Xem mẫu

QUY HOẠCH TỔNG THỂ THUỶ LỢI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU-NƯỚC BIỂN DÂNG Đơn vị thực hiện: Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam Chủ nhiệm: Nguyễn Ngọc Anh Thời gian thực hiện: 18 tháng (9/2009-3/2011) Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc lãnh thổ Việt Nam và nằm trong lưu vực sông Mekong. Sông Mekong dài 4.200 km, chảy qua 6 nước là Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, có diện tích lưu vực 795.000 km2, trong đó vùng Châu thổ 49.367 km2. ĐBSCL là phần cuối cùng của Châu thổ sông Mekong, bao gồm 13 tỉnh/thành là Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và T.P Cần Thơ, với tổng diện tích tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, chiếm 79% diện tích toàn Châu thổ và bằng 5% diện tích toàn lưu vực sông Mekong. ĐBSCL có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của cả nước. Với tiềm năng nông nghiệp to lớn, trong những năm qua, ĐBSCL luôn đóng góp trên 50% tổng sản lượng lương thực, quyết định thực hiện thành công chiến lược an ninh lương thực Quốc gia và chiếm chủ đạo trong xuất khẩu gạo (hơn 90%), từ 2005 đến nay mỗi năm trung bình 4,5-6,0 triệu tấn. Đồng thời, ĐBSCL cũng cung cấp khoảng 70% lượng trái cây, trên 40% sản lượng thuỷ sản đánh bắt và trên 74,6% sản lượng thuỷ sản nuôi trồng của cả nước. Nổi bật lên nhất trong kết quả tăng trưởng của vùng phải kể đến sản lượng lúa từ 2005 đến nay luôn đạt trên 18,0 triệu tấn. Trong 20 năm trở lại đây, cứ trung bình 5 năm ĐBSCL lại tăng thêm khoảng 2,5 triệu tấn hay trung bình mỗi năm tăng thêm 500 ngàn tấn. Năm 2010 ước đạt trên 21 triệu tấn. Tổng sản lượng hải sản năm 2008 đạt trên 2 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt trên 1,42 triệu tấn, đặc biệt sản lượng cá da trơn tăng nhanh trong mấy năm vừa qua. Kim ngạch xuất khẩu toàn vùng năm 2008 đạt 4,176 tỷ USD, trong đó thủy sản chiếm 65% sản lượng và 90% sản lượng xuất khẩu cả nước. Giá trị công nghiệp năm 2007 trên địa bàn đạt trên 85.820 tỷ đồng. Công, nông nghiệp, xuất khẩu phát triển đã đưa cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm nông nghiệp, tăng công nghiệp và dịch vụ, với tỷ lệ năm 2008 với nông-lâm-ngư nghiệp là 45,9%; công nghiệp-xây dựng 21,3%; thương mại-dịch vụ 32,8%. Đặc biệt khi nhìn lại kết quả chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) các năm gần đây, vùng ĐBSCL được đánh giá khá lạc quan. Tầm quan trọng của ĐBSCL đối với cả nước được thể hiện ở ảnh hưởng to lớn của vùng trong cán cân phát triển chung, trong đó, sản lượng lương thực không chỉ luôn chiếm hơn 50% sản lượng toàn quốc, mà còn nhờ vào sự ổn định nên có tỷ trọng an ninh lương thực cao hơn hẳn so với 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung. Tuy nằm ở hạ lưu châu thổ sông Mekong, thừa hưởng nhiều thuận lợi từ vị trí địa lý, nguồn nước phong phú và được điều tiết tự nhiên bởi Biển Hồ, bờ biển và vùng biển rộng lớn với nhiều tài nguyên, đất đai bằng phẳng, màu mỡ và được phù sa bồi đắp hàng năm, thủy sản dồi dào với nhiều giống loài..., song ĐBSCL cũng phải luôn đối 1 mặt với không ít khó khăn và hạn chế trong điều kiện tự nhiên, với những tác động không nhỏ và khôn lường từ các hoạt động ở thượng lưu, và hơn cả là với các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ngay chính đồng bằng này. Trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội ở ĐBSCL, những hạn chế về điều kiện tự nhiên là rào cản không nhỏ, nếu không muốn nói là cực kỳ to lớn, đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân. Những hạn chế chính của điều kiện tự nhiên là (a) ảnh hưởng của lũ trên diện tích 1,9 triệu ha ở vùng đầu nguồn; (b) mặn xâm nhập trên diện tích khoảng 1,2-1,6 triệu ha ở vùng ven biển, ứng với độ mặn 4g/l; (c) đất phèn và sự lan truyền nước chua trên diện tích khoảng 1,2 triệu ha ở những vùng thấp trũng; (d) thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt trên diện tích khoảng 2,1 triệu ha ở những vùng xa sông, gần biển; và (e) xói lở bờ sông, bờ biển xảy ra nhiều nơi và ngày càng nghiêm trọng, cộng với nạn cháy rừng thường xảy ra, ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng… Để đáp ứng với nhu cầu phát triển của ĐBSCL, trong hơn 30 năm qua, nhiều công trình thủy lợi đã được đề xuất và xây dựng, đến nay diện tích ảnh hưởng mặn chỉ còn khoảng dưới 500.000 ha và diện tích ảnh hưởng chua phèn giảm đến mức tối thiểu chỉ còn dưới 100.000 ha. Đặc biệt, từ 1996, sau khi có Quyết định 99-TTg về phát triển thủy lợi kết hợp với giao thông và dân cư, phê duyệt quy hoạch kiểm soát và sử dụng nước lũ của Thủ tướng Chính phủ năm 1998, cộng với Quyết định 84/TTg về danh mục đầu tư thuỷ lợi trong giai đoạn 2005-2015, mở đầu cho hàng loạt công trình thuỷ lợi ra đời, là động lực và đòn bẩy quan trọng cho vùng ĐBSCL có cơ hội và điều kiện phát triển nhanh chóng hơn. Chính nhờ sự phát triển thủy lợi mang tính chiến lược ấy, cùng với ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật và động lực phát triển khác, ĐBSCL đã đưa sản lượng lúa từ 4,5 triệu tấn năm 1976 lên 18,3 triệu tấn năm 2004, 19,2 triệu tấn năm 2007 và 21,3 triệu tấn năm 2010, tạo những bước nhảy vọt mang tầm vóc lịch sử. Song, với những biến động thiên nhiên và thị trường trong những năm qua, cùng với việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất với quy mô lớn và rộng khắp từ năm 2001 đến nay, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cho công tác phát triển thủy lợi. Những vấn đề đó không chỉ là những bài toán đặt riêng ngành thủy lợi, như kiểm soát lũ, cấp nước, tiêu nước, kiểm soát mặn, phòng chống xói lở bờ... mà còn là sự phối hợp để giải bài toán đa mục tiêu với thủy lợi phục vụ cho phát triển nông nghiệp, dân cư, giao thông, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp... và đặc biệt là phục vụ phát triển thủy sản (mặn, lợ). Thêm vào đó, trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu ngày càng thể hiện rõ nét và diễn biến phức tạp, đặc biệt là trên 2 yếu tố dòng chảy từ thượng lưu và nước biển dâng. Nếu như tác động của BĐKH lên giá trị trung bình xảy ra từ từ, phải mất hàng chục năm, thì tác động lên các giá trị cực trị xảy ra nhanh và ngày càng khốc liệt hơn. Trong 10 năm qua, ĐBSCL đã xuất hiện 3 năm lũ lớn liên tiếp là 2000, 2001 và 2002 (trong đó lũ năm 2000 được xem là lũ lịch sử); 8 năm liền có lũ dưới trung bình và nhỏ (trong đó có lũ năm 2008 và 2010 là 2 năm lũ nhỏ lịch sử); 8 năm liền dòng chảy kiệt dưới trung bình (trong đó năm 2004, 2008 và 2010 là những năm thấp hơn cả, gây hạn hán nghiêm trọng và xâm nhập mặn sâu); bão lớn đổ bộ vào 2 năm 1997 (Linda) và 2006 (Durian); xói lở bờ sông, bờ biển xảy ra nhiều nơi với số lần tăng hơn (trên sông Tiền các năm 2001, 2002, 2004, 2005, sông Hậu các năm 2009, 2010 và ven biển Cà Mau 2 năm gần đây); cháy rừng xảy ra vào năm 2002 ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng; tố lốc xuất hiện ngày càng nhiều và nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm. 2 Do vậy, để đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn 2010-2020/2030 và tầm nhìn đến 2050, đặc biệt là ứng phó chủ động và hiệu quả với các tác động từ BĐKH, nước biển dâng và phát triển của các nước thượng lưu, trong đó có phát triển thuỷ điện, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam thực hiện Dự án “Quy hoạch thuỷ lợi tổng hợp Đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng”, được thực hiện trong 22 tháng, từ tháng 9/2009 đến tháng 6/2011. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một trong các Bộ đã sớm xây dựng chương trình thích ứng với BĐKH-nước biển dâng lên nguồn nước, ngập lụt, hạn hán, sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực và hiện đang tích cực thực hiện các quy hoạch thuỷ lợi thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho 3 vùng ĐBSCL, Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung. Quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSCL trong điều kiện BĐKH, NBD là một dự án lớn và phức tạp, cả về quy mô phối hợp (đa ngành), trải rộng theo không gian (toàn ĐBSCL) và nhìn về tương lai (dự báo đến 2020/2030 và tầm nhìn đến 2050), trong khi các ngành khác hoặc chưa quy hoạch đến 2020, hoặc chưa quy hoạch ứng phó với BĐKH, NBD và lại phải thực hiện trong thời gian ngắn. Vì thế, trong quá trình thực hiện, Viện đã tiến hành nhiều cuộc hội thảo với 13 tỉnh/thành ĐBSCL và tất cả các ngành liên quan, cũng như mời các chuyên gia trong và ngoài ngành tham dự để lấy ý kiến đóng góp cho quy hoạch này. I. PHẠM VI QUY HOẠCH Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh, thành phố là Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ, với tổng diện tích tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, dân số khoảng 18 triệu người. II. QUAN ĐIỂM - Xuất phát từ thực tế ở Đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi ngày càng bất lợi của thời tiết, khí hậu, thuỷ văn; phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp (cây trồng, vật nuôi) của nhân dân các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; nâng cao giá trị sản xuất hàng hoá trên một đơn vị diện tích. - Điều chỉnh bổ sung quy hoạch thuỷ lợi trên cơ sở kế thừa, cập nhật, bổ sung, điều chỉnh Quy hoạch thuỷ lợi Đồng bằng sông Cửu Long đã được phê duyệt theo Quyết định số 84/2006/QĐ-TTg ngày 19/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ; phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. - Điều chỉnh quy hoạch thuỷ lợi góp phần bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, tài nguyên đất vùng ĐBSCL; kết hợp hài hoà giải pháp công trình và phi công trình, nhất là các giải pháp về quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; tận dụng hiệu quả các lợi ích do thiên nhiên mang lại (lũ mang phù sa, nguồn lợi thuỷ sản, vệ sinh đồng ruộng, sinh thái mặn và nuôi trồng thuỷ sản...); hạn chế tác hại do nước gây ra, nhất là hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn, các tác hại do biến đổi khí hậu, nước biển dâng; bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững. 3 - Ưu tiên điều chỉnh, bổ sung danh mục công trình nhằm khép kín, hoàn thiện các hệ thống thủy lợi lớn trong vùng đã được đề xuất trong Quyết định 84/2006/QĐ-TTg nhằm phát huy hiệu quả của các công trình; các công trình phát huy hiệu ích tổng hợp, phục vụ đa mục tiêu; các công trình, hệ thống có đủ năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; đảm bảo các tiêu chí về kinh tế, kỹ thuật, xã hội và môi trường. - Các phương án quy hoạch phát triển thuỷ lợi tuy đã được lựa chọn nhưng vẫn là những phương án “mở” để có thể điều chỉnh, thay đổi khi cần thiết. Mỗi công trình, hệ thống công trình đề xuất cũng đều đáp ứng các tiêu chí về kinh tế, kỹ thuật, xã hội và môi trường. - Huy động mọi nguồn lực từ ngân sách Nhà nước, các nguồn vốn hợp pháp khác trong nước và ngoài nước, đóng góp của người dân vùng hưởng lợi để đầu tư xây dựng công trình theo Quy hoạch. III. MỤC TIÊU QUY HOẠCH 3.1 Mục tiêu chung - Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhằm hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, phục vụ sản xuất nông nghiệp trong tình hình mới, chủ động thích ứng trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng; góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững; - Căn cứ nội Quy hoạch này, các ngành, các cấp xây dựng, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với định hướng phát triển chung của ĐBSCL nói riêng và lưu vực sông Mê Công nói chung; - Điều chỉnh, bổ sung các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi và kế hoạch thực hiện hàng năm giai đoạn 2010-2020; sau năm 2020 và định hướng đến năm 2050; - Đề xuất, kiến nghị các vấn đề còn tồn tại, tiếp tục nghiên cứu bổ sung quy hoạch nhất là trong điều kiện sử dụng nước thượng lưu sông Mê Công, tình hình biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tương lai. 3.2 Mục tiêu cụ thể - Phát triển thuỷ lợi góp phần đảm bảo an toàn dân sinh, sản xuất, cơ sở hạ tầng cho khoảng 32 triệu dân ĐBSCL (ước tính đến năm 2050), trong đó khoảng 20 triệu dân vùng ngập lũ và 12 triệu dân vùng ven biển; - Hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi góp phần đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia; chủ động cấp nước, tiêu thoát nước, kiểm soát lũ, kiểm soát mặn ổn định cho 1,781 triệu ha đất lúa vùng ĐBSCL; chủ động nguồn nước đảm bảo lịch thời vụ và quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi (tập trung vào vụ 3 trong năm); đề xuất giải pháp cung cấp nước ngọt, nước mặn ổn định và bền vững cho khoảng 0,7 triệu ha diện tích nuôi trông thuỷ sản nước lợ và nước ngọt; - Hoàn chỉnh hệ thống đê biển, đê bao ngăn mặn ven biển và dọc sông, cùng với hệ thống cống điều tiết nhằm ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị và lợi nhuận trên một đơn vị diện tích, khai thác tốt nhất ba thế mạnh: Sản xuất lúa; Nuôi trồng thuỷ sản; Trồng và chế biến các loại rau, quả và thực phẩm đem lại hiệu quả cao; 4 - Góp phần phục vụ ổn định xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống của người dân nhằm ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng-an ninh trong vùng; - Chủ động các giải pháp ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn, dòng chảy kiệt thượng lưu; - Đề xuất giải pháp phòng chống xói lở, bồi lắng và bảo vệ nguồn nước, giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái; - Kết hợp hài hòa giữa giải pháp công trình và phi công trình, đồng thời với việc tăng cường và thực hiện tốt công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu-nước biển dâng. IV. NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA QUY HOẠCH - Phối hợp với các ngành, các địa phương cập nhật, bổ sung quy hoạch phát triển trên cơ sở tiếp tục triển khai các công trình theo Quyết định 84/2006/QĐ-TTg. - Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thuỷ lợi ĐBSCL trong điều kiện BĐKH-NBD phù hợp với Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. - Trên cơ sở định hướng Chiến lược phát triển thủy lợi, Chiến lược phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, triển khai hoàn thiện, khép kín hệ thống thuỷ lợi đã đề xuất trong Quy hoạch để phát huy nhiệm vụ thiết kế. Điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ của các công trình đã đề xuất đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Xây dựng mới các công trình phục vụ đa mục tiêu ứng phó với BĐKH-NBD. V. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THUỶ LỢI Ở ĐBSCL 5.1 Tình hình đầu tư thuỷ lợi ĐBSCL Ngày 09/02/1996, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 99/QĐ-TTg về “Định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và xây dựng nông thôn vùng ĐBSCL”. Theo quyết định này, ngay từ 1996, nhiều công trình thủy lợi kết hợp với giao thông, đặc biệt là giao thông nông thôn và bố trí dân cư đã được triển khai, nâng cao hiệu quả của các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở cho vùng ĐBSCL. Ngày 21/6/1999, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 144/QĐ-TTg về phê duyệt “Quy hoạch về kiểm soát và sử dụng nước lũ vùng ĐBSCL giai đoạn từ nay đến 2010”. Với Quyết định này, sự đầu tư cho vùng lũ được đẩy mạnh, mà tập trung trước hết là vùng Tứ giác Long Xuyên. Chỉ trong 4 năm, 1996-1999, nhiều công trình trong hệ thống kiểm soát lũ vùng TGLX ra đời và đến nay, hệ thống kiểm soát lũ này đã khá hoàn chỉnh, bao gồm các tuyến thoát lũ ra biển Tây, các đập tràn kiểm soát lũ đầu vụ tuyến Vĩnh Tế, các cửa thoát lũ qua QL80 và ra biển… Tiếp đến, ngày 19/4/2006, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 84/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt“Điều chỉnh bổ sung Quy hoạch thuỷ lợi Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020”, kèm theo Quyết định phê duyệt là danh mục đầu tư các công trình thủy lợi từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho các giai đoạn đến năm 2010 và 2020, trong đó giai đoạn 2006-2010 ưu tiên tập trung đầu tư cho 79 công trình, chủ yếu giải quyết những vấn đề cấp bách nhất về thủy lợi tại các địa phương ở ĐBSCL về các mặt như kiểm soát lũ, cấp nước tưới, tiêu, ngăn mặn, phòng chống sạt lở, nuôi trồng thuỷ sản… 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn