Xem mẫu

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011


QUAN TÂM ĐẾN SỰ KHÁC BIỆT GIỮA GIÁO VIÊN VÀ
HỌC SINH GÓP PHẦN GIẢM TẢI TRONG VIỆC HỌC TOÁN
CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ

NGUYỄN TÁ QUỐC (*)

TÓM TẮT
Trong việc giảng dạy môn toán, khi bàn về sự quá tải chúng ta thường đề cập đến
chương trình, sách giáo khoa và áp lực thi cử. Tuy nhiên, có một yếu tố khác ít được lưu
tâm đến cũng góp phần tạo ra sự tăng tải và áp lực cho học sinh, đó là sự khác biệt giữa
thầy và trò.

ABSTRACT
In teaching math, then discussing the overload we often mention programs, textbooks
and exam pressure. However there are other factors also little attention to contribute to
the increased load and pressure resources for students such as the differences between
teachers and students.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ (*) bài học mới không phải lúc nào cũng dễ
Khi bàn đến việc giảm tải, ngoài dàng tiếp thu trọn vẹn. Vì thế một bộ phận
chương trình, sách giáo khoa (SGK) và áp không nhỏ trong HS thường gặp phải lúng
lực thi cử, chúng tôi cố gắng tìm hiểu xem túng khi thực hành. Sau đây là những khác
còn có nguyên nhân nào khác cũng góp biệt cơ bản.
phần tạo ra áp lực cho học sinh (HS) hay 2.1. Quỹ thời gian để tiếp cận kiến
không. Với suy nghĩ đó, chúng tôi nhận thức
thấy rằng chính những thói quen và kinh Với ưu thế về thời gian và chỉ dạy một
nghiệm trong nhiều năm đứng lớp của giáo môn trong nhiều năm liền đối với GV, mọi
viên (GV) nếu không cẩn thận cũng vô tình vấn đề trong SGK trở nên quá quen thuộc.
tạo nên sự khác biệt giữa thầy và trò, góp Trong khi đó, suốt một năm học HS phải
phần tạo ra sự tăng tải và áp lực cho HS. học nhiều môn mà môn nào đối với các em
2. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN cũng mới. Thêm vào đó, quỹ thời gian của
Thật vậy, do cách nhìn nhận chủ quan các em phải dành cho các môn học khác
nên từ khâu thiết kế bài giảng cho đến khâu trong ngày, chưa kể còn phải dành cho các
đứng lớp và ra đề kiểm tra (tạm gọi chung sinh hoạt khác ngoài nhà trường.
là công việc soạn giảng), GV thường nghĩ 2.2. Kiến thức và kinh nghiệm học tập
rằng nội dung bài học trong SGK là quá bộ môn
đơn giản nên đã giảm thời lượng học phần Trong quá trình soạn giảng, GV hầu
lí thuyết để dành quỹ thời gian tiết kiệm đó như thuộc lòng nội dung trong SGK của
tăng cường cho việc thực hành. Trong khi môn học mà mình đang giảng dạy. Trái lại,
đó, đối với HS, nội dung của từng đơn vị đối với HS, các em chỉ mới trong giai đoạn
chinh phục kiến thức mới, thiếu kinh
(*)
Trường Trung học Thực hành Sài Gòn, thuộc nghiệm, kiến thức cũ đã học trong các năm
Trường Đại học Sài Gòn.

26
học trước bị rơi rụng dần (nhất là đối với GV chủ động tạo điều kiện để HS nhớ lại
những HS mất căn bản), điều này đã góp kiến thức đã học. Việc làm này giúp HS
phần làm hạn chế khả năng tiếp thu kiến theo kịp và nắm bắt được nội dung truyền
thức mới trên lớp. đạt trong quá trình học tập bài mới.
2.3. Vận dụng kiến thức đã học và kĩ - Về nội dung, GV cần xác định được
năng thực hành, trình bày cách giải những nội dung cơ bản và trọng tâm, nội
Nhờ vào vốn kiến thức và kinh nghiệm dung cần khắc sâu ngay trên lớp, nội dung
được tích lũy nhiều năm nên GV có nhiều nào sẽ được giảng giải, phát triển trong quá
ưu thế trong việc vận dụng kiến thức để trình luyện tập (không nhất thiết phải giảng
giải quyết nhanh các bài tập quen thuộc hết tất cả những gì ghi trong SGK). Đặc
trong chương trình đang giảng dạy bằng biệt với đơn vị kiến thức mà HS khó tiếp
con đường ngắn nhất. Vì thế, GV cứ nghĩ thu GV cần quan tâm hơn đến cách gợi mở,
rằng HS cũng như mình nên ít để ý đến dẫn dắt nhịp độ chậm để HS không cảm
những khó khăn của HS gặp phải trong thấy bị choáng ngợp.
việc vận dụng kiến thức mới để giải quyết - GV cần cân nhắc chọn lọc có chủ
các bài tập trong SGK. đích đối với những nội dung giao việc cho
3. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT HS sau mỗi tiết học trong đó có cả việc
Khi đứng trên bục giảng, tất cả GV đều yêu cầu xem lại những kiến thức cũ đã học
mong muốn HS của mình yêu thích bộ trước đó mà HS cần phải nhớ để giúp các
môn, hứng thú, tiếp thu tốt nội dung bài em có điều kiện hiểu được nội dung bài
học. học mới.
Để đạt được điều mong ước trên, - Việc chọn lựa bài tập để HS luyện tập
phương pháp dạy học, ngoài ngoại hình, trên lớp hoặc giao về nhà sao cho có tính
khả năng ngôn ngữ, kiến thức bộ môn, vừa sức, có tính hệ thống: từ đơn giản đến
trong quá trình soạn giảng, GV cần lưu tâm phức tạp, từ dạng áp dụng đơn giản một
xem HS của mình đã biết những gì trước đơn vị kiến thức đến dạng bài tập tích hợp
khi bước vào bài học mới, đơn vị kiến thức một vài hay nhiều đơn vị kiến thức kể cả
nào của bài học mới khó tiếp thu, điều kiện kiến thức cũ và bài tập trước đó, góp phần
tập trung học tập thuận lợi hay bị chi phối gợi mở cho bài tập sau với số lượng vừa
bởi các yếu tố khách quan nào. Từ đó, GV phải giúp HS có điều kiện rèn luyện, củng
chủ động chọn lựa các giải pháp thích hợp, cố kiến thức.
hài hoà từ khâu thiết kế bài giảng cho đến 3.2. Hướng dẫn học sinh học tập trên
khâu đứng lớp. lớp
3.1. Thiết kế bài giảng Bài giảng sống động, tạo sự hứng thú
Đầu tư cẩn thận trong khâu thiết kế bài cho HS được quyết định bằng nghệ thuật
giảng sẽ giúp GV làm chủ kiến thức, tạo sự lên lớp của GV thông việc thực hiện các
phối hợp nhịp nhàng của thầy và trò trên nội dung đã chuẩn bị trong khâu thiết kế.
lớp, tiết kiệm được thời giờ và công sức. 3.2.1. Kiểm tra bài cũ và sửa chữa bài
Việc đầu tư sẽ trọn vẹn hơn nếu GV luôn tập đã cho về nhà
lưu tâm đến các yêu cầu sau đây: Đối với môn toán, bước kiểm tra bài cũ
- Phải dự tính vốn kiến thức mà HS được tiến hành cùng lúc với việc kiểm tra
cần có trước khi bước vào bài học mới để HS thực hiện bài tập ở nhà theo yêu cầu

27
của GV và việc tổ chức sửa chữa các bài không đủ thời giờ học các môn khác vì
tập đó trên lớp kể cả việc kết hợp kiểm tra phải dành cho việc giải quyết các bài tập
lồng ghép trong quá trình giảng dạy kiến của thầy giao (thường gặp nhiều trong tiết
thức mới. luyện tập), trong khi đó trên lớp, do sửa
Do quỹ thời gian có hạn mà việc sửa chữa không kịp nên thầy hẹn sẽ tiếp tục
chữa bài tập chiếm nhiều thời gian vì phải sửa vào tiết học kế tiếp.
củng cố, bổ sung kiến thức, rút kinh nghiệm 3.2.3. Hướng dẫn học sinh tiếp cận bài
trong việc định hướng cách tiếp cận và học mới
trình bày cách giải cho HS. Muốn được như Để góp phần làm giảm áp lực học tập
thế, GV cần phải chọn lọc những “bài tập cho HS, GV phải tạo cho HS cảm thấy
gốc” để HS luyện tập và sửa chữa, tránh hứng thú, tự tin, chủ động trong quá trình
tình trạng ôm đồm, sử dụng biện pháp sửa tiếp cận nội dung cơ bản trọng tâm của bài
chữa đồng loạt với vài ba HS lên bảng cùng học mới với lượng thời gian cần thiết.
một lúc sẽ không mang lại hiệu quả. Muốn thế, GV cần lưu tâm làm tốt các nội
Trong khi tiến hành sửa chữa bài tập dung sau:
trên lớp, GV không nên nôn nóng, cầu toàn - Nêu vấn đề cần tìm hiểu bằng hệ
yêu cầu HS trình bày cách giải giống như thống câu hỏi gợi mở rõ ràng, dễ hiểu với
của mình (phải có thói quen chấp nhận sự số lượng câu vừa phải và đặc biệt là dành
khác biệt và khuyến khích sự sáng tạo) mà thời lượng tương xứng để tạo điều kiện
chủ yếu là xem HS hiểu và vận dụng thuận lợi cho HS khi thảo luận nhóm kể cả
những kiến thức mới học để giải quyết bài khi cá nhân độc lập suy nghĩ. Sự chậm rãi,
tập đạt được mức độ nào. Sự hoà nhã, độ ung dung, linh hoạt của GV trong quá trình
lượng, cảm thông của GV có giá trị khích điều khiển lớp học là rất có ích vì HS cần
lệ, động viên rất lớn góp phần tạo nên sự tự có đủ thời gian để tập trung suy nghĩ.
tin, an tâm, giúp HS yêu thích và học tốt - Đối với kiến thức trọng tâm, GV cần
môn toán. làm cho HS nắm được bản chất của vấn đề
3.2.2. Yêu cầu học sinh làm tiếp bài thông qua rèn luyện thực hành, trực quan,
tập sau khi sửa chữa bài tập đã cho về nhà kết hợp với liên hệ thực tế và vốn sống của
trong tiết luyện tập HS nhằm giúp các em ít gặp khó khăn hơn
GV cần phải hiểu rằng việc cho HS khi làm bài tập ở nhà.
tiếp tục làm bài tập trên lớp ngay sau khi - GV cần định hướng, giải thích cho
sửa chữa các bài tập đã cho về nhà là cần HS biết ý nghĩa, mục đích, tầm quan trọng
thiết vì có các ích lợi như sau: của nội dung bài sắp học để làm tăng sự
- Góp phần củng cố kiến thức và kinh chú ý cho HS. Qua đó, tập cho HS thói
nghiệm có được từ việc sửa chữa trước đó. quen tìm hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng
- Gián tiếp buộc HS phải tập trung chú của nội dung của bài học, giúp các em tập
ý, theo dõi sửa chữa bài tập cẩn thận và lớp trung khắc sâu kiến thức, tránh được cách
học sẽ trật tự hơn. học dàn trải thiếu định hướng.
- Giúp GV kiểm tra, đánh giá được - Tổ chức cho HS sử dụng SGK trên
mức độ tiếp thu của HS trong quá trình học lớp một cách hợp lí vừa giúp cho thầy kiểm
tập. tra được việc chuẩn bị ở nhà, vừa tạo điều
- Tránh được tình trạng ở nhà, HS kiện để HS động não, suy nghĩ.Việc mở

28
SGK để đọc, tìm hiểu và việc gấp SGK lại theo chuẩn kiến thức của chương trình do
để HS tập trung nghe giảng và suy nghĩ, tất Bộ GD - ĐT qui định, có độ phân hoá vừa
cả đều được GV trù tính cẩn thận khi thiết phải và không có tính đánh đố nặng nề.
kế bài giảng. Ngoài ra nội dung kiểm tra còn phải đảm
3.3. Giao bài tập về nhà và chuẩn bị bảo củng cố kiến thức trọng tâm đã học,
bài mới tính kế thừa và phát triển tạo điều kiện cho
Việc giao bài tập về nhà và yêu cầu HS tiếp thu tốt bài học mới.
chuẩn bị bài mới, GV không nên chạy theo 3.4.2. Mức độ khó của đề kiểm tra và
số lượng mà phải có chủ đích, đáp ứng thời gian làm bài của học sinh
được tính vừa sức của HS và yêu cầu sửa Mức độ khó và đảm bảo đủ thời gian
chữa đầy đủ, cẩn thận trên lớp. Cụ thể là: khi làm bài kiểm tra có tính tương đối, luôn
- Giúp HS củng cố và khắc sâu kiến chi phối bởi sự trái ngược: GV chủ động và
thức trọng tâm thông qua giải quyết các bài HS bị động.
tập giao về nhà. Hệ thống bài tập được Thật vậy, GV thường phải dành nhiều
thiết kế theo kiểu nhiều đường tròn đồng thời giờ đầu tư trong việc chọn lọc nội
tâm. dung để soạn một đề kiểm tra cho HS,
- Đảm bảo tính khả thi về thời gian với chưa kể đến việc thầy đã giải thử và soạn
khối lượng công việc vừa đủ và có mức độ trước đáp án. Vì thế trước giờ cho HS làm
yêu cầu khác nhau cho HS giỏi, khá, trung bài kiểm tra, GV không có điều gì phải
bình, yếu. bận tâm. Trong khi đó, HS luôn ở thế bị
- Đối với bài tập có nội dung mới, lạ động, thường rất quan tâm, lo lắng trước
hoặc khó thì GV nên gợi ý cho HS. giờ kiểm tra. Vì vậy, khi soạn đề kiểm tra,
- Khi yêu cầu chuẩn bị bài mới, GV GV cần lưu tâm đến tính vừa sức trong
nên giao cụ thể nội dung thông qua đề mục khung kiến thức chuẩn, tính kế thừa và
hay hệ thống câu hỏi để HS dễ thực hiện và phát triển. Đặc biệt là phải đảm bảo đủ
đảm bảo tính kế thừa cho việc học tiếp theo thời gian dành cho HS đọc kĩ tìm hiểu đề
trên lớp, không nên giao việc chung chung bài, suy nghĩ và làm bài cẩn thận.
như: “Về nhà, các em hãy chuẩn bị bài mới 4. KẾT LUẬN
tựa … trang … trong SGK”. Trong quá trình dạy và học môn toán,
3.4. Ra đề kiểm tra sự quan tâm đúng mực của GV với HS
Thái độ học tập của HS trên lớp hay cũng góp phần tạo môi trường học tập thân
ngoài lớp đều phụ thuộc vào nội dung và thiện. HS sẽ an tâm hơn vì biết rằng luôn
hình thức kiểm tra của GV trên lớp. Sự được sự cảm thông, chia sẻ. Nhờ thế mà
đúng mức và hợp lí của đề kiểm tra cũng tiết học toán vốn khô khan sẽ trở nên nhẹ
giúp định hướng, động viên sự hỗ trợ kèm nhàng, sinh động và hứng thú hơn. Để kết
cặp của phụ huynh ngoài giờ lên lớp giúp thúc bài viết, chúng tôi xin mượn câu nói
HS học tập chuyên cần và đạt hiệu quả cao. của một nhà sư phạm nổi tiếng của người
Vì vậy, khi soạn đề kiểm tra GV cần lưu ý Pháp G. Brousseau đã từng đề cập đến một
đến hai yêu cầu sau đây: hiện tượng (hay đúng hơn là một nguy cơ)
3.4.1. Nội dung kiểm tra trong dạy học toán là: giáo viên thường cho
Nội dung của bài kiểm tra 15 phút hay rằng (và mong muốn rằng) “học sinh có
1 tiết đều phải là những nội dung trọng tâm “cái đầu” giống mình!”.

29
nguon tai.lieu . vn