Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP ………..***………. THUYẾT MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG Tên đề tài QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY 1
  2. THÁI NGUYÊN - 2010 MỤC LỤC Nội dung Stt Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 1 NỘI DUNG 2 7 Chương 1: KHÁI QUÁT QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC 1.1 Quan niệm của Nho gia về con người 7 1.2 Quan niệm của Mặc gia về con người 11 1.3 Quan niệm của Pháp gia về con người 13 Chương 2: QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI VỚI 15 NGƯỜI TRONG XÃ HỘI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1 Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người với 15 người 2.2 Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa người với 20 người 2.4 Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa người với người 22 2.4 Ý nghĩa của các quan niệm nêu trên trong việc xây dựng con 24 người mới ở Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN 3 39 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 4 41 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị. Con người là thước đo của mọi bậc thang giá trị. LÞch sö nh©n lo¹i, xÐt ®Õn cïng, lµ lÞch sö gi¶i quyÕt vÊn ®Ò con ngêi, tõng bíc tho¸t khái thÇn quyÒn vµ b¹o quyÒn ®Ó ®i ®Õn môc tiªu cuèi cïng lµ ph¸t triÓn toµn diÖn c¸ nh©n trong x· héi v¨n minh. Kh«ng mét d©n téc nµo tån t¹i vµ ph¸t triÓn l¹i kh«ng chó ý tíi vÊn ®Ò con ng êi, cã ®iÒu lµ kh¸c nhau ë môc ®Ých vµ ph¬ng ph¸p gi¶i quyÕt mµ th«i. Nhận thức được vai trò to lớn của vÊn ®Ò con người, đặc biệc trong thời kỳ đổi mới đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người chủ nghĩa xã hội.Con người chủ nghĩa xã hội chính là con người mới, phát triển toàn diện: có tinh thần làm chủ xã hội, có trí thức văn hoá và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân. Hiện nay, thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện, Đại hội l ần thứ IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra ch ủ trương phát tri ển ngu ồn lực con người với yêu cầu ngày càng cao, không thể không kế thừa các giá trị truy ền thống của dân tộc nói riêng và kế thừa tinh hoa của tư tưởng nhân loại về con người nói chung. Chúng ta xây dựng nền văn hóa mới, đạo đức m ới, con ng ười mới trên nền tảng những giá trị ấy, trong đó có cả nh ững quan ni ệm v ề đ ạo đ ức, con người của trường phái Nho gia, Mặc gia và Pháp gia. V ấn đ ề đ ặt ra là, chúng ta có thể và cần phải kế thừa những gì, loại bỏ nh ững gì t ừ trong di s ản đ ạo đ ức, con người của các trường phái triết học nói trên. Do đó, khai thác và phát huy những điểm tích cực cũng như khắc phục, xóa bỏ những hạn ch ế của quan ni ệm về đạo đức, con người Nho gia, Mặc gia, Pháp gia trong việc xây dựng và hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giờ đây là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 3
  4. Xuất phát từ vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài: “Quan niệm về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu – Chi ến Quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học của tôi, ở Việt Nam có các tác giả sau: Vũ Minh Tâm (chủ biên): “Tư tưởng triết học về con người”, Nxb Giáo dục, 1996. An Mạnh Toàn (dịch): “con người- những ý kiến mới về một đề tài cũ” , Nxb Sự thật, Hà Nội. Gi¸o s Ph¹m Nh C¬ng (chñ biªn): : “VÒ vÊn ®Ò con ngêi vµ x©y dùng con ngêi míi”, Nxb Giáo dục, 1978. Vâ Nguyªn Gi¸p (chñ biªn): Chñ tÞch Hå ChÝ Minh víi sù nghiÖp x©y dùng con ngêi míi- In trong cuèn "Chñ tÞch Hå ChÝ Minh, ng êi chiÕn sÜ céng s¶n kiªn cêng...", Nxb Th«ng tin lý luËn, Hµ Néi, 1990. Nguyễn Văn Hiền: “Thuyết kiêm ái: nội dung, giá trị và ý nghĩa đối với việc xây dựng đạo đức ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số 232, 9-2010. Triệu Quang Minh, Trần Thị Lan Hương: “Vấn đề con người trong quan niệm pháp trị của Hàn Phi”, tạp chí Triết học, số 219, 8-2010. Nguyễn Thị Thu Thủy: “Một số nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và vai trò, ý nghĩa của nó với việc hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay”, Báo cáo NCKH năm 2010. Và còn rất nhiều những công trình khác và những bài viết trong các tạp chí khi nói về con người nói chung, trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại th ời Xuân Thu - Chiến Quốc. Những công trình và bài viết trên đã phân tích khái quát một cách chung nhất và làm sáng tỏ vấn đề con người trong lịch s ử t ư t ưởng nhân loại. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên trong đề tài nghiên cứu khoa học này, tôi 4
  5. chỉ trình bày một số quan niệm cơ bản về con người trong lịch s ử tri ết h ọc Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc, từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích: Báo cáo khoa học trình bày một cách hệ thống Quan niệm về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc và rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người m ới ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục đích có 3 nhiệm vụ: + Quan niệm của các học phái về con người - Quan niệm của Nho gia về con người. - Quan niệm của Mặc gia về con người. - Quan niệm của Pháp gia về con người. + Quan niệm của các học phái về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. - Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa con người với con ng ười - trong xã hội Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa con người với con ng ười - trong xã hội. + Rút ra ý nghĩa của vấn đề phân tích trên trong vi ệc xây d ựng con ng ười m ới ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là một số quan niệm cơ bản về con người trong l ịch s ử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc, từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. 5
  6. Phạm vi nghiên cứu là các tài liệu liên quan đến đạo đức, con ng ười c ủa trường phái Nho gia, Mặc gia, Pháp gia và vấn đ ề con ng ười trong vi ệc xây d ựng con người mới ở Việt Nam. 5. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu Báo cáo dựa trên cơ sở của những nguyên lý triết học Mác – Lênin, đồng thời sử dụng và kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp logic – lịch sử, phương pháp khái quát hóa và trừu tượng hóa… 6. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ hệ thống quan niệm con người trong trường phái triết học Nho gia, Mặc gia và Pháp gia, qua đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay. Những kết quả đạt được của báo cáo nghiên cứu khoa học là sự bổ sung cho quá trình nghiên cứu về quan niệm con người trong giai đoạn Xuân Thu - Chi ến Quốc ở Trung Quốc và ý nghĩa của nó trong giai đoạn hiện nay. Vì v ậy, nó có th ể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học tập về vấn đề con người trong quan niệm của triết học Trung Quốc cổ trung đại nói riêng và vấn đề con người nói chung. 7. Kết cấu của báo cáo khoa học Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung c ủa báo cáo g ồm 2 chương, 7 tiết. Chương 1: Khái quát quan niệm về con người trong triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc (gồm 3 tiết). Chương 2: Quan niệm về mối quan hệ giữa con người với con người trong giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con ng ười mới ở Việt Nam hiện nay (gồm 4 tiết). 6
  7. NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC Như chúng ta đã biết Trung Quốc là một quốc gia nhiều dân tộc có lịch sử lâu đời, là một trong những nước có nền văn minh sớm nhất trên th ế giới. Triết học Trung Quốc từ khi ra đời đến nay, đã trải qua các giai đo ạn phát tri ển t ừ H ạ, Thương, Tây Chu và đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc (707 TCN-221 TCN). Có thể nói rằng đây là thời kỳ phồn vinh, trăm hoa đua nở, Ch ư t ử bách gia đã r ầm r ộ sáng lập nên các hệ thống triết học độc đáo. Từ thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ có nhiều biến động lớn lao, toàn diện kéo dài cho đến giữa thế kỷ th ứ III TCN. Lịch sử gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Ở thời kỳ này đ ồ sắt xu ất hi ện phổ biến, công cụ bằng sắt tham gia vào thế giới công cụ. Đây cũng là th ời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Thế kỷ thứ VI và th ứ V TCN xu ất hi ện những thành thị thương nghiệp buôn bán nhộn nhịp ở các nước Hàn, Tề, Tần, S ở. Thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, t ừng b ước tách ra kh ỏi ch ế độ thành thị thị tộc của quý tộc thị tộc, thành nh ững đơn v ị khu v ực c ủa t ầng l ớp địa chủ mới lên. Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác đ ộng mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng xã h ội. Giai cấp 7
  8. quý tộc, thị tộc Chu bị mất đất đai, mất dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút và chính điều này đã ảnh hưởng đến địa vị chính trị, ngôi Thiên Tử c ủa nhà Chu, biến sự tồn tại vua chỉ còn là hình thức. Sự phân biệt sang hèn d ựa trên tiêu chu ẩn huyết thống của chế độ thị tộc không còn phù hợp, đòi hỏi trong lúc này, xã hội phân chia phải dựa trên cơ sở tài sản. Các nước chư h ầu c ủa nhà Chu không ch ịu phục tùng vương mệnh, không chịu cống nạp, mang quân thôn tính lẫn nhau, tự xưng Bá “Vương đạo suy vi”, tầng lớp quý tộc địa ch ủ mới lên ngày càng giàu có, lấn át cả quý tộc thị tộc cũ “trên yếu dưới mạnh” thậm chí còn chiếm cả chính quyền. Như vậy, kết quả của những biến động kinh tế đã dẫn đ ến s ự đa d ạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện đan xen và mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn chính nổi lên trong thời kỳ này là mâu thu ẫn giữa tầng lớp mới lên có tài sản, có địa vị kinh tế trong xã hội (Hiển tộc) nhưng không được tham gia vào chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc cũ c ủa nhà Chu. Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công thương nhân với giai c ấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ phận tách ra, chuyển hoá lên giai tầng m ới, m ột mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một mặt họ cũng không hài lòng với trật t ự cũ của nó. Họ muốn cải biến nó bằng con đường cải lương, cải cách. Tầng lớp ti ểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên tấn công về chính tr ị và kinh tế, mặt khác họ cũng mâu thuẫn với tầng lớp đại quý t ộc th ị t ộc đang n ắm chính quyền. Mâu thuẫn giữa nông dân công xã thuộc các tộc bị người Chu nô dịch với nhà Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của họ. Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch s ử đang đòi h ỏi gi ải th ể ch ế đ ộ nô lệ thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến đòi h ỏi gi ải th ể ch ế đ ộ c ủa nhà n ước gia trưởng, xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân, giải phóng lực lượng sản xuất mở đường cho xã hội phát triển. Xã hội trong th ời kỳ này đang chuy ển mình dữ dội, kinh tế phát triển, tầng lớp dân tự do xuất hiện, đ ặc bi ệt là s ự ra đ ời c ủa các thành thị. Những thành quả đạt được trên nhiều lĩnh vực chính là ngu ồn đ ộng 8
  9. lực quan trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến của tư tưởng của th ời kỳ này. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư t ử” (trăm nhà trăm th ầy), “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình “tranh minh” đó đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành nên hệ th ống tri ết h ọc khá hoàn chỉnh. Khởi nguồn của tư tưởng triết học Trung Quốc có thể là thần tho ại th ời tiền sử. Song tư tưởng triết học Trung Quốc trong đó có “vấn đề con người” trở thành hệ thống hoàn chỉnh thì phải đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc thời đại của trí tuệ được giải phóng, trí thức được tôn là thầy, trí th ức được phổ cập. Phong trào “Bách gia chư tử”, “Bách gia tranh minh” là biểu hi ện sinh đ ộng c ủa t ư t ưởng học thuật từ quyền lực nhà nước chuyển xuống thiên hạ rộng rãi. Cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc học thuyết của các tư tưởng gia mọc lên nh ư rừng trong kho ảng “103 nhà” nổi lên “ Sáu nhà”. Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Âm Dương gia trong đó có ảnh hưởng lớn nhất là Nho gia, Mặc gia và Pháp gia. Nội dung tư tưởng triết học của ba học phái này lấy con người làm trung tâm và mục tiêu nhận thức. Đề cao giá trị đạo đức và tinh thần nhân văn; khẳng định giá trị tích cực của con người đối với mình và đối v ới xã h ội; đ ặt con ng ười trong mối quan hệ giữa con người với con người. Các học phái này t ập trung phân tích con người từ bản chất và có mục tiêu chung là xây d ựng con ng ười đ ạo đ ức, có nghĩa, có nguyên tắc. 1.1.Quan niệm của Nho gia về con người Trong lịch sử triết học Trung Quốc, Nho giáo là một trường phái triết h ọc đã đưa ra học thuyết chính trị đạo đức để giáo hoá con ng ười, nh ằm c ủng c ố duy trì trật tự xã hội. Để làm được điều đó, giáo lý của Nho giáo thiên về việc xem xét lý giải con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề chính vẫn là luận bàn về bản tính con người thông qua khái niệm “tính người”, “tâm người”, “lý người”, tức chỉ là bàn đến phẩm chất tinh thần, ý thức tâm lý, t ư tưởng mà chưa đi sâu vào bản chất đích thực của con người. Mặc dù, mỗi nhà tri ết h ọc c ủa 9
  10. Nho giáo xem xét bản chất con người ở mỗi khía cạnh khác nhau ( Kh ổng T ử: Tính tương cận, tập tương viễn; Mạnh Tử:tính thiện; Tuân Tử: tính ác), song trong toàn bộ quá trình vận động của lịch sử tư tưởng thì ở họ, vẫn có sự kế thừa, phát triển và làm cho quan niệm về bản chất con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. 1.1.1. Khổng Tử chưa đi sâu vào nghiên cứu bản chất con ng ười. Tuy vậy, khi bàn về bản chất con người Khổng Tử đã cho rằng bản tính của con người là thiện và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người. Ông nói: “Tính tương c ận gi ả, tập tương viễn giả” [8, tr.81]. Nghĩa là con người khi m ới sinh ra đ ều có tính tr ời phú cho là gần giống nhau, nhưng do quá trình tiếp xúc và h ọc hành làm cho h ọ có sự khác nhau: có kẻ trí , người ngu. Phẩm chất của con người là chất phác, chân thực. Nó là điều kiện thuận lợi để trau dồi đức nhân và t ất c ả các đ ức khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản tính của con người là thi ện nh ưng vì con ng ười quen thói đời mê vật dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Vì vậy, khi con người đã có nhân thì phải luôn giữ lấy điều nhân, đừng bao giờ xa rời nó, dù ch ỉ trong một kho ảnh khắc thời gian. Vào thời Chiến Quốc do hoàn cảnh lịch sử có nhi ều bi ến động nên các nhà tư tưởng của trường phái triết học Nho giáo khi xem xét bản ch ất con ng ười đã tuyệt đối hoá một mặt trong bản chất con người hoặc là thiện hoặc là ác. M ặc dù Mạnh Tử và Tuân Tử là môn đồ của trường phái triết học Nho gia nh ưng khi bàn về bản chất của con người, hai ông đã có sự đối lập nhau th ậm chí nhi ều khi còn có sự trái ngược nhau trong quan điểm nhưng dù họ có sự tuyệt đối hoá về mặt này hay mặt khác, thì vẫn có sự kế thừa,bổ sung và phát triển t ư tưởng c ủa Khổng Tử với những góc độ khác nhau và ở chính họ cũng có sự bổ sung cho nhau khi xem xét bản chất con người. 1.1.2. Khi bàn về bản chất con người, Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là thiện và tính thiện của con người thể hiện qua bốn đức lớn: nhân, lễ, nghĩa, trí. Bốn đức lớn đó của con người bắt nguồn từ tứ đoan hay bốn đầu m ối 10
  11. của thiện, còn gọi là thiện đoan, là tài ch ất, bản ch ất tr ời phú cho con ng ười, sinh ra đã có như mầm cây trong hạt giống, như tứ chi của cơ thể. Bốn tứ đoan là: lòng trắc ẩn (biết thương sót), lòng tu ố (biết thẹn ghét), lòng t ừ nh ượng (bi ết cung kính) và lòng thị phi (biết phân biệt phải trái). Không có lòng tr ắc ẩn thì khong phải là người, không có lòng từ nhượng thì không ph ải là người, không có lòng th ị phi thì cũng không phải là người. Trắc ẩn là đầu mối của nhân, tu ố là đầu mối của nghĩa, từ nhượng là đầu mối của lễ, và th ị phi là đ ầu mối c ủa trí. Con ng ười có bốn cái đầu mối ấy như thân thể có sẵn tứ chi. Đây là nh ững đoan mà con người khi sinh ra đã có. Tứ đoan là bốn cái đầu mối của đi ều thi ện nên g ọi là thiện đoan. Thiện đoan là cái tính cố hữu của con người. Nếu con ng ười bi ết nuôi dưỡng thiện đoan thì dễ dàng trở thành thánh nhân còn nếu đánh mất thiện đoan để nó mai một, suy tàn thì trở nên nhỏ nhen không khác gì loài cầm thú. Đã có bốn mối ấy ở trong mình, mà biết mở rộng ra cho thông thì nh ư l ửa mới b ắt đầu cháy, như suối mới bắt đầu chảy. Bên cạnh đó theo Mạnh Tử, bản chất con người là thiện còn vì “tính là cái chung là cái bản ch ất c ủa m ột loài”. Ở loài ng ười, có nhiều điểm giống nhau, trong đó điểm giống nhau đầu tiên là tài ch ất, là b ản năng thiện do trời phú cho. Sau đó là sự giống nhau ở các quan năng để nhận biết tốt xấu thị phi. Với tài chất và quan năng ấy, ai cũng sẵn có mầm thiện Mạnh Tử nói, phàm những vật đồng loại đều mang một bản tính giống nhau tại sao đối v ới con người, người ta lại nghi ngờ rằng bản tính lại tương tự? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều là một loại tức là tâm tính giống nhau hết thảy. Bản chất con người là thiện còn vì trong mỗi con người đều có cái tâm. Tâm là cái chủ thể trong tinh thần của con người là cái thần minh trời phú cho con người để hiểu bết, ứng xử với vạn vật, để phân biệt phải, trái, tốt, x ấu… bi ết được điều này chính là bốn đầu mối của thiện, bốn đầu m ối đó vốn có s ẵn trong con người không phải do bên ngoài nâng đúc. Theo Mạnh Tử tâm là cái gốc của tính thiện, tâm với tính là một và tâm là do trời phú nên khi bi ết cái tính c ủa mình là biết cái tính của trời, tâm là nơi phân biệt mọi điều ph ải trái t ốt x ấu, nên s ự 11
  12. hiểu biết từ tâm sâu sắc hơn từ sự hiểu biết ở các quan năng. Trong các quan năng thì tai, mắt là cái không suy nghĩ nên bị sự vật bên ngoài che lấp v ật ti ếp xúc v ới vật nên dễ bị vật đem đi lạc đường. Tâm là cái suy nghĩ thì hi ểu đ ược l ẽ ph ải, hiểu được chính tà. Như vậy theo Mạnh Tử, cái biết phải trái, chính tà, nhân nghĩa đã có thiện do tâm đem lại là cái tự mình biết trời sinh làm ng ười đã có cái bi ết ấy. Đó là cái biết tiên thiện là cái “sinh tri” của con người. Mặc dù cho rằng con người sinh ra đã có sẵn tính thiện nhưng theo Mạnh Tử, tính thiện đó không phải là bất biến. Con người có thể đánh mất cái tâm c ố hữu của mình, sa vào con đường bất thiện khi có ngoại cảnh xấu tác động. B ản tính của con người giống như bản tính nước chảy vào chỗ trũng. Không một người nào khi sinh ra mà tự bất thiện, cũng nh ư không một th ứ nước nào khi sinh ra mà lại chảy ngược dòng. Song, nếu như bị đắp đập ngăn bờ thì nước sẽ ch ảy tràn cả núi. Cũng vậy, nếu bị vật dục che lấp thì bản tính v ốn lành s ẽ ng ược chiều ngay. Tuy nhiên tác động của ngoại cảnh cũng có gi ới h ạn c ủa nó. Khi tâm của con người thật vững vàng thì vật dụng vô hiệu. Chính vì vậy, Mạnh Tử rất chú ý đến vấn đề giáo hoá để làm cho con người không mai một lương tâm. Như vậy, với Mạnh Tử, bản tính trời phú cho con người là thiện và n ếu có thành ra bất thiện là vì con người không biết giữ lấy cái tâm. B ởi ông tin có cái thiện là lí trí thiện, mà tính con người là một phần của thi ện lí ấy. Và con ng ười cần giáo dục làm cho bản tính thiện đó không bị mờ tối và cần ph ải trau d ồi nó cho nó phát triển để trở thành một người tốt. 1.1.3. Cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử đã tận mắt thấy cảnh tranh giành xâu xé, chém giết lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa con người với con người trong xã hội, nên ông chủ trương lý giải bản chất con ng ười b ắt đ ầu b ằng tính ác. Theo ông, vì khi mới sinh ra con người vốn đã có sẵn lòng ham muốn và dục vọng nên để thoả mãn những ham muốn và dục vọng đó, con ng ười ph ải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình. Và đi ều đó t ất ph ải d ẫn đ ến s ự tranh giành xâu xé, cướp bóc, chiếm đoạt của nhau. Tuân Tử cho rằng: “tính con 12
  13. người sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì ra đo ạt l ẫn nhau và s ự t ừ nh ượng không có, sinh ra là đố kị, thuận theo tính đó thì thành ra tàn t ặc, mà lòng trung tín không có, sinh ra có lòng muốn của tai mắt có lòng thích v ề thanh s ắc, thu ận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lý không có. Nh ư th ế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta, tất sinh ra tranh đo ạt, ph ạm vào cái phận (tức là quyền lợi của nhau), làm loạn cái lý mà ph ải m ắc l ối tàn b ạo cho nên phải có thầy có phép để cải hoá cái tính đó, có lễ nghĩa đ ể d ẫn d ắt nó r ồi sau m ới có từ nhượng hợp văn lý và thành ra trị” [8, tr 325]. Như vậy, Tuân Tử cho rằng tính ban đầu của con người là ác, còn tính thiện là do con ng ười sáng t ạo ra. Tuân Tử cho rằng, cái tính của con người là do hoà khí xung h ợp mà thành tính linh h ợp với mọi vật và có sự cảm ứng lẫn nhau sự yêu ghét, mừng giận, thương vui của tính gọi là tình. Tình là cái vô cùng, cho nên ph ải có cái tâm đ ể ch ọn cái nên và cái không nên mà làm, gọi là “tư lự”. Có tâm tư lự đ ể khi ến con ng ười hành đ ộng và con người cần phải có sự học tập , rèn luyện thì mới uốn nắn được cái bản tính của mình. Nếu như Mạnh Tử cho rằng: nhân, lễ, nghĩa, trí là bốn cái đầu mối c ủa tính người thì Tuân Tử cho rằng, đầu mối của con người là lòng hiếu lợi, lòng đố kị và lòng dục, chính ra cái này khi mới sinh ra đã sẵn có, còn nhân nghĩa l ễ trí là do con người đặt ra chứ không phải là do trời sinh ra. Mặc dù Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác, nhưng con người có thể tạo ra được tính thiện, và để tạo ra được tính thiện thì con ng ười ph ải có th ầy, có phép dạy bảo thì mới thành thiện và cũng cần phải có lễ nghĩa giáo hoá con người. Ông nói: “Đời xưa thánh nhân lấy cái tính của ng ười ta là ác, l ấy s ự thiên lệch nguy hiểm mà không chính, lội loạn mà không trị, bởi thế mới kh ởi s ướng lên lễ nghĩa và chế định ra chế độ để hiểu cái tình của người ta mà chính lại để nuôi hoá cái tính tình của người ta mà đạo dẫn khi ến cho theo cái tr ị h ợp cái đ ạo. Người ta ai hoá theo thầy, theo phép, tích tập văn hoá theo l ễ nghĩa là ng ười quân tử, buông cái tính tình để yên sự nom dòm mà trái lễ nghĩa là kẻ ti ểu nhân. L ấy 13
  14. thế mà xem, thì cái tính ác của con người ta rõ l ắm, mà cái thi ện mà ng ười ta gây ra vậy” [8, tr 327]. Như vậy xem xét tư tưởng của các nhà nho Trung Quốc cổ đ ại chúng ta thấy có một bước chuyển trong quan niệm về bản ch ất con ng ười, m ặc dù h ọ có sự khác nhau trong các quan niệm dó, tuyệt đối hoá tính thiện hoặc tính ác của con người. Nhưng thực ra đây là sự bổ sung cho nhau, làm cho quan niệm về bản chất con người của trường phái triết học nho giáo Trung Quốc cổ đại thêm da d ạng và phong phú, ngày một hoàn thiện hơn, và đây cũng là một cống hiến cho kho tàng tri thức nhân loại về vấn đề này của các nhà triết học nho giáo Trung Quốc c ổ đại. 1.2. Quan niệm của Mặc gia về con người Khi nói đến học phái mặc gia ta không thể không nhắc tới Mặc Tử, ông là người sáng lập ra học phái này, khi bàn về con người cũng giống như Khổng Tử ông luôn đề cao đức nhân nghĩa. Nhưng quan niệm ý nghĩa và phạm trù nhân nghĩa của Mặc Tử khác với quan điểm của Khổng Tử. Nếu như Khổng Tử “nhân” là đạo sống của con người theo “thiên lí” hay “đạo trời” là “ái nhân” (yêu th ương người) là “trung thứ” (hết lòng hết dạ thành tâm, thật ý, suy lòng mình ra lòng người cái gì mình không muốn thì dừng đem thi hành cho người khác), nhưng lại có sự phân biệt thứ bậc, “thương yêu người thân, quí trọng người sang”, thì nhân nghĩa của Mặc Tử là ý chí của trời gồm yêu tất cả mọi người và làm l ợi cho tất cả mọi người như nhau, không phân biệt trên dưới, thân sơ quí tiện. Dó chính là nội dung của chủ nghĩa” kiêm ái”. Vì thế “kiêm ái” được coi là nội dung t ư t ưởng chủ yếu nhất trong học thuyết của Mặc Tử. Tư tưởng đó với ý nghĩa sâu xa c ủa nó đủ gắn với trường phái triết học mang tên Mặc Tử n ổi danh một th ời ở Trung Quốc cổ đại. Trong sách Mặc Tử có ba thiên làn về “kiêm ái” (kiêm ái th ượng, trung, hạ). Theo Mặc Tử “kiêm” là gồm gộp hết thảy nh ư nhau, trái v ới “bi ệt” là sự chia sẻ phân biệt nhau. “ái” là lòng yêu thương con người, trái với “ố” là sự thù ghét lẫn nhau. Yêu mình như yêu người, yêu người ngoài cũng như yêu ng ười 14
  15. thân, không có người làng mình, người làng người, người nước mình, người n ước người. Đó chính là ý chí của trời: “gồm yêu hết thảy những kẻ mà ta yêu”. Vì thế “kiêm ái” cũng có nghĩa là nhân nghĩa. Người nhân nghĩa là người thực hiện “kiêm ái”. Kiêm ái là cái thực của nhân, là nội dung của nghĩa. “Ái” là nhân, “kiêm” là nghĩa. “Kiêm ái” hay nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại lợi ích cho mọi người. Vì vậy, khi nói tới “kiêm ái” hay nhân nghĩa Mặc Tử th ường nói t ới cái l ợi c ủa thiên hạ: “lợi nghĩa là vậy” (lợi nghĩa là dã) (Mặc Tử kinh thượng). nghĩa là danh, l ợi là thực. Nghĩa là cái tên đẹp của lợi là cái thực của nghĩa. Nh ư thế “kiêm ái” theo Mặc tử còn bao hàm nội dung thứ hai là “làm lợi cho h ết th ảy m ọi ng ười nh ư nhau”… “Kiêm ái” không chỉ là ý chỉ của trời mà còn là đạo lý của thánh nhân, không “kiêm ái” thì thiên hạ loạn, “kiêm ái” thì thiên h ạ trị, kiêm ái là nhân nghĩa nên khi thực hiện được cái đức căn bản ấy sẽ làm cho đạo đức luân lý xã h ội tr ở nên t ốt đẹp và con người có thể đạt được tất cả các phẩm chất tốt đẹp khác nh ư: Huệ, trung, từ, hiếu, kính đễ… người người no đủ, nhà nhà hạnh phúc, quốc gia yêu lành, thiên hạ bình trị. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử, Mặc Tử nói đến con người là nói đến nhân nghĩa, nói đến con người đạo đức. Tư tưởng chủ yếu của Mặc tử được thể hiện qua học thuyết “kiêm ái”, con người sinh ra là để “ái nhân” (yêu người), yêu tất cả mọi người không phân biệt người quân tử hay kẻ tiểu nhân, người làng này hay người làng khác, người nước này với người nước khác. Với quan điểm “thượng đồng” ông coi mọi người bình đẳng như nhau, ông phản đối chiến tranh. Khác với Khổng Tử, Khổng Tử thì đề cao “Thiên m ệnh”, ưa chu ộng những chế độ cổ truyền như: thi, thư, lễ, nhạc, đặc biệt là lễ nghĩa phép t ắc. Ông chủ trương giáo hoá con người bằng các quy tắc đạo đức cơ bản như nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng theo những nghi lễ tôn giáo của chế độ phụ quyền. Mặc Tử thì trái lại, chủ trương “phi mệnh”, “phi nho”, “phi nhạc”, “tiết táng”, “tuyên truy ền”, 15
  16. kiêm ái”, “thượng hiền”, “ thượng đồng” theo “thiên trí” và “minh quý”. Từ đó ông đặt tất cả các vấn đề về luân lý, đạo đức, chính trị xã h ội trên c ơ s ở “kiêm ái” và chủ nghĩa công lợi. 1.3. Quan điểm của Pháp gia về con người Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử giữ vai trò đặc biệt. Trước và cùng thời với Hàn Phi Tử đã có nhi ều người bàn về con người, về tính ngươì. Phái Nho gia nh ư Kh ổng Tử cho rằng con người sinh ra vốn là gần nhau, nhưng do tập tục xã h ội mà ph ải xa nhau. Còn Mạnh Tử thì quan niệm, con người sinh ra vốn là thiện. Bốn đầu mối của thiện là tứ đoan, là nhân, lễ, nghĩa, trí có sẵn trong tâm. Trái với các quan điểm trên Tuân Tử cho rằng con người sinh ra vốn là ác. Mặc gia cho rằng con người cao quí thì tính tình tất phải “kiêm ái” và “hỗ lợi”. Hàn Phi Tử cũng bàn về con người, tính người hay nói cách khác là bản chất của con người. Là học trò của Tuân Tử ông kế thừa và phát triển thuyết “tính ác” của thầy mình, Hàn Phi T ử cho r ằng b ản chất của con người là “ích kỉ” và đặc tính chủ y ếu của nó là s ự ham mê l ợi ích và thù ghét tai hoạ (Hàn Phi Tử, Vong Trưng) rằng không có con người nào mà l ại “không mong muốn nhận được sự giúp đỡ của người khác” và không tính toán, ham lợi ích của người khác (Hàn Phi Tử, Cô Phẫn). Xuất phát từ luận điểm “lợi ích vật chất là cơ sở của tất cả quan hệ xã h ội và hành vi con người” Hàn Phi Tử cho rằng “con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi, luôn thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó…” (Hàn Phi T ử, gian kiếp thí thần), đó là bản tính tự nhiên. Vì vậy tất cả các quan hệ xã hội (kể cả các quan hệ đạo đức ruột thịt…) đều được xây dựng trên cơ sở tính toán lợi hại cá nhân. Người chủ cho người làm thuê ăn uống và trả tiền công khá sòng ph ẳng không phải vì lòng thương người, mà chính là để cho người làm thuê gắng s ức làm việc, còn người làm thuê tận tâm làm việc không ph ải vì thương ch ủ mà vì được ăn uống và có tiền bạc… Tất cả các quan h ệ cha – con, vợ- ch ồng, anh- em, vua- tôi đều có chỗ lợi hại như vậy.” Vua bán trách nhiệm và chức tước, còn bề 16
  17. tôi bán tri thức và sức lực (Hàn Phi Tử, gian ki ếp thí th ần). Chính vì v ậy mu ốn tr ị dân để dân theo nhân nghĩa chỉ là một ảo tưởng của Nho Gia, làm h ại cho n ước vì tính con người ta vốn ác (Hàn Phi Tử, Lục Phản). H ơn n ữa, n ếu dùng nhân nghĩa để phán xét phải trái sẽ rơi vào tình trạng dùng nhân nghĩa cá nhân để định nặng nhẹ thiếu công minh. Sự thiếu khách quan là đầu mối của sự náo loạn thiên hạ. Vì vậy, phép trị nước công bằng và hữu hiệu hơn cả là dùng luật pháp. CHƯƠNG II QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI TRONG XÃ HỘI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1 Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người với người Ở thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, hệ tư tưởng phong kiến thống trị mọi mặt cả về vật chất lẫn tinh thần. Quan niệm của các triết gia về con người, về mối quan hệ giữa con người với con người bị chi phối bởi tư tưởng đạo đức phong kiến. Nho gia là trường phái có hệ tư tưởng mang nặng tính ch ất phong kiến gia trưởng và nó có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội. Quan niệm của Nho 17
  18. gia về mối quan hệ giữa người với người chủ yếu được thể hiện qua h ọc thuy ết về chính trị xã hội. Nhà nho tiêu biểu nhất của trường phái Nho gia đó là Khổng Tử. Ông cho rằng sự thay đổi của xã hội làm cho thiên hạ rối ren, nguyên nhân chính là do sự xa đọa của thế lực cầm quyền làm cho “danh” không được “chính” tức là “danh” không phù hợp với “thực”. Quan niệm “danh” không được “chính” làm cho xã h ội loạn lạc, phép tắc kỷ cương xáo trộn, danh phận không rõ ràng, nên đ ể khôi ph ục trật tự xã hội, Khổng Tử đã chủ trương thực hành thuyết “chính danh”. Nh ư v ậy, khi đề ra học thuyết “chính danh”, Khổng Tử đã cố gắng thể hiện nó qua hành động của mình. Nó cũng phản ánh thái độ tôn trọng, tôn ty trật tự phép t ắc c ủa Khổng Tử. Tôn ty này trong quan hệ giữa người với người mà Nho gia g ọi là “Luân” được sách “thuyết văn” cho là “con đường”, sách Khúc l ễ gi ảng gi ải là “loại”, Mạnh Tử gọi là “trật tự”. Một số nhà nghiên cứu sau này gi ải thích là “th ứ bậc” là đạo “cư xử”. Có thể hiểu trong xã hội “mỗi một thứ quan hệ là một luân”. Trong các mối quan hệ xã hội, triết học Nho gia xác đ ịnh năm m ối quan h ệ cơ bản và thông thường của mỗi đời người trong thiên hạ, gọi là “Ngũ luân” gồm quan hệ Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bè - bạn (quân thần, phụ t ử, phu phụ, huynh đệ bằng hữu) (Trung dung 20). Mỗi quan hệ lại có tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng, như cha hiền con th ảo, anh tốt em ngoan, chồng biết tình nghĩa vợ nghe lẽ phải, b ề trên t ừ hi ếu b ề d ưới kính thuận, vua nhân từ tôi trung thành. Trong “ngũ luân” lại có ba mối quan h ệ cơ bản nhất, Nho gia gọi là “Tam cương” (quân vi th ần cương, ph ụ vi tử c ương, phu vi thê cương). Vào thời mình, Khổng Tử đã đề cập đến nh ững mối quan h ệ và những tiêu chuẩn này, song ông nhấn mạnh nhiều hơn đến quan h ệ vua tôi, cha con. Đối với quan hệ vua tôi, trước hết Khổng Tử chống ngôi vua duy trì theo kiểu cha truyền con nối. Ông nên án việc chức tước theo truy ền th ống, dòng dõi, mặc dù trong xã hội đương thời vẫn có ba kiểu lên ngôi được th ừa nh ận nh ư: lên 18
  19. ngôi vua do cha truyền lại, lên ngôi do vua trước truy ền l ại và lên ngôi do đ ổi mệnh vua. Khổng Tử đã đưa ra yêu cầu đối với người đứng đầu của một quốc gia phải là người đạt được nhân đạo và thiên đạo. V ề những yêu c ầu c ụ th ể đ ối v ới vua, Khổng Tử chủ trương: vua phải đảm bảo cho dân được no ấm, ph ải xây dựng được lực lượng quân sự hùng hậu và đặc biệt phải chiếm được lòng tin của dân. Dân đối với vua, theo Khổng Tử phải coi như cha mẹ của mình. Trong quan hệ giữa người dân và vua, thì dân vì vua là “trung”, vua vì dân để được lòng dân tin cũng là “trung” vậy. “Trung” của Khổng Tử chỉ là đòi hỏi sự hết lòng và thành tâm thật ý trong quan hệ với nhau. Ngoài ra vua còn ph ải biết trong d ụng người đức độ và có năng lực làm việc, phải biết rộng lượng đối với ng ười c ộng s ự c ủa mình. Khổng Tử đề cập đến phạm trù “hiếu” trong quan hệ cha con, theo ông hiếu của con cái đối với cha mẹ, không chỉ là phụng dưỡng người đã sinh ra mình mà trước hết phải là lòng thành kính. Chỉ nuôi cha mẹ không thôi thì không thể gọi là hiếu, vì đến như giống chó, giống ngựa cũng có người nuôi, nuôi cha m ẹ mà không thành kính thì có khác gì như nuôi chó ngựa, làm sao có thể gọi là lòng hiếu thảo” (Luận ngữ, vi chính 7). Ông thường dậy rằng, phận làm con th ấy cha m ẹ lầm lỗi phải can giám một cách nhẹ nhàng, hoặc quan điểm “cha ra cha, con ra con” cũng đòi hỏi cha mẹ phải đối xử với con cái cho đúng đạo c ủa mình. Nh ư vậy, không chủ trương ngu trung, ngu hiếu, không bắt buộc con người ph ải ph ục tùng bề trên vô điều kiện nội dung trung, hiếu của Nho gia sau này. Đối với Khổng Tử trong xã hội “Chính danh” là quan hệ hai chiều: quân có nhân thì th ần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu... mà công cụ để thực hiện hai chiều này là đạo đức xã hội. Kế thừa quan điểm triết lý nhân sinh c ủa Kh ổng T ử, M ạnh T ử, bên c ạnh thuyết “tính thiện” nổi tiếng còn có tư tưởng chính trị đặc sắc, những tư tưởng này thể hiện quan điểm của Mạnh Tử về mối quan hệ giữa người với người, 19
  20. được nói ở tinh thần “dân bản”. Dựa trên học thuyết “tính thiện” tiếp tục tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, Mạnh Tử đã kịch liệt phê phán phương pháp trị nước của các trường phái triết học khác như Mặc Gia, Đạo Gia, : “Họ D ương v ị ngã ấy là không nhận có vua, họ Mặc kiêm ái ấy là không nh ận có cha. Không có vua, không có cha, ấy là cầm thú rồi vậy... Nếu cái đạo của họ Dương và họ Mặc không tắt thì đạo của Khổng Tử chẳng được sáng tỏ” (Mạnh Tử, đằng văn công). Từ đó ông đề ra thuyết “Nhân chính” trong đạo trị nước ch ủ tr ương l ấy phép t ắc đạo đức, đạo lý của Thánh Vương đời Tam đại, ngũ đế là chuẩn mực đ ể giáo hoá dân, bình trị nước, gọi là “pháp tiên vương”. Theo thuyết “nhân chính” việc trị nước chăm dân của các bậc vương giả” phải vì nhân nghĩa chứ không phải vì lợi. Vua hà tất ph ải nói đ ến l ợi, ch ỉ có nhân nghĩa mà thôi. Nếu ông vua nói rằng làm thế nào lợi cho nước ta, quan đ ại phu nói rằng làm thế nào lợi cho nhà ta, kẻ sĩ và thứ dân nói rằng làm th ế nào l ợi cho thân ta, kẻ trên người dưới ai lấy đều tranh nhau điều lợi thì nguy v ậy (M ạnh T ử, Lương Huệ Vương). Ở đây Mạnh Tử đã có sự phân biệt rất rõ ràng ý nghĩa, công d ụng c ủa “nghĩa” và “lợi”. Khi ông gặp Tống Hinh (383 – 290 TC ) đem chữ “l ợi” đ ể khuyên Tần và Sở đừng đánh nhau, Mạnh Tử đã phân tích: “Nếu tiên sinh lấy điều lợi mà nói với vua nước Tần và Sở thì vua hai nước đó ắt vì lợi mà thôi đánh nhau. Nhưng nếu ai cũng chỉ thích vì lợi thì thành ra người làm tôi lấy bụng lợi mà th ờ vua, người làm con lấy bụng lợi mà thờ cha mẹ, người em lấy bụng lợi mà kính anh. Vua tôi, cha con, anh em đều bỏ cả nhân nghĩa, ch ỉ đem cái b ụng c ầu l ợi ti ếp đãi nhau, như thế nước chưa mất là chưa có vậy” (Mạnh Tử, Cáo Tử Hạ). Trên cơ sở tư tưởng “nhân nghĩa” và chủ trương “ nhân chính”. Mạnh tử đã đề xuất quan điểm hết sức độc đáo, đó là quan điểm “dân bản”. Theo Mạnh Tử trong một nước có ba của báu là đất đai, nhân dân, chính sự. Kẻ nào lấy châu ngọc làm của báu thì tai hoạ mắc vào thêm. Trong ba của báu ấy, theo ông qu ần chúng nhân dân lao động có vai trò hết sức quan trọng đối v ới s ự tồn vong suy th ịnh c ủa 20
nguon tai.lieu . vn