt viết quay lên. -Tất cả các nốt ở bè dưới đuôi nốt viết quay xuống. 5) Gạch ngang trường độ: Các dấu móc đi liền nhau có thể được thay bằng các dấu gạch nối gọi là gạch ngang trường độ. 6
  7. F. KÝ HIỆU ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN CƯỜNG ĐỘ 1) Các chữ dùng để ghi cường độ thường dùng là Pianissimo (pp) : Rất nhẹ Piano (p) : Nhẹ Mezzo-Forte (mf) : Mạnh vừa Forte (f) : Mạnh Fortissimo (ff) : Rất mạnh Có khi người ta còn dùng ppp để chỉ cực nhẹ và fff để chỉ cực mạnh 2) Các chữ hoặc ký hiệu dùng để báo hiệu thay đổi cường độ : Crescendo (Cresc.) : Mạnh dần lên Decrescendo (decresc.) : Nhẹ dần lại Diminuendo (dim.) : Bớt lại Morendo (mor.) : Lịm dần (thường dùng cuối đoạn, cuối bài) Smorzando (Smor.) : Tắt dần Subito forte (Sf.) : Mạnh đột ngột Sforzando (Sfz.) : Nhấn buông, nhấn mạnh rồi nhẹ ngay (fp) Marcato (>) : Mạnh mà rời Staccato (dấu chấm trên dấu nhạc) : Nhẹ mà rời Sostenuto (gạch ngang trên dấu nhạc) : Cẩn trọng, nâng niu (pfp) Sotto voce : Hát nửa tiếng, êm nhẹ Dolce : D ịu dàng, nhẹ nhàng Ngoài ra, để chỉ phải liên kết các dấu nhạc mạnh dần hoặc nhẹ dần một cách liên tục, không rời rạc, người ta dùng chữ Legato (liền tiếng, liền giọng). 3) Phân loại cường độ: Có 2 cách phân định cường độ 3.1.Cường độ cố định: là cường độ được qui định trước theo nguyên tắc "Phách đầu mạnh,phách cuối nhẹ". Cụ thể : - Trong loại nhịp 2 phách: phách 1 mạnh, phách 2 nhẹ - Trong loại nhịp 3 phách: phách 1 mạnh, phách 2 vừa, phách 3 nhẹ; - Trong loại nhịp 4 phách: phách 1 mạnh, phách 2 vừa, phách 3 mạnh vừa, phách 4 nhẹ. 7
  8. 3.2.Cường độ diễn cảm: là cường độ do tiết tấu hoặc do ý nghĩa lời ca gợi ý. Chính loại cường độ nầy mới tạo "hồn" cho âm nhạc. Cần học phân tích tiết tấu thì mới biết phân phối cường độ sao cho phù hợp với từng dấu nhạc, từng nét, từng vế, từng câu, từng đoạn, từng bài nhạc 4. Khi tác giả ghi các ký hiệu về cường độ, thì đó cũng chỉ mới là hướng dẫn sơ khởi cho từng chỗ, từng đầu câu mà thôi, chứ không thể ghi chi tiết cường độ của tất cả mọi dấu nhạc trong câu trong bài được. Dù ghi hay không ghi ký hiệu cường độ, chúng ta cũng phải dựa trên tiết tấu của từng câu, từng đoạn và dựa trên ý nghĩa lời ca để phân phối cường độ cho xứng hợp, vì cường độ là yếu tố chủ chốt làm cho bài nhạc có hồn, có sinh khí. Người ca hát có hồn, có tâm tình là người biết dùng cường độ đúng lúc, đúng nơi. G. DẤU HOÁ Dấu hoá là kí hiệu cho biết sẽ làm thay đổi cao độ của nốt nhạc lên cao hoặc xuống thấp hơn với khoảng cách là 1/2 cung so với vị trí nó đang đứng. Có 3 loại dấu hoá thường dùng: 8
  9. 1) Ảnh hưởng của dấu hóa Tuỳ theo vị trí, dấu hoá có tác dụng và tên gọi như sau: 1.1) Dấu hóa theo khóa. Dấu hoá theo khoá viết ở đầu mỗi khuông nhạc. Dấu hoá này ảnh hưởng đến tất cả nốt nhạc nào mang tên dấu hoá đó. Tất cả các nốt Fa trong bài nhạc đều phải nâng cao lên 1/2 cung do ảnh h ưởng của dấu hóa pha thăng ở đầu khoá. Tất cả các nốt Si trong bài nhạc đều phải hạ thấp xuống 1/2 cung do ảnh hưởng của dấu hoá Si giáng ở đầu khoá. *Lưu ý: Chỉ có 2 loại dấu hoá là dấu thăng và dấu giáng được sử dụng làm dấu hoá theo khoá. Ở một số nước như Đức, Nga … khi dùng chữ cái La-tinh A, B, C … người ta thêm vần is thay dấu thăng : Cis : Đô# ; Eis : Mi# ; Ais : La# ; Cisis : Đôx … và thêm vần es thay dấu giáng : Ces : Đôb ; Ceses :Đôbb ;Des :Rêb ; Ees —>Es : Mib; Aes —> As : Lab. 1.2) Dấu hóa bất thường. - Dấu hoá bất thường không có vị trí cố định, thỉnh thoảng xuất hiện trong bản nhạc nên gọi là dấu hoá bất thường. - Dấu hoá bất thường đặt ngay trước nốt nhạc và chỉ ảnh hưởng trong một ô nhịp. Chú ý : Tất cả 5 loại dấu hoá: thăng, thăng kép, giáng, giáng kép, dấu bình đều được dùng làm dấu hoá bất thường. 2) Dấu nhắc lại. Khi có thêm yêu cầu phải diễn lại một phần hoặc toàn bài nhạc, người ta dùng thêm dấu hồi tấu. Dấu hồi tấu được ghi 2 lần. 9
  10. 3) Khung thay đổi. Khi sử dụng dấu nhắc lại, ở lần 2, nếu có sự thay đổi ở những ô nhịp cuối cùng người ta dùng khung thay đổi. Lần 1: Trình diễn bình thường Lần 2: Đến những ô nhịp trong vùng ảnh hưởng của khung thay đổi 1 ta phải bỏ qua không trình diễn, mà trình diễn qua những ô nhịp trong vùng ảnh hưởng của khung thay đổi 2 trở về sau. 4) Dấu hồi tấu. Khi có thêm yêu cầu phải diễn lại một phần hoặc toàn bài nhạc, người ta dùng thêm dấu hồi tấu. Dấu hồi tấu được ghi 2 lần. 5) Dấu CODA. Khi trình bày lần thứ hai, nếu có yêu cầu phải bỏ bớt phần nào đó người ta dùng dấu Cô-đa. Dấu cô-đa cũng được ghi 2 lần. 6) Cách xử lý khi gặp các ký hiệu phía trên. 6.1) Kí hiệu dấu nhắc lại không có khung thay đổi. Thứ tự trình diễn như sau:1-2-3-4-5-6-3-4-5-6-7-8. 10
  11. 6.2) Kí hiệu dấu nhắc lại có khung thay đổi. Thứ tự trình diễn như sau: 1-2-3-4-5-6-3-4-5-7-8. 6.3) Kí hiệu dấu hồi tấu không có dấu cô-đa. Thứ tự trình diễn như sau: 1-2-3-4-5-6-3-4-5-7-8-1-2-3-4-5-6-3-4-5-7-8. 6.4) Kí hiệu dấu hồi tấu có dấu cô-đa. Thứ tự trình diễn như sau: 1-2-3-4-5-6-3-4-5-7-8-1-2-3-7-8. 6.5) Vạch xiên chỉ trường độ. Lặp lại một âm hình giai điệu nào đó trong cùng một ô nhịp, thay vì viết ra cả thì chỉ cần viết 1 lần rồi ghi các vạch xiên chỉ trường độ. 6.6) Gạch chỉ trường độ. Một âm thanh hoặc một hợp âm cần nhắc lại thì ghi tổng số trường độ và thêm các gạch chỉ trường độ phải lặp lại : 11
  12. 6.7) Lặp lại luân phiên nhiều lần âm thanh hoặc hợp âm. 6.8) Lặp lại nguyên 1 hoặc 2 ô nhịp : Lưu ý : Người ta có thể thay dấu hồi tống bằng chữ DC (Da Capo nghĩa là trở lại từ đầu. Da Capo al fine = Trở lại từ đầu cho đến chỗ TẬN của bài). 7 ) Dấu nối, dấu luyến, dấu chấm dôi và dấu chấm ngân. Dấu nối, dấu chấm dôi, dấu chấm ngân là những kí hiệu bổ sung để tăng thêm độ dài của âm thanh. 7.1 Dấu nối thường được sử dụng khi tăng thêm độ dài của nốt nhạc cùng tên nhau. 7.2. Dấu luyến là kí hiệu dùng để nối cao độ của các nốt nhạc khác tên nhau. Hay nói cách khác, muốn thể hiện một tiếng hát ở hai nốt nhạc khác nhau người ta dùng dấu luyến. 7.3. Dấu chấm dôi : là ký hiệu đi sau dấu nhạc, hoặc dấu lặng, có giá trị bằng nửa trường độ ký hiệu đi trước ( ví dụ nốt đi trước là nốt đen thì nó bằng ½ của nốt đen, nốt đi trước là nốt trắng thì nó bằng ½ nốt trắng là bằng 1 nốt đen ) nó.mà tổng độ dài của các nốt nhạc trong ô nhịp không vượt quá số phách quy định trong ô nhịp được ghi ở số chỉ nhịp. Dấu chấm dôi là một chấm nhỏ nằm ở bên phải nốt nhạc và có giá trị tăng thêm 1/2 độ dài của chính nốt đó. 7. 4.Dấu lặng: Là ký hiệu cho biết phải ngưng không diễn tả âm thanh trong một khoảng thời gian. Hình thái các dấu và giá trị thời gian xin xem trong phần 3 trang 3. 12
  13. 7.5. Dấu chấm ngân hay còn gọi là dấu lưu (Dấu miễn nhịp) : là nửa vòng cung nhỏ có một chấm ở giữa U đặt trên hoặc dưới ký diệu âm nhạc nào thì cho nó được kéo dài bao lâu tuỳ ý., người hát hoặc người đàn có thể xử lí tự do. 8) Các nhóm dấu bất thường: Liên ba : Là 3 dấu nhạc có trường độ bằng nhau, nhưng khi diễn tấu thì trường độ của chúng bằng trường độ 2 dấu nhạc cùng hình dạng. Liên năm, liên sáu, liên bảy : Là diễn tấu 5, 6 hoặc 7 dấu thay vì chỉ phải diễn tấu 4 dấu cùng hình dạng. Liên hai : là 2 dấu nhạc có trường độ bằng nhau nhưng được diễn tấu trong thời gian bằng 3 dấu cùng hình dạng. Liên tư : Là diễn tấu 4 dấu thay vì cần diễn 6 dấu cùng hình dạng. 13
  14. II. TIẾT TẤU 1. Khái niệm : Âm nhạc thuộc loại nghệ thuật chuyển động trong thời gian, có âm thanh trước, âm thanh sau nối tiếp nhau từ đầu bài cho đến cuối bài. Các âm thanh chuyển động từ đầu bài cho đến cuối bài, không phải một cách lộn xộn như trong một đám đông vô trật tự, mà có một sự sắp xếp thành từng nhóm nhỏ, nhóm lớn khác nhau. Tiết tấu chính là sự sắp xếp các âm thanh ngắn dài khác nhau, thành từng nhóm nhỏ, nhóm lớn theo tình ý của người soạn nhạc. 2. Như vậy, tiết tấu là yếu tố xử lý trường độ của âm thanh để tạo nên trật tự, ý nghĩa, sự hài hoà và sự sống cho bản nhạc. Trong thanh nhạc (có lời ca), thì tiết tấu phải dựa trên ý nghĩa lời ca. Trong khí nhạc (không có lời ca) thì tiết tấu dựa trên tình ý của người soạn nhạc, được thể hiện qua các ý nhạc chủ đạo (hoặc nhạc đề) và sự khai triển các chủ đề đó theo nguyên tắc “biến đổi trong thuần nhất” 3. Bất cứ một chuyển động nào, dù ngắn hay dài, đều bao gồm hai thời điểm : đó là lúc khởi đầu và lúc kết thúc. Lúc khởi đầu là yếu tố động, đòi hỏi năng động, sức mạnh, cường độ ; lúc kết thúc là yếu tố tĩnh, đòi hỏi sự nghỉ ngơi, êm nhẹ, buông lỏng. Tiết tấu liên kết, pha trộn các yếu tố này với nhau sao cho khéo léo, hợp với ý nghĩa lời ca hoặc hợp với tình ý của chủ đề bản nhạc. 4. Trong âm nhạc, lúc khởi đầu người ta gọi là nét vươn lên hay là bước tiến (arsis), khi kết thúc thì gọi là chỗ nghỉ ngơi hay là bước lui (thesis). Bước tiến được phác hoạ bằng cách nâng tay lên, bước lui bằng cách hạ tay xuống. Như vậy tiết tấu nhỏ nhất gồm một bước tiến và một bước lui 5. Trong bản nhạc, các bước tiến, bước lui không nhất thiết có trường độ bằng nhau. 6. Khi tiết tấu gồm những bước tiến bước lui đều nhau từ đầu đến cuối, người ta có thể chia thành những phần trường độ đều nhau (gọi là ô nhịp đều nhau) và ta gọi đó là tiết tấu đều đặn hay tiết tấu chia đều. Trường độ âm thanh trong ô nhịp được xác định bằng một phân số chỉ loại nhịp ghi ở đâu bài. (Ví dụ : 2/4 mỗi ô nhịp có 2 phách, mỗi phách tương đường một dấu đen). 7. Loại tiết tấu đều đặn còn được chia ra hai loại khác : đó là tiết tấu bình thường và tiết tấu bất thường. a) Tiết tấu bình thường là tiết tấu gồm các bước hoặc các phách có trường độ đều nhau. b). Tiết tấu bất thường là tiết tấu trong đó các bước hoặc phách ngắn dài, sớm muộn khác nhau (gọi là đảo phách) hoặc tiết tấu trong đó thiếu hụt các phần đầu bước hoặc đầu nhịp (nghịch phách). Trong thực tế, nghịch phách là một loại đảo phách mà trong đó phần phách bất thường thay vì ngân dài thì được thay thế bằng dấu lặng. 14
  15. A. Đảo phách (Syncope): Đảo phách là một dạng phân chia thứ tự ngoại lệ giữa các phách mạnh yếu. Khi đảo phách, note nhạc ở phách yếu ngân dài, chiếm cả phách mạnh kế đó. Khi đảo phách, note mạnh mất sự quan trọng khi bắt đầu phách, bị chìm dưới sự ngân dài của phách phía trước. Lúc này, các note trong ô nhịp không còn dựa vào trật tự mạnh yếu, ví dụ: Phách yếu ở ô nhịp 1 nối dài qua nửa phách mạnh ở ô nhịp 2. Phách yếu ở ô nhịp 3 nối dài qua phách mạnh ở ô nhịp 4. Mục đích của đảo phách là làm cho đoạn nhạc có vẻ khập khễnh, ngập ngừng. Đảo phải còn giúp cho đoạn nhạc bớt đơn điệu, buồn tẻ. Tùy theo giá trị trường độ của các note nối nhau trong đảo phách mà người ta phân loại như sau: a) Đảo phách cân: Khi note đứng trước và note đứng sau trong đảo phách có cùng trường độ. Ví dụ trong một đoạn nhạc của hình sau, chúng ta có đảo phách cân. Đảo phách cân được tạo ra từ cuối ô nhịp trước với note đen đầu ô nhịp sau. b) Đảo phách lệch: Khi note đứng trước có trường độ lớn hơn note đứng sau. Ví dụ đoạn nhạc dưới, note trắng ở ô nhịp 2 nối với note móc trong liên ba của ô nhịp 3. Hoặc ở đoạn nhạc dưới, note trắng ở ô nhịp trước nối với note đen của ô nhịp sau: c) Đảo phách thọt(đảo phách gẫy): Khi note đứng trước có trường độ nhỏ hơn note đứng sau. Ví dụ, trong đoạn nhạc dưới thì note móc ở phách 2 nối với note đen ở phách 3: 15
  16. B. Nghịch phách : Nghịch phách còn gọi là nhịp chỏi được thể hiện bằng cách im lặng hoàn toàn nơi phách mạnh, âm phát ra nơi phách yếu. Nghịch phách tạo ra một sự kích động, hụt hẫng, làm cho đoạn nhạc nhộn nhịp, vui hơn. Ví dụ 1: Ở ô nhịp thứ 2 trong đoạn nhạc trên, phách mạnh bị im bằng lặng đen, tạo ra nghịch phách. Ở ô nhịp thứ 5, phách mạnh bị im bằng dấu lặng đen, tạo ra nghịch phách. Ví dụ 2: Ở ô thứ 3 trong đoạn nhạc trên, phách mạnh bị im bằng dấu lặng đen, tạo ra nghịch phách. Trong bài còn có nhiều đoạn nghịch phách tương tự. Loại nghịch phách trình bày ở ví dụ 1 và 2 dựa vào sự yên lặng của phách mạnh, loại này được chia ra làm 2 loại : a) Nghịch phách đều: Khi giá trị của dấu lặng bằng giá trị của hình note thì người ta gọi đó là nghịch phách đều. Ví dụ: Qua trích đoạn nhạc trên ở ô nhịp thứ 2-4-6 có dấu lặng móc và dấu móc đơn phách 1 (phách mạnh). Phách 1 được chia làm 2 chi phách hay 2 thì (temp), một chi phách là dấu lặng móc và chi phách kế tiếp là dấu móc đơn. Hai dấu này có giá trị trường độ bằng nhau, vì vậy đây là nghịch phách đều. 16
  17. b) Nghịch phách không đều: Khi giá trị của 2 chi phách của phách 1 (mạnh) không bằng nhau. Ví dụ 1 : Hình note dài hơn dấu lặng. Trong đoạn nhạc trên, các ô nhịp 1-3-5 đều có dấu lặng đơn và dấu móc đơn ở phách 1, đó là nghịch phách đều (2 chi của phách 1 bằng nhau). Đến ô nhịp thứ 7 , dấu lặng đơn của phách đầu, kế tiếp là note đen. Vậy đó là nghịch phách có hình note dài hơn dấu lặng, được gọi là nghịch phách không đều Ví dụ 2: dấu lặng dài hơn hình note. Trong trích đoạn nhạc phía dưới, ô nhịp 9 có dấu lặng đen và dấu lặng đơn (phách 1 kéo dài đến chi đầu của phách 2 là dấu lặng), chi cuối của phách 2 là note móc đơn. Vậy đó là nghịch phách có dấu lặng dài hơn hình note, được gọi là nghịch phách không đều 8. Tóm lại, tiết tấu là linh hồn đem lại sức sống cho giai điệu. “Ai cũng cảm nghiệm được tiết tấu : rất nhiều người không biết hoà âm, một số người không biết giai điệu, nhưng không ai là không biết tiết tấu”. Chính tiết tấu xử lý trường độ âm thanh, tạo nên những bước tiến bước lui gợi ý cường độ cho âm thanh, làm cho các âm thanh nối kết với nhau có ý nghĩa. Do đó diễn tấu một bản nhạc có hồn hay không là do ta có biết diễn tấu cường độ do tiết tấu gợi ý cho ta hay không. Ngược lại, nếu ta cứ phách đầu mạnh, phách sau nhẹ ... như người ta thường dạy, thì việc diễn tấu sẽ trở nên máy móc, thiếu tâm tình, tức là thiếu cái hồn của âm nhạc. 17
  18. III. TIẾT NHỊP Khi nghe một bản nhạc hay một bài hát, ta thường thấy cách một khoảng thời gian đều nhau nào đó có một tiếng đệm mạnh (hay một tiếng trống đệm theo). Khoảng thời gian đều nhau giữa tiếng mạnh trước với tiếng mạnh sau gọi là nhịp. Để phân biệt nhịp nọ với nhịp kia người ta dùng một vạch thẳng đứng trên khuông nhạc gọi là vạch nhịp. - Khoảng cách giữa 2 vạch nhịp gọi là ô nhịp hoặc nhịp trường canh. - Khi kết thúc 1 đoạn nhạc hay thay đổi khoá nhạc, thay đổi nhịp, người ta dùng 2 vạch nhịp, gọi là vạch kép. - Chấm dứt bài nhạc người ta dùng vạch kết thúc bao gồm 1 vạch bình thường và 1 vạch đậm hơn ở phía ngoài. Ở bất cứ bản nhạc nào, đầu bài luôn là số chỉ về trường độ và phách nhip trong bản nhạc. Số chỉ nhịp ghi đầu bản nhạc, sau khoá nhạc và chỉ ghi một lần ở khuông nhạc đầu tiên (trừ trường hợp có sự thay đổi nhịp) Số chỉ nhịp trông giống như một phân số ( ví dụ 2/4, 3/4, 4/4, 6/8 ) - Số bên trên là Tử, bên số dưới là Mẫu. - Số ở trên biểu thị số phách có trong mỗi ô nhịp. - Số ở dưới biểu thị độ dài của mỗi phách là bao nhiêu (tương ứng với hình nốt nào) Chú ý: Số chỉ nhịp chỉ được thể hiện như phân số thôi chứ nó ko viết như phân số. Khi viết ta ko có viết dấu gạch ở giữa tử và mẫu. Khi đọc chúng ta đọc liền số A và số B. 18
  19. Lấy 1 ví dụ về số chỉ nhịp sau đây: Chúng ta đọc nhịp này là nhịp hai bốn. Nhìn vào số chỉ nhịp này ta có thể thấy: Tử nó là số 2. Điều này chứng tỏ trong 1 ô nhịp nó có 2 phách Mẫu là số 4. Tức là trường độ của mỗi phách sẽ bằng 1/4 nốt tròn (tức là bằng 4 nốt đen). Nếu giải thích đúng nghĩa theo nhịp thì chúng ta có thể định nghĩa nhịp 2/4 nh ư sau: Nhịp 2/4 là nhịp mà trong đó mỗi ô nhịp có 2 phách, mỗi phách bằng 1 nốt đen. Phách thứ nhất mạnh, phách thứ 2 nhẹ. - Trong mỗi nhịp (ô nhịp hay nhịp trường canh) lại chia ra nhiều quãng thời gian đều nhau nhỏ hơn gọi là phách. - Mỗi nhịp đều có phách mạnh, phách nhẹ. Phách mạnh bao giờ cũng nằm ở đầu ô nhịp. - Nhờ có phách mạnh, phách nhẹ ta mới phân biệt được các loại nhịp khác nhau. - Số lượng phách trong mỗi ô nhịp tuỳ thuộc vào số chỉ nhịp. Ví dụ : nhịp 3/4 => trong mỗi ô nhịp có 3 phách, 4/4 => trong mỗi ô nhịp có 4 phách, 7/8 => trong mỗi ô nhịp có 7 phách. Phách có thể chia ra làm nhiều phần nhỏ hơn một nốt nhạc hoặc có thể có nhiều phách trong một hình nốt nhạc. Ví dụ : Các bạn lấy tay đập xuống bàn 1 cái rồi dở lên (hoặc dùng bàn chân đạp xuống đất rồi dở lên cũng được). 1 lần đập xuống rồi dở lên như vậy tôi gọi là 1 phách. Như vậy nếu gõ 2 phách thì sẽ có 2 lần đập xuống rồi dở lên, 3 phách thì 3 lần đập xuống dở lên. Nửa phách thì chỉ 1 động tác hoặc đập xuống hoặc dở lên thôi. Chú ý trường độ của một phách không cố định chính xác theo thời gian, mà tùy người chơi muốn nhanh hay chậm thôi. Có 4 loại mẫu số hay dùng: 2 , 4 , 8 ,12. 2: giá trị trường độ 1 phách = 1 nốt Trắng 4: giá trị trường độ 1 phách = 1 nốt Đen 8: giá trị trường độ 1 phách = 1 nốt Đơn 12 : giá trị trường độ 1 phách = 1 nốt móc kép Ví dụ : 9/8 => mẫu số = 8 => giá trị trường độ 1 phách = 1 nốt đơn. Lưu ý có 2 ngoại lệ quan trọng là : người ta thường thay thế 2 loại nhịp là: 2/2 bằng chữ ¢ và 4/4 bằng chữ C Vậy ví dụ khi gặp nhịp 6/8 : thì kết luận là : Mỗi ô nhịp có 6 phách, mỗi phách có giá trị trường độ bằng 1 nốt móc đơn. Tiết điệu (nhịp điệu hoặc điệu nhạc) : là một công thức tiết tấu dựa trên một loại tiếp nhịp nhất định nào đó, thường được dùng để đệm bằng nhạc khí, thí dụ nhịp điệu Marche, Fox, Valse, Boston, Rumba, Chachacha, Boléro, Tango, Slow, Twist, Surf ... 19
  20. IV. CUNG, QUÃNG 1.Cung: Trong 7 tên nốt, khoảng cách cao độ của chúng không đồng đều nhau, có khoảng cách 1 cung, có khoảng cách nửa cung. Các khoảng cách cao độ được ghi như sau: Do ảnh hưởng của dấu hoá nên có 2 loại nửa cung như sau: a) Nửa cung Diatonic (nửa cung dị): Là tên gọi nửa cung của 2 nốt nhạc khác tên nhau. Nửa cung Diatonic được tạo ra giữa 2 bậc liền kề nhau của hàng âm. Ví dụ: b) Nửa cung Crômatic (nửa cung đồng): Là tên gọi nửa cung của 2 nốt nhạc cùng tên nhau. Nửa cung Crômatic được tạo ra trong một bậc cơ bản với sự nâng cao hoặc hạ thấp chính nó. Ví dụ : 2.Quãng : ( phần này chúng ta chỉ cần biết khái niệm đơn giản của nó mà thôi ) a) Quãng là sự liên kết giữa hai hoặc nhiều âm thanh phát ra cùng một lúc (hay phát ra lần lượt). Nốt thấp nhất của quãng gọi là nốt nền, nốt cao của quãng gọi là nốt đỉnh. Tên quãng được gọi bằng số. Từ dấu nhạc đầu tiên đến dấu nhạc cuối có bao nhiêu bậc cơ bản thì là quãng bấy nhiêu. Ví dụ : Đô-Mi : Có 3 bậc là đô, rê, mi, nên gọi là quãng 3. b) Quãng 2 gồm 1 nguyên cung được gọi là q.2 Trưởng (Đô-Rê, Rê-Mi …). Quãng 3 gồm 2 nguyên cung được gọi là q.3 Trưởng (đô-mi, fa-la, sol-xi, rê-fa# …). Quãng 4 gồm 2 nguyên cung và 1/2 cung được gọi là q.4 đúng (Đô-La, Rê-Sol …). Quãng 5 gồm 3 nguyên cung và 1/2 cung được gọi là q.5 đúng (Đô-Sol, Rê-La, …). Quãng 6 gồm 4 nguyên cung và 1/2 cung được gọi là q.6 Trưởng (Đồ-Lá, Fa-Rế …). Quãng 7 gồm 5 nguyên cung và 2 nửa cung được gọi là q.7 Trưởng (Đô-Sí, …). Quãng 8 gồm 5 nguyên cung và 2 nửa cung được gọi là q.8 đúng (Đồ-Đố, Rề-Rế ...). 20
nguon tai.lieu . vn