Xem mẫu
- ROBOT CÓ CẤU TRÚC SONG SONG
1.1 Giới thiệu chung :
Xuất phát từ nhu cầu và khả năng linh hoạt hóa trong sản xuất,
các cơ cấu Robot cũng ngày càng phát triển rất đa dạng và phong
phú. Trong những thập niên gần đây, Robot cấu trúc song song
được Gough và Whitehall nghiên cứu năm 1962 và sự chú ý ứng
dụng của Robot cấu trúc song song đã được khởi động bởi Stewart
vào năm 1965. Ông là người cho ra đời một buồng (phòng) tập lái
máy bay dựa trên cơ cấu song song. Hiện nay cơ cấu song song
được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực.
Loại Robot song song điển hình gồm có bàn máy động được
nối với giá cốđịnh, dẫn động theo nhiều nhánh song song hay còn
gọi là số chân. Thường số chân bằng số bậc tự do, được điều khiển
bởi nguồn phát động đặt trên giá cố định hoặc ngay trên chân. Chính
lý do này mà các Robot song song đôi khi gọi là các Robot có bệ.
Các cơ cấu tác động điều khiển tải ngoài, nên cơ cấu chấp hành
song song thường có khả năng chịu tải lớn.
Do tính ưu việt của Robot song song nên ngày càng thu hút
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đồng thời cũng được ứng
dụng ngày càng rộng rãi vào nhiều lĩnh vực:
+ Ngành Vật lý : Giá đỡ kính hiển vi, giá đỡ thiết bị đo chính
xác.
+ Ngành Cơ khí : Máy gia công cơ khí chính xác,máy công cụ.
+ Ngành Bưu chính viễn thông : Giá đỡ Ăngten, vệ tinh đ ịa
tĩnh.
+ Ngành chế tạo ôtô : Hệ thống thử tải lốp ôtô, buồng tập lái
ôtô.
+ Ngành quân sự : Robot song song được dùng làm bệ đỡ ổn
định được đặt trên tàu thủy, các công trình thủy, trên xe, trên máy
bay, trên chiến xa và tàu ngầm. Để giữ cân bằng cho ăngten,
camera theo dõi mục tiêu, cho rada,cho các thiết bị đo laser, bệ ổn
định cho pháo và tên lửa, buồng tập lái máy bay, xe tăng, tàu chi ến.
- 1.2 Một số ưu nhược điểm của Robot song song:
Nhìn chung, tất cả các lọai Robot có cấu trúc song song đ ều
có nhiều ưu điểm và có thể được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, các
bộ mô hình máy bay, các khung đỡ kiến trúc có khớp nối điều chỉnh,
các máy khai thác mỏ ...
- Ưu điểm :
+ Khả năng chịu tải cao: các thành phần cấu tạo nhỏ hơn nên
khối lượng của các thành phần cũng nhỏ hơn.
+ Độ cứng vững cao do kết cấu hình học của chúng:
Tât cả các lực tác động đồng thời được chia sẻ cho tất
cả các chân.
Cấu trúc động học một cách đặc biệt của các khớp liên
kết cho phép chuyển tất cả các lực tác dụng thành các
lực kéo/nén của các chân.
+ Có thể thực hiện được các thao tác phức tạp và họat động
với độ chính xác cao: với cấu trúc song song, sai số chỉ phụ thuộc
vào sai số dọc trục của các cụm cơ cấu chân riêng lẻ và các sai số
không bị tích lũy.
+ Có thể thiết kế ở các kích thước khác nhau.
+ Đơn giản hóa các cơ cấu máy và giảm số lượng phần tử do
các chân và khớp nối được thiết kế sẵn thành các cụm chi ti ết tiêu
chuẩn.
+ Cung cấp khả năng di động cao trong quá trình làm vi ệc do
có khối lượng và kích thước nhỏ gọn.
+ Các cơ cấu chấp hành đều có thể định vị trên tấm nền.
+ Tầm hoạt động của Robot cơ cấu song song rất rộng từ việc
lắp ráp các chi tiết cực nhỏ tới các chuyển động thực hiện các chức
- năng phức tạp, đòi hỏi độ chính xác cao như: phay, khoan, tiện, hàn,
lắp ráp...
+ Các Robot cơ cấu song song làm việc không cần bệ đ ỡ và
có thể di chuyển tới mọi nơi trong môi trường sản xuất. Chúng có thể
làm việc ngay cả khi trên thuyền và treo trên trần, tường ...
+ Giá thành của các Robot song song ứng dụng trong gia công
cơ khí ít hơn so với máy CNC có tính năng tương đương.
- Nhược điểm:
Tuy nhiên các Robot song song cũng có những nhược điểm nhất
định khi so sánh với các Robot chuỗi như:
+ Khoảng không gian làm việc nhỏ và khó thiết kế.
+ Việc giải các bài toán động học, động lực học phức tạp...
+ Có nhiều điểm suy biến (kỳ dị) trong không gian làm việc.
1.3 Cấu trúc Robot song song:
1.3.1 Cấu trúc cơ cấu :
Cũng như các Robot thông thường, Robot song song là loại
Robot có cấu trúc vòng kín trong đó các khâu (dạng thanh) được nối
với nhau bằng các khớp động.
Sơ đồ động cơ cấu tay máy thông thường là một chuỗi nối tiếp
các khâu động, từ khâu ra (là khâu trực tiếp thực hiện thao tác công
nghệ) đến giá cố định. Còn trong Robot song song, khâu cuối đ ược
nối với giá cố định bởi một số mạch động học, tức là nối song song
với nhau và cũng hoạt động song song với nhau. Sự khác nhau về
sơ đồ động đó cũng tạo nên nhiều đặc điểm khác biệt về động học
và động lực học.
1.3.2 Khâu, khớp, chuỗi động và máy trong cơ cấu Robot song
song:
- - Khâu : Là phần có chuyển động tương đối với phần khác trong cơ
cấu.
Chúng ta coi tất cả các khâu là các vật rắn. Điều đó làm cho
việc nghiên cứu các cơ cấu, Robot được dễ dàng và đơn giản hơn.
Tuy nhiên, với các cơ cấu tốc độ cao hoặc mang tải lớn thì hi ện
tượng đàn hồi của vật liệu trở nên quan trọng đáng kể và chúng ta
phải xét đến.
- Khớp : Là chỗ nối động giữa hai khâu.
Tùy theo cấu trúc, mỗi khớp hạn chế một số chuyển động giữa
hai khâu. Bề mặt tiếp xúc của mỗi khâu tại khớp gọi là một thành
phần khớp. Hai thành phần khớp tạo thành một khớp động. Kh ớp
động có thể phân thành khớp thấp và khớp cao tùy thuộc vào dạng
tiếp xúc.
+ Khớp thấp: Nếu hai thành phần tiếp xúc là mặt.
+ Khớp cao: Nếu hai thành phần tiếp xúc là điểm hoặc đường.
Có 6 loại khớp thấp và hai loại khớp cao cơ bản thường dùng
trong các cơ cấu máy và các Robot, đó là:
+ Khớp quay (Revolute Joint - R) : Khớp để lại chuyển động
quay của
khâu này đối với khâu khác quanh một trục quay. Nghĩa là khớp
quay hạnchế 5 khả năng chuyển động giữa hai thành phần khớp và
có một bậc tự do . Khớp quay thường được gọi là khớp quay bản lề.
+ Khớp lăng trụ (Prismatic Joint - P) : Cho phép hai khâu tr ượt
trên nhau theo một trục. Do đó, khớp lăng trụ hạn chế 5 khả năng
chuyển động tương đối giữa hai khâu và có một bậc tự do. Người ta
cũng thường gọi khớp lăng trụ là khớp tịnh tiến.
+ Khớp trụ (Cylindrical Joint - C) : Cho phép hai chuyển đ ộng
độc lập, gồm một chuyển động quay quanh trục và chuyển động
tịnh tiến dọc trục quay. Do đó, khớp trụ hạn chế 4 khả năng chuyển
động giữa hai khâu và có hai bậc tự do.
- + Khớp ren (Helical Joint - H) : Cho phép chuyển động quay
quanh trục đồng thời tịnh tiến theo trục quay. Tuy nhiên chuyển
động tịnh tiến phụ thuộc vào chuyển động quay bởi bước của ren
vít. Do đó, khớp ren hạn chế 5 chuyển động tương đ ối hai khâu và
còn lại một bậc tự do.
+ Khớp cầu (Spherical Joint - S) : Cho phép thực hi ện chuyển
động quay giữa hai thành phần khớp quanh tâm cầu theo tất cả các
hướng, nhưng không có chuyển động tịnh tiến giữa hai thành ph ần
khớp này. Do đó, khớp cầu hạn chế 3 khả năng chuyển động và có
ba bậc tự do.
+ Khớp phẳng (Plane Joint - E) : Cho hai khả năng chuy ển
động tịnh tiến theo hai trục trong mặt tiếp xúc và một khả năng quay
quanh trục vuông góc với mặt phẳng tiếp xúc. Do đó, khớp phẳng
hạn chế 3 bậc tự do và có ba bậc tự do.
+ Khớp bánh răng phẳng (Gear Pair - G) : Cho hai bánh răng
ăn khớp với nhau. Các mặt răng tiếp xúc đẩy nhau, chúng thường
trượt trên nhau. Do đó, khớp bánh răng phẳng hạn chế 4 kh ả năng
chuyển động tương đối giữa hai thành phần khớp, còn lại hai bậc tự
do.
+ Khớp cam phẳng (Cam Pair - Cp) : Tương tự như khớp bánh
răng, hai thành phần khớp luôn tiếp xúc với nhau. Do đó, kh ớp cam
phẳng có hai bậc tự do.
Khớp quay, khớp lăng trụ, khớp trụ, khớp ren, khớp cầu và kh ớp
phẳng là các khớp thấp. Khớp bánh răng phẳng và khớp cam phẳng
là các khớp cao.
- Chuỗi động : Là tập hợp các khâu được nối với nhau bằng các
khớp động. Robot nối tiếp có cấu trúc chuỗi hở, còn Robot song
song có cấu trúc là chuỗi kín. Chuỗi động học được gọi là cơ cấu khi
một trong các khâu là giá cố định. Trong cơ cấu có thể có một hoặc
nhiều khâu được ấn định là khâu dẫn với các thông số cho trước. Sự
chuyển động của các khâu dẫn là độc lập, sự chuyển động của các
khâu khác sẽ phụ thuộc vào chuyển động của khâu dẫn. Cơ cấu là
một thiết bị truyền chuyển động từ một hay nhiều khâu dẫn tới các
khâu khác.
- Máy móc : Gồm một hoặc nhiều cơ cấu, cùng với các thành
phần điện, thủy lực và/hoặc khí nén, được dùng để bi ến đổi
năng lượng bên ngoài thành cơ năng hoặc dạng năng lượng
khác. Cơ cấu chấp hành của hệ thống robot là cơ cấu. Để cơ
cấu này trở thành máy cần phải có bộ điều khi ển dựa trên bộ
vi xử lý, bộ mã hóa và/hoặc các cảm biến lực, cùng với các bộ
phận khác, chẳng hạn hệ thống quan sát, phối hợp với nhau
để chuyển đổi năng lượng bên ngoài thành công hữu ích. Mặc
dù máy có thể gồm một hoặc nhiều cơ cấu, nhưng cơ cấu
không phải là máy, do không thực hiện công, chỉ có chức năng
truyền chuyển động.
1.3.3 Phân loại Robot:
Robot có thể được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn, số bậc tự
do, cấu trúc động học, hệ thống truyền động, dạng hình học của chi
tiết gia công, các đặc tính chuyển động...
- Phân loại theo số bậc tự do:
Sơ đồ phân loại robot thường dùng là theo số bậc tự do. Một
cách lý tưởng, cơ cấu chấp hành phải có 6 bậc tự do để xử lý đối
tượng một cách tự do trong không gian ba chiều. Theo quan điểm
này, robot đa năng có 6 bậc tự do, robot dư có hơn 6 b ậc t ự do và
robot thiếu có ít hơn 6 bậc tự do. Robot dư có thêm một bậc tự do để
di chuyển qua các chướng ngại vật hoặc vận hành trong các không
gian hẹp. Mặt khác, đối với một số ứng dụng đặc biệt, chẳng hạn
lắp giáp các chi tiết trên mặt phẳng, robot bốn bậc tự do là đủ.
- - Phân loại theo cấu trúc động học:
Robot được gọi là robot nối tiếp nếu cấu trúc động học có
dạng chuỗi vòng hở, robot song song nếu có chuỗi vòng kín, và
robot lai nếu có cả chuỗi vòng hở và vòng kín.
- Phân loại theo hệ thống truyền động:
Có ba hệ truyền động phổ biến là điện, thuỷ lực, và khí nén
được dùng cho robot. Hầu hết các cơ cấu chấp hành đều sử dụng
động cơ bước hoặc động cơ trợ động DC, do chúng tương đối dễ
điều khiển. Tuy nhiên, khi cần tốc độ cao và khả năng mang tải cao,
thường dùng truyền động thuỷ lực hoặc khí nén. Nhược điểm của
truyền động thuỷ lực là khả năng rò rỉ dầu. Ngoài ra, truyền động khí
nén có tính linh hoạt khá cao. Mặc dù truyền động khí nén s ạch và
nhanh nhưng khó điều khiển do không khí là lưu chất nén được .
Trong cơ cấu nối tiếp, nói chung một bộ tác động được dùng
để điều khiển chuyển động của từng khớp. Nếu từng khâu chuyển
động được truyền động bằng một bộ tác động lắp trên khâu trước đó
thông qua hộp giảm tốc, sự dịch chuyển của khâu này về mặt động
học là độc lập với khâu khác, đây là cơ cấu chấp hành nối ti ếp qui
ước. Mặt khác, nếu mỗi khớp được truyền động trực tiếp bằng bộ
- tác động không có hộp giảm tốc, cơ cấu đó được gọi là cơ cấu chấp
hành truyền động trực tiếp.
Việc dùng hộp giảm tốc cho phép sử dụng động cơ nhỏ hơn,
do đó làm giảm quán tính của cơ cấu chấp hành. Tuy nhiên, đ ộ l ệch
khớp của các bánh răng trong hộp giảm tốc có thể gây ra sai số vi trí
ở bộ phận tác động. Kỹ thuật truyền động trực tiếp khắc phục được
vấn đề bánh răng và có thể tăng tốc độ cho cơ cấu chấp hành. Tuy
nhiên, các động cơ truyền động trực tiếp tương đối lớn và nặng. Do
đó, chúng thường được dùng để truyền động khớp thứ nhất của cơ
cấu chấp hành, động cơ được lắp ở đế. Nói chung, động cơ cũng có
thể được nắp ở đế để truyền động khớp thứ hai hoặc khớp thứ ba
thông qua đai kim loại hoặc khâu thanh đẩy.
Một số cơ cấu chấp hành sử dụng bộ các bánh răng, xích và
đĩa xích để truyền động các khớp. Khi sử dụng hệ thống truyền
động này cho cơ cấu chấp hành qua nhiều khớp, độ dịch chuyển
của khớp sẽ phụ thuộc lẫn nhau.
Các cơ cấu chấp hành kiểu đó được gọi là vòng kín.
- Phân loại theo dạng hình học không gian làm việc:
Không gian làm việc của cơ cấu chấp hành được xác định là
thể tích không gian đầu tác động có thể với tới. Nói chung, thường
sử dụng hai định nghĩa về không gian làm việc. Thứ nhất là không
gian có thể với tới, thể tích không gian trong đó cơ cấu tác đ ộng có
thể với tới từng điểm theo ít nhất là một chiều. Thứ hai là không gian
linh hoạt, thể tích không gian trong đó cơ cấu tác động có thể với tới
từng điểm theo mọi chiều có thể. Không gian linh hoạt là một ph ần
của không gian có thể với tới.
Mặc dù đây không phải là điều kiện cần, nhưng nhi ều cơ cấu
chấp hành nối tiếp được thiết kế với ba khâu đầu dài hơn các khâu
còn lại. Do đó ba khâu này được dùng chủ yếu để thao tác vị trí, các
khâu còn lại được dùng để điều khiển hướng của đầu tác động. Vì lý
do đó, ba khâu đầu được gọi là cánh tay, các khâu còn lại đ ược gọi
là cổ tay. Trừ các cơ cấu chấp hành với số bậc tự do lớn hơn 6, cánh
tay thường có ba bậc tự do, cổ tay có 1-3 bậc tự do. Hơn nữa, bộ cổ
tay thường được thiết kế với các trục khớp cắt nhau tại một điểm
chung được gọi là tâm cổ tay. Bộ cánh tay có thể có nhiều kiểu
- cấu trúc động học, tạo ra các biên làm việc khác nhau, được gọi là
vùng không gian làm việc. Không gian do nhà sản xuất robot cung
cấp thường được xác định theo vùng không gian làm việc.
Tay máy được gọi là robot trụ nếu khớp thứ nhất hoặc khớp
thứ hai của robot Decartes được thay bằng khớp quay(Hình 1.4).
Tay máy được gọi là robot cầu nếu hai khớp đầu là khớp quay
khác nhau và khớp thứ ba là khớp lăng trụ (Hình 1.4 - tay máy
SCARA). Vị trí tâm cổ tay của robot cầu là tập hợp các tọa độ cầu
liên quan với ba biến khớp nối. Do đó không gian làm việc robot cầu
được giới hạn theo hai khối cầu đồng tâm.
Tay máy được gọi là robot quay nếu cả ba khớp đều là khớp quay.
Không gian làm việc của robot này rất phức tạp thường có tiết diện
hình xuyến. Nhiều robot công nghiệp là loại robot quay( Hình 1.4 -
tay máy REVOLUTE ).
Robot Song Song Delta
Vào đầu thập niên 80, Reymond Clavel (giáo sư của EPFL)
đã nảy ra một ý tưởng độc đáo là sử dụng các hình bình hành
để tạo ra một robot song song có ba bậc tự do tịnh tiến và một
bậc tự do quay. Không như một số bài báo đã xuất bản đâu đó,
ý tưởng này hoàn toàn là của Reymond Clavel chứ không ph ải
bắt chước từ cơ cấu song song đã được Willard L. Polard đăng
ký bản quyền vào năm 1942, và vào thời điểm đó Willard L.
Polard cũng không hề biết đến giáo sư Clavel. Robot song
song Delta đã được đánh giá là một trong những thiết kế robot
song song thành công nhất với hàng trăm robot đang hoạt
động trên toàn thế giới. Vào năm 1999, tiến sĩ Clavel đã nh ận
được giải thưởng Golden Robot Award do hiệp hội ABB
Flexible Automation trao tặng để tôn vinh những hoạt động
sáng tạo của ông về robot song song Delta.
- Sơ đồ robot delta.
Thiết kế của robot Delta:
Ý tưởng căn bản của thiết kế robot Delta là sử dụng các hình
bình hành. Các hình bình hành cho phép khâu ra duy trì một h ướng
cố định tương ứng với khâu vào. Việc sử dụng ba hình bình hành
hoàn toàn giữ chặt hướng của bệ di động duy trì chỉ với ba bậc tự do
tịnh tiến. Các khâu vào của 3 hình bình hành được gắn với các cánh
tay quay bằng các khớp quay. Các khớp quay của tay quay được
truyền động theo 2 cách: hoặc sử dụng các động cơ quay (DC hoặc
AC servo), hoặc bằng các bộ tác động tuyến tính. Cuối cùng, cánh
tay thứ tư được dùng để chuyển truyền chuyển động quay từ đế đến
khâu tác động cuối gắn trên tấm dịch chuyển.
Việc sử dụng các bộ tác động gắn trên đế và các khâu có khối
lượng nhẹ cho phép tấm dịch chuyển đạt được gia tốc lên đến 50 G
trong phòng thí nghiệm và 12 G trong các ứng dụng công nghiệp.
chính điều này làm cho robot Delta trở thành một ứng cử viên sáng
giá cho các hoạt động nâng – đặt đối với các đối tượng nhẹ (từ 10 gr
đến 1 kg). Vùng làm việc của nó là sự giao nhau của 3 đ ường gờ
- tròn, nhưng robot Delta trên thị trường có thể hoạt động trong vùng
làm việc hình trụ với đường kính là 1 m và có chiếu cao là 0,2 m.
Robot Delta trên thị trường:
Lịch sử của robot Delta trên thương trường rất dài, phức tạp
và vô cùng hấp dẫn. Mọi chuyện khởi nguồn từ năm 1983 khi mà hai
anh em người Thụy Sĩ là marc-Olivier và Pascal Demaurex thành lập
công ty Demaurex đóng tại Romanel-sur-Lausanne, Thụy Sĩ. Vào
năm 1987, họ mua giấy phép sử dụng robot Delta và đặt ra mục tiêu
chủ đạo là thương mại hóa robot này vào ngành công nghi ệp đóng
gói. Sau vài năm, Demaurex đã thành công trong vi ệc gi ữ vai trò
trọng yếu trong thị trường mới mẻ đầy khó khăn này. Và họ cũng đã
tiến hành một vài cải tiến sản phẩm của họ. Bốn phiên bản khác
cũng đã được đưa ra thị trường với tên gọi là Pack-Placer, Line-
Placer, Top-Placer và Presto. Đến thời điểm hiện nay, Demaurex
tuyên bố đã bán được hơn 500 robot Delta trên toàn thế giới.
Robot Line-Placer của hãng Demaurex dùng đ ể đóng gói bánh quy
Vào năm 1996, anh em nhà Demaurex đã mua bản quyền
robot Delta từ EPFL. Tuy nhiên, trước khi thương vụ này di ễn ra,
EPFL củng đã bán 2 giấy phép sử dụng. Giấy phép đầu tiên là về
loại robot có kích cỡ nhỏ (cánh tay và hình bình hành có chiếu dài
nhỏ hơn 800 mm) được cấp cho Demaurex vào năm 1987. Giấy
phép thứ hai về loại robot có kích cỡ lớn được bán cho AID và sau
- đó được bán lại cho DeeMed. Công ty này sau đó l ại đ ược mua l ại
bởi Elekta, một công ty Thụy Điển chuyên về lĩnh vực giải phẫu và
sản xuất robot Delta dùng để nâng đỡ kính hiển vi có khối lượng lớn
(20 kg), sản phẩm này có tên gọi là SurgiScope. Công nghệ robot
Delta lại một lần nữa được bán cho Medtronic vào cuối năm 1999.
Trước thương vụ SurgiScope, Elekta IGS đã tiến hành đàm
phán về giấy phép sử dụng robot Delta của họ với hãng ABB. ABB
cũng đã có được giấy phép sản xuất robot Delta với các kích cỡ lớn.
Cùng thời gian này Demaurex công bố quyết định sản xuất robot có
kích cỡ lớn hơn (khoảng từ 1.200 mm trở lên). Tuy vậy Demaurex có
lẽ không sản xuất các robot có kích cỡ lớn hơn vì đã giao ước không
thâm nhập vào thị trường robot có kích cỡ 1.200 mm trở lên mà chỉ
độc quyền sản suất các loại có kích cỡ dưới 800 mm.
- Demaurex cũng đã thỏa thuận với một công ty Đức tên là
GROB-Werke về giấy phép sản xuất tên TRIAGLIDE 5g, cũng như
với Mikron Technology Group về robot Triaglide, cả 2 robot này đ ều
là loại robot Delta được trang bị động cơ tuyến tính. Nh ưng thú vị ở
chỗ là có một sản phẩm đối chọi với robot Delta với hệ truyền động
tuyến tính là máy xay 3 trục tọa độ Quickstep được cấp bản quy ền
cho hãng Krause & Mauser Group (bản quyền số US 6,161,992).
Ngoài ra, Renault Automation Comau cũng đã giới thiệu tại EMO
năm 1999 ở Pari về máy xay Urane SX, máy này có thiết kế tương tự
như Quickstep.
Robot Delta của hãng Hitachi Seiki thực hiện chức năng nâng - đ ặt và khoan
Demaurex cũng cấp giấy phép cho một công ty Nhật Bản có
tên là Hitachi Seiki được quyền sản xuất robot Delta có kích cỡ nhỏ
dùng để đóng gói (sản phẩm có tên là DELTA) và khoan (PA35).
Trên thực tế, Hitachi Seiki là nhà đại diện của Demaurex tại Nh ật
Bản.
- Robot IRB 340 FlexPicker của hãng ABB Flexible Automation
ABB Flexible Automation đã giới thiệu các robot Delta của
mình vào năm 1999, đó là robot có tên IRB 340 FlaxPicker. 3 phân
khúc thị trường mà họ hướng tới là các ngành công nghiệp thực
phẩm, dược và điện tử. PlexPicker được trang bị hệ thống chân
không được tích hợp luôn vào robot, có khả năng nhấc và nhà nhanh
đối với các vật có khối lượng đến 1 kg. Robot đ ược dẫn h ướng bởi
một thiết bị quan sát của hãng Cognex và được trang bị bộ đi ều
khiển ABB S4C. Robot cũng có thể được trang bị một bộ điều khiển
chuyển động và hệ thống quan sát của hãng Adept Technology. Vận
tốc mà robot này đạt được khoảng 10 m/s và 3,6 deg/s (khoảng 150
lần nhấc trong một phút), và gia tốc lên đến 100 m/s 2 và 1,2 rad/s2.
Robot này có tới 2 phiên bản.
Sau hơn 15 năm giữ vai trò chủ đạo trên thị trường, Demaurex
đột nhiên phải đối diện với quyết định của ABB gia nhập vào thị
trường robot loại này. Demaurex đã thay đổi dòng sản phẩm t ừ các
- robot Delta rời rạc chuyển sang sản xuất các cụm robot hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, trong một nỗ lực nhằm bảo đảm sự ổn định lâu dài, hãng
Demaurex nhỏ bé bắt đầu tìm kiếm đối tác. Và sau đó, Demaurex đã
bắt tay hợp tác với một tập đoàn tại Thụy Sĩ là SIG vào cuối năm
1999.
SIG Group có 3 chi nhánh, mà chỉ với chi nhánh SIG Pack đã
có hơn 2.000 nhân công - một công ty đủ lớn để hỗ trợ Demaurex
nhiều mặt trong việc thâm nhập thị trường thế giới. Demaurex vẫn
giữ tên SIG và thậm chí cả 2 nhà sáng lập và ban lãnh đạo của SIG.
Gần đây, 3 robot Delta khác cũng đã được SIG Pack Systems giới
thiệu là C23, C33 (do Demaurex sản xuất) và CE33 (do SIG Pack
Systems sản xuất).
C33 và CE33
Sửa bởi hdl1107 ngày 11/5/2010 lúc 14:01
Read more: http://www.ant7.com/forum/forum_posts.asp?
TID=8430&PN=1#ixzz1JhgqWACs
nguon tai.lieu . vn