Xem mẫu

  1. Quản trị rủi ro trong tài chính doanh nghiệp Quản trị tài chính doanh nghiệp là quản trả các quan hệ tài chính phát sinh trong doanh nghiệp, bao gồm: lựa chọn để quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định, các giải pháp về tài chính trong suốt quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Đây cũng là lĩnh vực tiềm ẩn những rủi ro lớn và không ít trường hợp, khi rủi ro xảy ra, việc khắc phục chúng trở thành bất khả kháng đối với các doanh nghiệp.
  2. Những rủi ro thường gặp trong tài chính doanh nghiệp Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông, “rủi ro là điều không lành mạnh, không tốt bất ngờ xảy ra”. Vậy, rủi ro trong tài chính là “những điều không lành mạnh, không tốt, bất ngờ xẩy ra trong tài chính doanh nghiệp”. Khoa học về quản trị tài chính doanh nghiệp (TCDN) và tổng kết từ thực tiễn đã cho thấy, rủi ro trong TCDN luôn luôn gắn liền với tình trạng lạm phát trong nền kinh tế và gồm có: Một là, rủi ro về cân đối dòng tiền Các luồng tiền vào doanh nghiệp (dòng thu) và các luồng tiền ra khỏi doanh nghiệp (dòng chi) diễn ra một cách thường xuyên liên tục. Trên thực tế, tại những thời điểm nhất định có thể xảy ra, hiện tượng lượng tiền vào doanh nghiệp (số thu) nhỏ hơn lượng tiền ra khỏi doanh nghiệp (số chi) đến hạn. Khi đó, tình trạng mất cân đối về dòng tiền đã xẩy ra. Sự mất cân đối này tiềm ẩn một rủi ro lớn đối với hoạt động kinh doanh. Do thiếu tiền, việc mua nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu... phục vụ cho sản xuất kinh doanh có thể bị dừng lại, dẫn đến ngừng sản xuất, kinh doanh; tiền lương của công nhân và các khoản vay (nếu có) không được trả đúng hạn ảnh hưởng lớn tới uy tín của doanh nghiệp, v.v... Sự mất cân đối dòng tiền được chia thành: mất cân đối tạm thời và mất cân đối dài hạn. Có thể nói, ở bất kỳ doanh nghiệp nào cũng xảy ra mất cân đối tạm thời do việc thu hồi các khoản nợ phải thu không đúng kế hoạch; việc góp vốn không được thực hiện đúng cam kết... Mất cân đối tạm thời về dòng tiền có thể khắc phục được bằng nhiều biện pháp và hậu quả thường không lớn. Mất cân đối dài hạn xảy
  3. ra do những nguyên nhân quan trọng như: phần định phí trong tổng chi phí của doanh nghiệp quá lớn; vốn lưu động tự có quá ít; nợ khó đòi tăng lên; doanh thu chưa bù đắp đủ các khoản chi phí thường xuyên, v.v… Khi lạm phát xảy ra trong nền kinh tế, do tác động dây chuyền giữa các doanh nghiệp, số nợ phải thu, đặc biệt là nợ phải thu khó đòi tăng lên, mất cân đối tạm thời rất dễ chuyển thành mất cân đối dài hạn. Mất cân đối dài hạn về dòng tiền có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Hai là, rủi do về lãi suất tiền vay Để phục vụ kinh doanh, đầu tư, hầu như tất cả các doanh nghiệp đều phải sử dụng vốn vay. Do đó, lãi suất tiền vay - chi phí sử dụng vốn - trở thành bộ phận cấu thành quan trọng trong chi phí sản xuất kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp. Khi lập kế hoạch kinh doanh và dự án đầu tư, lãi suất tiền vay đã được dự tính. Song, có rất nhiều nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp tác động đến lãi suất tiền vay. Thông thường khi lạm phát xảy ra, lãi suất tiền vay tăng đột biến. Do đó, những tính toán, dự kiến trong kế hoạch kinh doanh, đầu tư bị đảo lộn. Một rủi ro lớn đã xảy ra và ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh. Lượng tiền vay càng lớn, tác động tiêu cực của rủi ro này càng nghiêm trọng và có thể dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp nếu nó tồn tại trong một thời kỳ dài. Ba là, rủi ro về sức mua của thị trường Sức mua của thị trường là nhân tố quyết định khả năng tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp và do đó, nó cũng quyết định dòng tiền vào doanh nghiệp. Song, sức mua của thị trường lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán. Khi lạm phát, giá cả
  4. hàng hóa trên thị trường tăng cao, thu nhập của người lao động và các tầng lớp dân cư không tăng hoặc tăng chậm hơn chỉ số lạm phát và tất yếu dẫn đến sức mua giảm. Quan trọng hơn nữa, cơ cấu tiêu dùng cũng thay đổi. Phần lớn khả năng thanh toán tập trung cho những nhu cầu thiết yếu. Vì vậy, sẽ có không ít mặt hàng lượng tiêu thụ sẽ giảm đi đáng kể. Khi đó, rủi ro về sức mua của thị trường đã xảy ra. Nó thể hiện qua số lượng hàng hóa tiêu thụ được giảm, giá bán không bù đắp được chi phí sản xuất, kinh doanh. Bốn là, rủi ro về tỷ giá hối đoái Là rủi ro xẩy ra khi các giao dịch kinh tế được thực hiện bằng ngoại tệ và tỷ giá hối đoái biến động theo hướng làm cho đồng nội tệ bị mất giá. Với những doanh nghiệp sử dụng nhiều ngoại tệ, khi tỷ giá hối đoái tăng, số lỗ về tỷ giá có thể làm giảm đáng kể, thậm chí là triệt tiêu toàn bộ lợi nhuận thu được trong kinh doanh. Đây là rủi ro bất khả kháng của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế nhập siêu với tỷ lệ lớn. Năm là, rủi ro về khả năng tái đầu tư Muốn phát triển bền vững, quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp phải diễn ra liên tục, vòng sau phải cao hơn vòng trước. Đó chính là quá trình tái đầu tư. Nguồn vốn để tái đầu tư là quỹ khấu hao, lợi nhuận thu được từ quá trình sản xuất kia doanh trước đó. Khi lạm phát xẩy ra, nguồn vốn để tái đầu tư bị giảm đi, thậm chí là một số âm. Do đó, khả năng tái đầu tư bị triệt tiêu, doanh nghiệp sẽ không thể hoạt động liên tục, quy mô kinh doanh bị thu hẹp. Nếu điều đó xẩy ra trong một thời gian dài, doanh nghiệp có thể sẽ "biến mình trên thị trường. Với
  5. những doanh nghiệp đang thực hiện các dự án đầu tư lạm phát có thể làm cho dự án đầu tư phải dừng lại thậm chí là "nằm chờ vĩnh viễn" do tổng mức đầu tư tăng đột biến, lãi suất tiền vay tăng cao, việc vay vốn bị chặn lại... Quản trị rủi ro trong tài chính Các doanh nghiệp - phòng hơn chống Nguyên nhân xảy ra các rủi ro về tài chính doanh nghiệp có ở tầm vi mô - hay là công tác quản trị của bản thân các doanh nghiệp và cả ở tầm vĩ mô - hay là những biến động trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, phòng ngừa rủi ro từ việc quản trị và điều hành hàng ngày phải được coi là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc quản từ các rủi ro đối với từng doanh nghiệp. Với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, các doanh nghiệp cần thực hiện những biện pháp sau đây: Tôn trọng nguyên tắc thận trọng khi lập kế hoạch KD hoặc dự án đầu tư: Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính trong KD, đầu tư. Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi: Phải lập các khoản dự phòng nhưng không tạp quá lớn; Không đánh giá cao hơn giá trị của các TS và các khoản thu nhập; Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí;
  6. Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí. Thường xuyên phân tích tình hình tài chính nhằm nhận diện những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Một trong những công cụ để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là xác định và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua sự biến động của các chỉ tiêu tài chính quan trọng như: Hệ số vốn tự có; Hệ số thanh toán hiện thời; Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn; Hệ số thanh toán nhanh; Hệ số thanh toán của vốn lưu động. v.v... Quản lý chặt chẽ nợ phải trả và nợ phải thu: Biện pháp này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên nắm chắc danh mục các khoản nợ phải trả và nợ phải thu; có kế hoạch thanh toán nợ và thu nợ; không để nợ phải trả cộng dồn quá lớn và không để phát sinh nợ phải thu khó đòi... Thực hiện nghiêm túc các quy định về thời hạn trong kinh doanh, đầu tư: Trong kinh doanh, cố gắng thực hiện các thương vụ với thời hạn ngắn; trong đầu tư, tập trung giải quyết dứt điểm từng phần công việc theo đúng tiến độ… Điều đó sẽ giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động bất khả kháng của thị trường.
  7. Kiện toàn bộ máy kế toán, thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán quản trị để thường xuyên có được những thông tin trung thực, chính xác và đầy đủ về tình hình tài chính của doanh nghiệp phục vụ cho việc phân tích và ra những quyết định quản lý. Đồng thời, bên cạnh lực lượng cán bộ kế toán, mỗi doanh nghiệp cần có một giám đốc tài chính - người thực hiện chức năng quản trị tài chính của doanh nghiệp; thực hiện những biện pháp phòng ngừa rủi ro trong tài chính doanh nghiệp. Nhà nước - Không thể đứng ngoài cuộc Các rủi ro trong tài chính doanh nghiệp thường gắn liền với hiện tượng lạm phát trong nền kinh tế. Lạm phát xảy ra do rất nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là những nguyên nhân khách quan từ thị trường thế giới, từ việc điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Hơn nữa, các doanh nghiệp là những tế bào của nền kinh tế quốc dân, là nơi tạo ra của cải vật chất, là lực lượng chủ yếu trong việc đóng góp vào ngân sách nhà nước. Do đó, khi lạm phát xảy ra, các doanh nghiệp phải đối mặt với tất cả các rủi ro về tài chính thì nhà nước không thể đứng ngoài cuộc. Có một số ý kiến cho rằng, lạm phát lại là một thời cơ để thị trường thanh lọc và loại trừ các doanh nghiệp yếu; để các doanh nghiệp tiến hành cải tổ và phát triển bền vững hơn. Điều đó không hoàn toàn sai. Song, cũng không nên quá nhấn mạnh ý nghĩa của điều đó rồi phó mặc cho các doanh nghiệp “lặn, ngụp” trong vô vàn khó khăn do lạm phát. Lạm phát là một căn bệnh của nền kinh tế. Không ai nhờ bệnh dịch để thanh lọc cuộc sống con người. Vì vậy Nhà nước - người có quyền thu thuế và có chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân - cần có những biện
  8. pháp cấp bách và hữu hiệu để giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chống đỡ được với những rủi ro về tài chính do lạm phát.
nguon tai.lieu . vn