Xem mẫu

  1. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................. Chương 1: Những Quan Niệm Truyền Thống Đ ối Với Việc Hôn Nhân Của Người Chăm Ở Việt Nam.......................................................... Chương 2: Các Quy Tắc Và Hình Thái Hôn Nhân Của Người Chăm Ở Việt Nam..................................................................................................... 2.1 Hôn Nhân Đồng Tôn Giáo....................................................................... 2.2 Hôn Nhân Đồng Dân Tộc........................................................................ 2.3 Hôn Nhân Đồng Dân Tộc........................................................................ 2.4 Các Quy Tắc Về Hôn Nhân..................................................................... Ch ư ơng 3: Lễ Nghi Đám Cưới Của Người Chăm Ở Việt Nam........... 3.1 Lễ Nghi Đám Cưới Hỏi Của Người Chăm Trung Bộ....................... 3.2 Lễ Nghi Đám Cưới Của Người Chăm Islam Nam Bộ........................ 3.3 Sự Đính Hôn Và Bãi Hôn......................................................................... Kết Luận......................................................................................................... Tài Liệu Tham Khảo..................................................................................... 1
  2. LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG 1: NHỮNG QUAN NIỆM TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI VIỆC HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI CHĂM Ở VIỆT NAM Người Chăm cũng như hầu hết các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Raglai… đều quan niệm rằng hôn nhân được tiến hành khi trai gái đã đến tuổi trưởng thành, được đánh dấu bằng một nghi lễ, một tục lệ nhất định. Ở Chăm hồi giáo Bà Ni, tuổi dậy thì được đánh dấu bằng l ễ “Karoeh” (đối với nữ), lễ “Kho tan” (đối với nam). Chỉ khi được tiến hành nghi l ễ trên, người con trai và người con gái mới được quyền tìm kiếm người yêu và tiến đến hôn nhân. Người nào không được th ực hiện nghi l ễ trên s ẽ b ị xã hội trê cười. Và khi chết đi sẽ không được làm đám tuần và chon chung ở nghĩa địa dòng họ, vì họ cho rằng người chết không qua lễ nghi đánh dấu tuổi thành niên được coi là “ha râm” (xấu, không tôt). Theo tập quán của mẫu hệ Chăm, nữ đến tuổi 16 có thể lấy chồng. Tuy nhiên vì s ự phát triển của thể lực không giống nhau, nên tuổi 16 chỉ là cái mốc ước định tương đối. Cho nên họ thường căn cứ vào hình dáng bề ngoài, sức khỏe của người thiếu nữ đã ở độ tuổi chin muồi hay chưa, có đủ sức khỏe và khả năng làm vợ, làm mẹ trong tương lai hay chưa chứ không chỉ căn cứ vào tuổi tác. Người Chăm cũng quan niệm như các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Raglai…, người thiếu nữ đã quá độ tuổi theo tập quán quy định mà chưa thành đôi lứa thì rất khó lấy chồng, thậm chí ế chồng. Người Chăm cho rằng nữ từ 24 tuổi trở đi mà chưa có chồng thì sẽ được gọi là “may pl ầu” (gái lỡ thì). Tuổi kết hôn của nam giới có phần rộng rãi, thường từ 18 tuổi trở đi, nhưng ngoài 20 thậm chí 30 chưa lấy vợ vẫn không coi là b ị ế v ợ. Đặc biệt người Chăm không có tục “nối dây” như các dân tộc mẫu hệ ở Trường Sơn Tây Nguyên (cuê cuê của người Ê Đê, cuai cuai ở người Gia Rai), là tục thay thế người chết trong hôn nhân. Tiêu chuẩn người chồng lý tưởng trong xã hội Chăm cần có các đặc tính sau: vui v ẻ, th ỏa vát, c ần cù, gần gũi và có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng. Trong lao động, nam giới phải thạo tất cả các việc của nam giới như cày bừa, làm rẫy, ruọng, dựng nhà…Đặc biệt phải có học vấn cao, họ rất trọng người có học vấn. Ngoài ra người Chăm Nam Bộ quan niệm nam giới phải thuộc thông thạo kinh “Cran”. Tiêu chuẩn của người vợ phải nết na, thùy mị, giỏi công việc nội trợ như nấu ăn, quản lý nhà cửa. Ngoài ra phải biết rệt phải, kéo sợi, và đặc biệt nuôi con phải giỏi… 2
  3. Tập quán truyền thống của người Chăm xưa không coi sắc đẹp là đi ều chính yếu tạo nên hạnh phúc, đảm bảo cuộc sống gia đình, nhưng nam cũng như nữ, vừa có sắc lại vừa có đức có tài thì được mọi ng ười yêu mến và là đối tượng của lớp trẻ. Quan niệm đó đã xuyên suốt nhiều th ế kỷ và tồn tại cho đến ngày nay. Ngược lại, nếu cô gái ch ỉ có s ắc đ ẹp mà không biết lao động, không có đủ các đức tính cần thi ết c ủa người v ợ thì bị dư luận chê cười, khó lấy chồng. Người Chăm có câu tục ngữ “siam mư nai tai adâu é” và câu “xạ mư nài mư tai adâu mứk” (nghĩa là xấu ở bên ngoài, lòng dạ như vàng). Còn đối với người Chăm Bà La Môn thì không có lễ th ức nào đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp từ vị thành niên sang tuổi trưởng thành. Tuy nhiên khi cô gái hoặc cậu con trai sắp xửa lập gia đình, cha m ẹ đ ều ph ải đến trình với người tộc trưởng để người này lấy “ciết a tâu” (tổ tiên) c ủa dòng họ xuống, và sắm xửa một mâm lễ vật gồm một trai rượu, 3 trưng gà và đĩa bánh trái để cúng “ôn prók” (ông tổ) và báo cáo cho tổ tiên bi ết. Người Chăm quan niệm rằng: Khi có một thành viên mới của dòng họ ra đời, ôn prók đã biết qua lễ cúng đầy tháng thì đến khi trưởng thành lấy chồng, lấy vợ cần phải báo cáo cho ôn prók biết. Người con gái Chăm tuỵêt đối phục tùng cha mẹ được thể hiện rõ qua việc cưới xin cũnh như trong mọi chuyện khác, và con gái lấy ai làm chồng là do cha mẹ chọn, không được từ chối. Trong lĩnh vực này con trai cũng không tự do gì hơn con gái. Cho dù người con trai không h ợp v ới mình, nhưng đó lại là người hợp với cha mẹ mình, được cha mẹ mính cho rằng “chàng rể hiền, chàng rể tốt thì người con gái phải làm tròn bổn phận của người vợ cho đến trọn đời mãn kiếp”. Ngược laic ho dù ưng ý cô gái nhưng nếu không được cha mẹ ưng ý thì người con trai cũng không được để ý đến. Người con rể phải có bổn phận đối với cha mẹ vợ nh ư đối v ới bố mẹ đẻ của mình. Như vậy nếu so với người Việt và người Hoa thì thân phận phụ nữ Chăm được “diễm phúc” hơn người vì phụ nữ Chăm theo chế độ mẫu hệ. Cô dâu người Việt và người Hoa phải có bổn phận với cha mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ. Nhiều khi cô dâu ở vào cuối thang ngôi thứ trong gia đình, đóng vai kẻ hầu người hạ, nhất là ở các gia đình b ậc trung ở nông thôn. Đôi khi, tình cảnh không chịu nổi nữa, cô dâu không còn lối thoát nào khác là tìm cách bỏ trốn hoắc quyên sinh. Người Hoa và người Việt coi sự trinh tiết của người con gái là điều rất quan trọng. Mất trinh bị coi là điều xấu xa và là nguyên c ớ chính đáng để hủy bỏ hôn nhân. Trinh tiết là một điều kiện chủ yếu trong hôn nhân và là tiêu chuẩn trọng yếu về đạo đức của người con gái trong xã h ội 3
  4. Trung Quốc và Việt Nam xưa và tồn tại và ảnh hưởng cho đến ngày nay. Ngược lại người Chăm cũng như các dân tộc mẫu hệ khác không đặt nặng vấn đề trinh tiết. Trong xã hội người Chăm hôn nhân không phải là sự kết h ợp hai cá nhân mà là một công việc của một gia đình. Nhiều khi hôn nhân còn đ ược sắp đặt ngay từ hồi cô dâu ngay từ hồi cô dâu chú rể mới ra đời, g ọi là “váh nhúk”. Trường hợp này trước đây xảy ra rất nhiều và ngày nay đôi khi vẫn tồn tại nhất là ở người Chăm Nam Bộ; còn Chăm vùng Ninh- Bình Thuận hiện nay rất ít gặp trường hợp tảo hôn. Nhìn chung, co rất ít cuộc hôn nhân của người Chăm ch ỉ dựa trên tình yêu hoặc sự lựa chọn cá nhân vì làm như vậy bị mọi người khinh bỉ và được coi là bất hiếu. Ngay cả trường hợp một đôi nam n ữ đã th ề ước với nhau và có quan hệ vụng trộm với nhau trước khi cưới, gia đình cô gái vẫn có thể cưới cho cô một người khác. Tài liệu sử học dân gian Chăm đã cho biết ở nước Chăm Pa cổ đã xảy ra nhiều tình duyên bị cha m ẹ chia cắt. Từ đó những trường ca bất hủ đã ra đời, tồn tại xuyên suốt qua nhiều thế kỷ cho đến ngày nay, như trường ca “Ariya Chăm Pini”. Đ ặc bi ệt đau lòng hơn, cùng một giống nòi nhưng khác đạo không được quyền lấy nhau dẫn đến nhiều cặp nam nữ đành phải quyên sinh. “Ché tran, mưng xik tan prong Mai hu ka ran Ona lo pô nghi lai ơi » Dịch Để bụng từ thuở em còn thơ Đến lớn em thuộc về người ta Hỏi trời sao lại bất công Ở chế độ phụ hệ như ở (người Hoa và người Việt), người con gái lấy chồng sẽ trở thành người của gia đình chồng và bổn ph ận đ ầu tiên là phải đẻ cho được một đứa con trai để tiếp nối dòng dõi của nhà ch ồng. Phụ nữ không sinh được con trai bị coi là có tội lớn vì làm cho ch ồng không có người nối dõi tông đường. Vì vậy, trong trường hợp này người chồng được phép lấy vợ lẽ hoặc người hầu để có người nối dõi. Tuy nhiên người vợ cả vẫn giữ vị trí của mình trong gia đình và người vợ lẽ phải phục tùng người vợ cả, người vợ duy nhất hợp pháp. Nếu ch ẳng may chồng chết, xã hội mong muốn người đàn bà góa thủ ti ết ch ờ ch ồng. Ngược lại, trong chế độ mẫu hệ Chăm, người đàn bà nếu đẻ toàn con trai, thì không được tiến thêm một bước mà chỉ được xin người con của chị hoặc em mình làm con nuôi để phụng dưỡng mình. Trong trường hợp chồng chết, xã hội cho phép người phụ nữ lấy chồng khác, sau khi mãn phép để tang cho chồng trong thời gian một năm. Đặc biệt trong xã h ội 4
  5. mẫu hệ các dân tộc Malayô Polynêxia ở Tây Nguyên như Ê Đê, Gia Rai...Khi vợ chết thì chồng được phép lấy em gái vợ hoặc ch ị v ợ, đi ều đó được coi là tốt và được khuyến khích để tiếp tục bảo vệ gia đình và nòi giống của họ. Tục đó gọi là nối nòi ‘cuê cuê’. Trong xã hội người Chăm quyền chủ động trong hôn nhân thuộc về phái nữ. Nhà gái đi hỏi chồng cho con gái, con trai là đối t ượng đ ể nhà gái cưới về làm chồng. Tuy nhiên ở người Chăm Nam Bộ do ảnh hưởng của tôn giáo, nam đi hỏi vợ chỉ là hình thức. Trong hôn nhân không đặt v ấn đ ề trinh tiết, nhưng vấn đề thủy chung sau khi đã thành hôn lại có y ếu t ố quan trọng hàng đầu giữ cho gia đình Chăm tồn tại bền vững. Theo Maspero : « Những quả phụ Chăm không bao giờ tái giá và để tóc mọc dài cho đến khi già. Tuy nhiên theo phong tục Ấn Độ thì ng ười v ợ phải nên tự thiêu ở ngay trong dàn thiêu của người chồng, tục đó đã đ ược coi trọng ở người Chăm, ít ra là đối với phụ nữ có phẩm chất tốt. Cũng như các dân tộc anh em khác ở Việt Nam, trước hôn nhân các đôi trai gái cũng có tìm hiểu nhau. Ở mỗi dân tộc do hoàn cảnh đ ịa lý, t ập tục và kể cả quan niệm sống riêng nên đã hình thành đặc tính riêng trong việc tìm hiểu nhau. Ở các dân tộc Malayô Polynêxia Tây Nguyên nh ư Ê Đê, Gia Rai con trai đến tuổi trưởng thành thường tập trung ngủ tại nhà rông, hay ngủ tại phần « gah » (phần dành tiếp khách) của một số bạn trai cùng lứa với họ (người Ê Đê), nữ giới cũng tập trung thành từng nhóm vài ba người tại gia đình nào có các cô gái chưa đi lấy chồng. Người Ê Đê g ọi ngôi nhà có các chàng trai đến ngủ là « sang ê đam » (nhà của các chàng trai), còn người Gia Rai gọi là « sang dam » ; gọi ngôi nhà con gái đến ngủ tập trung là « sang era » ...Những người đã có tình ý với nhau, đã trao vòng hẹn ước thì đêm đêm các chàng trai đến sang dra làm hiệu rủ b ạn tình đi chơi và ngủ đêm tại chòi rẫy ngoài rừng đến sáng hôm sau m ới tr ở về. Nếu cuộc tình suôn sẻ, thì họ tiếp tục trao gửi thân xác cho đến khi thành vợ chồng, nhưng nếu ngay từ lần đẩu gặp gỡ, họ đã không gây được ấn tượng tốt về nhau, thì hôm sau họ đi tìm một đối t ượng khác. Cuộc sống hàng ngày cứ diễn ra và tình yêu trao gửi không bờ bến. Ở người Chăm, giữa các tôn giáo quá trình tìm hiểu có những phong tục và tính cách riêng. Ở Chăm Islam , do ảnh hưởng cảu giáo lý, con gái rất kín đáo, nhất là con gái chưa có chồng ít được ti ếp xúc v ới con trai và khi ra đường thường phải che mặt (ngày nay đã giảm nhiều). Còn ph ụ n ữ Chăm Bà La Môn và Chăm Bà Ni thì được thoải mái hơn trong vi ệc ti ếp xúc với bạn trai, nhưng hiếm có trường hợp hai người khác gới ở tuổi cặp kè lai đi chơi riêng hay ngồi ngoài đường nói chuyện riêng (thường là phải có tập thể). 5
  6. Tình yêu trai gái Chăm ít diễn ra trong lễ hội giống như người Ê Đê, Gia Rai mà thường diễn ra ở nhà cô gái. Thuật ngữ đi tìm hiểu gái gọi là « ink garà » thường vào ban đêm nhất là vào những tuần trăng là dịp các chàng trai có cơ hội đi tmf hiểu, tụm năm, tụm bảy kéo đến nhà cô gái nào đó để tán tỉnh và từ đó, những « tín hiệu xanh » gặp nhau. Một chàng trai người Chăm muốn tìm hiểu một cô gái nào đó thì anh ta đã ph ải có một thời gian dài để ý cô ta và nếu thấy hợp nhau thì mới đến nhà ch ơi, tìm hiểu. Thường thì các chàng trai rủ nhau đến nhà cô gái sau bữa cơm chiều là thời gian nghỉ ngơi sau một ngày lao động. Trong giai đợn đẩu các chàng trai kết lại thành tập thể từ 2 đến 5 người hoặc 8 người, thường là những bạn bè chơi thân. Trước khi đến nhà cô gái các chàng trai thỏa thuận trước ai sẽ là người ở lại nhà cô gái, còn ai sẽ phải về. Cũng như các chàng trai các cô gái sau bữa cơm chiều thường trở lại với côngviệc như may vá, dệt vải và nhất là giã gạo vào đêm có tu ần trăng, đây là cơ hội để các chàng trai đến tán tỉnh. Khi đến cửa nhà co gái nào đó, các chang trai phải ý tứ cử một đại diện ăn nói hoạt bát đến thưa chuyện với bố mẹ cô gái, nếu cha mẹ đồng ý thì h ọ mới được vào. Thường thường cha mẹ rất thoải mái trong việc các chang trai tìm hiểu con gái mình. Khi đến nhà ai đó mà đã có m ột chàng trai khác đến rồi, thì họ tự động rút lui, tìm đến nhà cô gái khác, vì h ọ luôn ưu tiên cho người đến trước. Xã hội Chăm xưa nay vốn hiếu khách và lịch sự, khi các chàng trai đến chơi, họ mời vào nhà, rót nước mời mọc và có khi đãi cả bánh trái. Đầu tiên các chàng trai hỏi han xã giao, rồi nói chuyện mang tính tập thể ít lâu. Sau đó các chàng trai không có tình ý gì v ới cô gái nháy m ắt cho nhau rút về hoặc đến nhà một cô gái khác. Trong nhóm phải cử ra một người đứng ra gửi gắm chàng thanh niên có thành ý với cô gái sau đó m ới v ề. Tuy nhiên, phải có sự đồng ý của cô gái, chàng trai mới được ở lại. Tình yêu đôi lứa phải theo tập quán nhưng với điều kiện cả trai lẫn gái đ ều còn độc thân và đến với nhau một cách tự nguyện. Sau khi đ ược ch ấp thuận của cô gái hai người tiếp tục chuyện trò tâm sự từ lạ đến quen, có thể kéo dài sang đêm, nếu khuya quá, chàng trai cso th ể ngủ lại nhà cô gái nhưng chỉ được quyền ngủ ở phòng ngoài. Thường khoảng 4 giờ sáng, cô gái hoặc cha mẹ phải đánh thức chàng trai dậy để ra v ề, h ầu đ ể tránh tai mắt thiên hạ, không tốt về sau. Cuộc tìm hiểu như vậy kéo dài một tuần, hai tuần, một tháng và có thể dài đến vài năm. Khi cuộc tìm hiểu đã chín muồi, cha m ẹ cô gái thường tìm cách gặp chàng thanh niên có ý với con gái mình để hỏi thăm 6
  7. một cách tế nhị nhằm biết ý đồ đích thực của chàng trai trong những lần thăm viếng này. Đầu tiên cha mẹ cô gái thăm dò : « Con đến đây để cầu vui hay có ý định gì » ? Nếu chàng trai không vội vàng và tự chủ được thì thường trả lời một cách thận trọng : « Con đến đây trước hết là để cầu vui, sau đó cũng có ý định tìm hiểu ». Cha mẹ cô gái nào cũng luôn muốn giữ danh tiếng cho con gái mình, nếu chàng trai nào trả lời « cốt để cầu vui » thì cha mẹ cô gái buộc phải có lời khuyên xin chàng trai đừng quan hệ nữa vì nếu kéo dài sợ dư luận đánh giá vè con gái mình không tốt và có thể dẫn đ ến vi ệc khó l ấy ch ồng về sau. Trong trường hợp chàng trai, cô gái tâm đầu ý hợp thì chàng trai có thể bày tỏ lòng thành cảu mình với cha mẹ cô gái và nếu cha m ẹ cô gái c ảm th ấy nghe được thì lễ trầu cau sẽ được tiến hành ngay sau đó, thông qua ông bà mai mối tượng trưng. Những trường hợp trai gái yếu nhau tha thiết muốn kết bạn trăm năm nhưng không được phép của đôi bên cha mẹ sẽ có các tình huống sảy ra như sau : Đôi trai gái không phản đối cha mẹ ép duyên, họ vẫn chịu làm lễ thành hôn. Nhưng sau khi lễ thành hôn kết thúc, h ọ tìm cách ly thân. Tình huống này thường xảy ra ở xã hội Chăm ngày nay mà thường gọi là « plày ya ka mé, amư pai, bók (ý nói làm cho cha mẹ khỏ bị xã hội chê cười, vì con có hiếu nghe theo lời cha mẹ. Đôi trai gái tuân theo ý muốn cha mẹ hai bên, t ự c ắt quan h ệ tình yêu c ảu mình để cưới vợ, cưới chồng do cha mẹ sắp đặt. Không nghe theo lời ngăn cản của gia đình, họ quy ết đ ịnh l ấy nhau và cùng nhau bỏ chốn đến một nơi khác trong một thời gian và sau đó d ẫn nhau trở về xin cha mẹ đôi bên tha thứ. Đôi trai gái sẽ cùng nhau tự tử vơi hy vọng được sống bên nhau ở thế giới bên kia. Trường hợp này xảy ra không phải là ít, và phổ biến ở xã hội Chăm ngày nay, nhất là Chăm vùng Ninh- Bình Thuận. Nhìn chung, xã hội Chăm cho phép đôi trai gái t ự quan h ệ t ự tìm hiểu. Trong hôn nhân không đặt nặng trinh tiết nhưng nghiêm cấm quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đặc biệt ở Hồi giáo Islam nếu trai gái nào vi phạm sẽ bị phạt 30 roi. CHƯƠNG 2: CÁC QUY TẮC VÀ HÌNH THÁI HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI CHĂM Ở VIỆT NAM 2.1. Hôn Nhân Đồng Tôn Giáo 7
  8. Tôn giáo là một yếu tố rất quan trọng chi phối hầu hết các lĩnh v ực kinh tế, xã hội, chính trị và nhất là văn hóa và quan h ệ hôn nhân gia đình. Tôn giáo là một trong những tiêu chuẩn dung để phân biệt cộng đồng người Chăm. Nếu dựa vào cách phân loại mang tính lý thuy ết thì ng ười Chjăm có hai tôn giáo: Bà La Môn và Hồi Giáo, song trên th ực t ế người Chăm được chia thành 3 cộng đồng tôn giáo: Chăm Bà La Môn, Chăm H ồi giáo Bà Ni và Chăm Islam. Thành viên của từng c ộng đồng tôn giáo ch ỉ có quyền cưới vợ chồng trong nội bộ tôn giáo mình. Tín ngưỡng và lễ nghi tôn giáo buộc người Chăm cư trú theo từng tôn giáo riêng bi ệt, và tôn giáo đã ăn sâu vào tiềm thức tư tưởng của mỗi thành viên người Chăm, chi phối tất cả mọi hoạt động xã hội, đưa gia điình của người Chăm vào khuân khổ của 3 cộng đồng tôn giáo. Trên mỗi đứa con của người Chăm sinh ra đều được cha mẹ hướng theo nhuyên tắc lễ nghi của tôn giáo mà họ đang theo. Điều đó tác động rất sâu sắc đến đời sống của người con và khi con lớn lên xây dựng cuộc sống hạnh phúc đều tuân theo luật lệ tôn giáo của cha mẹ. Tôn giáo đã chi phối sâu sắc nếp sống, văn hóa và ảnh h ưởng lớn đ ến gia đình người Chăm cũng như trong xã hội, gây nên những m ối bất hòa gi ữa các cộng đồng tôn giáo và nhất là trong hôn nhân để lại h ậu quả rất lớn cho đến ngày nay mà xã hội người Chăm đang giải quy ết. Những nguyên tắc đạo lý cảu 3 cộng đồng tôn giáo trên đã chi ph ối và hình thành nên r ất nhiều phong tục, tập quán trong hôn nhân với những nghi lễ rất phức tạp. Hôn nhân đồng tôn giáo là một nguyên tắc cơ bản trong ch ế đ ộ hôn nhân của người Chăm. Như đã nói ở trên người Chăm có 3 cộng đ ồng tôn giáo chỉ có quyền cưới vợ cưới chồng trong nội bộ tôn giáo của mình. Theo quan niệm của người Chăm, nếu hôn nhân diễn ra giữa những người khác tôn giáo, khác dân tộc là không đảm bảo tính thuần khi ết v ề dòng giống, cho nên con cái của họ khi chết sẽ không được chính thức hóa thân: Ở đạo Bà La Môn không được vào kút chính, ở đạo Hồi giáo Bà Ni và Hồi giáo Islam không được chon ở khồn, hàng chính trong nghĩa địa. Mặt khác, người Chăm muốn bảo tồn tôn giáo, sợ mất người của tôn giáo mình nên không muốn có quan hệ hôn nhân với tôn giáo khác, đặc bi ệt vì theo chế độ mẫu hệ cư trú bên vợ, con cái tính theo dòng họ mẹ nên không thể có phép con trai đi lấy vợ thuộc tôn giáo khác. Trong lịch sử xã hội Chăm, nguyên tắc hôn nhân trên đây được phản ánh rõ nét trong trường ca Chăm- Bà Ni. Chuyện tình giữa người con trai Bà Ni với cô gái Bà La Môn vừa ca ngợi tình yêu chung th ủy c ủa đôi trai gái Chăm vừa hàm chứa nội dung phê phán tôn giáo. Một mặt người ta thầm ngợi khen sự chung thủy của đôi trai gái, nhưng mặt khác mọi người thuộc hai tôn giáo vẫn coi đó như là một sự súc phạm đến họ hàng, tổ tiên 8
  9. và phá đạo luật. Bởi vậy mà cái đạo luật cũ kỹ ngăn cấm hôn nhân giữa các cộng đồng tôn giáo Chăm, nhất là Chăm Bà La Môn và Chăm Bà Ni cho đến nay vẫn tồn tại và có hiệu lực nguyên xi như cũ. Trong xã h ội Chăm vẫn còn âm vang tiếng kêu thống thiết nói lên khát vọng tình yêu chân chính của người co trai Bà Ni trong trường ca khi lao vào l ửa cùng t ự thiêu cùng người yêu: “Hỡi những người ngày trước đã chết đi làm sao nghĩ ra. Những điều bịa đặt làm chúng tôi khổ thế này. Hỡi những người ngày nay, có ai là người có quyền thế Làm cho mất đi những ý nghĩa độc địa của người trước để lại đó không! Để cho hai dòng đạo chúng ta Được lấy vợ lấy chồng, không phải ngăn cách như chúng tôi”. Tiếng kêu cầu cứu đó đến nay vẫn chưa được xã hội Chăm đáp ứng, thỏa mãn. Trong lĩnh vực hôn nhân, hai đạo giáo Bà La Môn và Bà Ni được coi như hai con suối không thể chảy trung một dòng, như mặt trời mặt trăng không thể sáng cùng một lúc, con trai con gái của họ vẫn được phép xây dựng hạnh phúc gia đình với nhau. Ngay cả đối v ới Cham Bà Ni và Chăm Islam trên nguyên tắc đều thuộc cộng đồng Hồi giáo song giữa hai nhóm này ít có quan hệ hôn nhân với nhau. 2.2. Hôn Nhân Đồng Dân Tộc Bên cạnh hôn nhân đồng tôn giáo, hôn nhân đồng dân tộc cũng được coi là một nguyên tắc trong chế độ hôn nhân của người Chăm. Dù rằng đã từ lâu người Chăm cộng cư với người Việt và các dân tộc khác trên một địa bàn khá gần gũi nhau, nhưng hôn nhân giữa người Chăm và người Việt cũng như các dân tộc khác hầu như không có. Có chăng ch ỉ là tr ường hợp chồng Chăm vợ Việt, còn chồng Việt vợ Chăm h ầu như không có. Thường đàn ông Chăm lấy vợ Việt, chủ yếu diễn ra ở những người thoát ly gia đình đi làm ăn xa. Đối với người Chăm Islam Nam Bộ do ảnh hưởng của tôn giáo nên theo chế độ phụ hệ. Chế độ đa thê được chấp nhận, nên đã có nhiều trường hợp đàn ông Chăm cưới vợ là người Việt, người Khơ Me, nhưng đó cũng chỉ là vợ thứ hai hoặc vợ thứ ba. Thực ra hôn nhân trong nội bộ dân tộc (nội hôn tộc người), là một nguyen tắc phổ biến h ầu h ết ở các dân tộc trên thế giới, nên có một số nhà nghiên cứu coi đó nh ư là đ ặc trưng của tộc người. Lẽ dĩ nhiên, trong thời kỳ hiện đại, đặc trưng đó l ưu giữ được ở mức độ đậm nhạt ra sao là có sự khác nhau giữa các dân t ộc, nó tùy thuộc vào trình độ phát triển, kinh tế, văn hóa, đièu ki ện và hoàn cảnh giao tiếp giữa các dân tộc và các yếu tố tâm lý nữa. Rõ ràng ở ng ười 9
  10. Chăm, đặc trưng này còn lưu giữ khá đậm nét. Tiếc thay, một số nhà nghiên cứu lại không hiểu hoặc cố tình không chú ý đến đ ặc tr ưng có tính phổ biến này của tộc người nên tìm cách lý giải hiện tượng hiếm hoi trong hôn nhân hôn hợp của người Chăm và người Việt bằng nh ững nguyên nhân có liên quan đến những vấn đề lịch sử trong quan hệ t ộc người với dụng ý thiếu lành mạnh. 2.3. Ngoại Hôn Dòng Họ Ngoại hôn dòng họ là một nguyên tắc cơ bản trong chế độ hôn nhân của người Chăm ở miền Trung. Những người được gọi là “pú pah” “gậup gàn” với nhau, cùng thời một “ciết a tâu”, nghĩa là thành viên của tổ chức xã hội dựa trên cơ sở mối quan hệ thân thuộc tính theo dòng huyết thống phía ch mẹ, mà người Chăm gọi là phía h ọ n ội thì dù xa m ấy đời cũng không được có quan hệ với nhau: “gậup khinh gậup”- bà con lấy bà con, “họ lấy họ” được coi là tội loạn luân “ha răm” hay còn gọi là “plơk thun thák”. Nếu xảy ra hôn nhân giữa thành viên trong dòng họ thì phải làm lễ tạ tội kút hay nghĩa địa hoặc bị dòng họ khước từ, không được coi là thành viên của dòng họ. Tội ngoại tình xảy ra ở người Chăm được coi là xấu xa nhất, sẽ bj mọi người chê cười và bị phạt rất nặng với những hình thức nhục hình, phạt đánh và nộp tiền phạt. Theo Aymonier: “Những người chộm cắp, gian dâm thì bị xử đánh 50 roi và ph ải n ộp m ột khoản tiền phạt là 5 mâm gạo, một con dê và một thỏi bạc. Kẻ bị ph ạt phait quỳ lễ trước mặt ông quan xử án, và cũng phải xin lỗi bên phía bị thiệt hại, rồi thì được tha” Ngoài ra, tội ngoại tình còn phải chịu hình phạt nhục hình như cởi bỏ hết quần áo, cột hai người lại với nhau, hoặc dẫn đi xung quanh xóm làng để mọi người chê cười. Đặc biệt, trường hợp ngoại tình xảy ra gi ữa những người cùng tộc họ lại bị phạt nặng hơn nhiều lần. Để tránh vi phạm quy tắc ngoại hôn dòng họ, khi con cái lớn lên, cha mẹ và mọi người trong dòng họ nhất là ông chủ họ và những người lớn tuổi dạy dỗ những người trong thành viên của dòng họ mình rất kỹ càng về nguyên tắc này, chỉ rõ cho con cái biết các mối quan heej trong dòng tộc, ai có thể kết hôn được, ai không thêt được. Cẩn thận hơn, khi con cái có bạn tình và có khi cả cha mẹ đã “dạm chỗ” cho con mình, h ọ đều phải hỏi ý kiến hoặc tham khảo nh ững người lớn tuổi trong dòng h ọ và ông “plan la” (chủ họ) để tránh trường hợp bà con xa với nhau mà không biết. Nếu như tập tục cuê cuê (nối nòi) củ các dân tộc Malayô Polynêxia Trường Sơn Tây Nguyên cho phép người đàn ông không những có th ể mà có quyền lấy chị hoặc em vợ khi vợ chết, thậm chí còn lấy bà hay cháu 10
  11. của người đã khuất nữa, chỉ trừ mẹ vợ và chị em của mẹ vợ. Người đàn bà có thể lấy aê (ông) và amuôn (cháu), ekei (em trai) của chồng. Ở ng ười Chăm hiện nay những hình thức hôn nhân trên h ầu như không còn n ữa. Ngay trong dự thảo của bộ luật Chăm của ông Dương Tấn Phát vào năm 1950 cuãng đã cấm những hình thức hôn nhân đó. Riêng hình thức con cô con cậu hai triều là kiểu hôn nhân truyền thống trong xã hội thị tộc mẫu hệ và đó là hình thức hôn nhân phổ biến và được ưa thích nh ất trong các dân tộc như Ê Đê, Gia Rai, Raglai…còn ở người Chăm hình th ức hôn nhân con cô, con cậu cũng đang mất dần, chỉ xảy ra rất ít, có chăng ch ỉ v ới trường hợp giữa con gái cậu và con trai cô. Nhưng giữa cháu cô và cháu cậu thì vẫn còn được ưu tiên. Nhìn chung, hôn nhân con cô, con cậu phải chăng đó là bong dáng hình thức hôn nhân lưỡng hợp hay tàn dư của một hình th ức “hôn nhân được ưa thích” ở các dân tộc mẫu hệ, mà hiện nay còn phổ biến ở vùng các dân tộc Tây Nguyên. Nếu một cô gái có hai hay ba chàng trai có nguyện vọng đi theo để “nuôi” cô ta và gia đình cô ta, mà trong đó có m ột người con trai có quan hệ bà con xa gần gì đó miễn là không ph ải bà con tính theo dòng mẹ, thì se được “ưu tiên” hơn Hôn nhân giữa con cô, con cậu thuật ngữ tiếng Chăm là “ami va tá muôn”. Mục đích để bảo vệ gia sản và hương lưa của gia đình và dòng họ. Do sự chi phối của tôn giáo, nên nguyên tắc ngoại hôn t ộc h ọ ở người Chăm Islam Nam Bộ không được áp dụng. Ở đó hôn nhân giữa những người có họ hàng với nhau kể cả phía mẹ được chấp thuận, đặc biệt hôn nhân con chú con bác được khuyến khích, coi đó như là m ột cuộc hôn nhân lý tưởng được ưa thích. Có người cho đây là loại hôn nhân do ảnh hưởng của giáo luật Islam, cụ thể là hình thức hôn nhân Biut al- amau của Hồi giáo ở vùng Ả Rập, nội hôn là phổ biến. Chế đọ hôn nhân một vợ một chồng đã được thiết lập từ lâu đ ời trong xã hội người Chăm. Tuy nhiên cũng có trường hợp người đàn ông có hai hay nhiều vợ, là các ông “vua”, ông “quan” xưa kia. ở người Chăm Trung Bộ trường hợp đa thê ít xảy ra, có lẽ do các đặc điểm theo chế độ mẫu h ệ, cư trú bên vợ nên đã hạn chế sự nhiều vợ của đàn ông. Đối với người Chăm Nam Bộ, giáo luật cho phép đa thê nh ưng không được l ấy quá 4 v ợ. Trong các trường hợp đa thê, người vợ đầu tiên phải là người theo đạo Islam, còn bà vợ thứ có thể là người dân tộc khác, tôn giáo khác, nh ưng khi về nhà chồng phải theo tôn giáo Islam. Tuy nhiên, vi ệc l ấy v ợ th ứ phải được sự chấp thuận của bà vợ chính và chính người vợ cả đi h ỏi v ợ cho chồng. 11
  12. 2.4. Các Quy Tắc Về Hôn Nhân Trong cộng đồng người Chăm Trung Bộ có những điều cấm giống nhau: - Con riêng của vợ và con riêng của chồng không được lấy nhau. - Con nuôi với người trong dòng họ mẹ không được lấy nhau. - Trường hợp an hem cùng cha khác mẹ, về bên ngoại (bên cha), trừ an hem chú bác còn tất cả có quyền lấy nhau. Một đặc điểm dễ thấy trong hôn nhân của người Chăm Bà La Môn đó là sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Trong đó phải kể đến tác động của chế độ đẳng cấp, cá phong tục mang tính chất của chế độ phụ hệ ở Ấn Độ, như chúng ta đã biết, để tiến hành một cuộc hôn nhân theo phong t ục thì cha mẹ đi hỏi chồng cho con gái và lo cưới h ỏi. Nh ưng ở ng ười Chăm Bà La Môn, người con trai thuộc gia đình tu sĩ và đ ược ch ọn làm th ầy “paseh” (khi làm lễ rửa tội để chuẩn bị thụ phong chức đung kok) mà chưa có vợ thì việc đi hỏi vợ lại do đàng trai chủ động. Có l ẽ do quy đ ịnh của giáo lý Bà La Môn cho đẳng cấp tu sĩ đã du nh ập vào xã h ội Chăm Pa xưa và tồn tại cho đến ngày nay. Trường hợp gia đình chỉ có con trai thì một trong số con trai đó có thể cưới vợ về nhà mình nếu được cha mẹ vợ, họ hàng gia đình vợ và h ọ hàng bên nhà trai nhất trí. Nhưng không được quyền ở nhà bố mẹ mình mà phải cất nhà riêng. Trong trường hợp này, người vợ sẽ cắt “a ci ết” nhà chồng, nghĩa là người vợ sẽ trở thành một thành viên của tộc họ chồng. Thực tế trong xã hội Chăm trường hợp này rất hiếm và hầu nh ư không có. Việc hôn nhân, cưới hỏi là việc vui mừng nên theo phong tục cổ truyền, hôn lễ không được tiến hành khi có tang. Bởi thế hôn nhân bao giờ cũng được cử hành trong lúc hai bên không có tang ma. Thời gian để tang của người Chăm là một năm. Đặc biệt đối với Chăm Bà La Môn, sau khi chịu tang 12 tháng, nếu muốn đi bước nữa thì trước đó ph ải làm tròn b ổn phận cuối cùng đối với thi hài của người quá cố (người chồng). Theo phong tục, khi chết thi hài được đem chon và lấy 9 mi ếng x ương chán b ỏ vào một cái hộp bằng vàng hay bằng bạc, chon ở một nơi nào đó d ễ b ảo quản chờ ngày nhập kút như thế coi như người đàn bà góa coi như còn chồng ở nhà, vẫn phải có bổn phận trung thành và phải làm các nghĩa v ụ khác đối với gia đình nhà chồng. Trước khi cải giá, người vợ phải mang hộp cốt đó trao cho cha mẹ, thân tộc bên ch ồng, n ếu không s ẽ có t ội, l ấy chồng trong tang sẽ bị xử theo luật phong tục. Việc li dị trong xã hội Chăm xưa kia ít xảy ra. Nhiều t ư li ệu nh ư trong “Vương quốc Chăm Pa” của Masperô, “Chiêm Thành liệt truy ện” có nhắc đến sự chung thủy của đàn bà Chăm. Nổi bật nh ất là hoàng h ậu M ỹ 12
  13. Ê, vợ của vua Jaya Shinhavakman bị nhà Lý bắt đi, trên đường đưa v ề kinh thành Đại Cồ Việt, bà không chịu sang thuy ền vua Lý, đã t ự tr ầm mình xuống sông chứ không chịu hiến thân. Vua lý khen lòng trinh tiết của nàng, truy tặng cho tước hiệu “Hiệp chánh hựu thiện phu nhân”(người đàn bà rất trinh tiết và hiền hậu) Ở người Chăm hiện nay vẫn có trường hợp li dị nh ưng không nhiều. Nguyên nhan xảy ra ly dị chủ yếu là do ngoại tình mà ph ụ b ạc v ợ con hoặc chồng con, gia đình khuyên can không được, kinh tế gia đình luôn lủng củng. Đặc biệt hiện nay việc hôn nhân theo tập tục, hôn nhân quá sớm, 16 tuổi đã có thể lập gia đình điều đó mâu thu ẫn v ới s ự ti ến b ộ trong nhận thức về xã hội của tuổi trẻ, nên dẫn đến nhiều vụ ly d ị “không có lý do chính đáng”. Thủ tục ly dị khá đơn giản, khi cuộc sống vợ chồng không được hòa thuận, thường là người chồng bỏ nhà đi ở với gia đình mẹ mình hoặc chị, em đặc biệt khi ra đi họ không mang theo b ất c ứ thứ gì trừ quần áo. Sau một vài lần hòa giải giữa họ hàng thân t ộc hai bên cùng với cha mẹ, hòa hợp không được thì dẫn đến ly dị. Việc này ph ải viện tới sự xử lý của chức sắc tôn giáo, cụ thể là thầy Cả “Pô Grù”. Aymonier đã có nhận xét về việc ly dị xảy ra trong bộ ph ận ng ười Chăm Islam như sau: “Việc xin ly dị nhau là việc rất thông thường, đối v ới đàn ông cũng như đối với đàn bà lấy nhau hợp pháp thì đây cũng ch ỉ là vấn đề tự nguyện. Nếu là người chồng đứng ra xin ly dị thì anh ta s ẽ m ất món ti ền hồi môn mà anh ta đã mang nộp trong lễ ăn hỏi. Nếu là người đàn bà đứng ra xin ly dị, thì người này phải hoàn lại món tiền h ồi môn cho ng ười chồng và từ đấy người chồng không thể chống án về việc xin ly dị nữa. Một vài giáo sĩ trong ban”Hakem” bao gồm một ông I mân, ông tuôn và vài tín đồ khác cũng được cử đến chỗ xử án ly dị để làm nhân ch ứng và đề nghị lấy những lời tuyên bố trang nghiêm của cuộc xử án ly dị. Nếu khi các giáo sĩ này hỏi, một trong hai bên từ ch ối không ch ịu ly d ị, thì vi ệc x ử án được hoãn lại ba ngày, khi đã hết thời hạn này mà người bên kia v ẫn cứ kiên quyết xin ly dị thì như thế là việc ly dị đã được pháp luật công nhận. Người đàn bà ly dị phải chờ tói thiểu một trăm ngày mới được đi lấy chồng khác”. Cũng theo Aymonier viết về việc ly dị của người Chăm ở Trung Bộ như sau: “Đứng ra xin ly dị thì thông thường là người đàn bà, họ tiếp t ục đóng vai trò thứ nhất trong phần nhiều các vấn đề xảy ra giữa vơn chồng. Ly dị song thì người đàn bà được nhận cái nhà và chia phần ba tài s ản chung. Những người Chăm ở Bình Thuận thường là những người nghèo nên không có ai dám theo chủ nghĩa đa thê. Đối với những người khá giả thì 13
  14. lấy nhiều vợ là một điều xa xỉ. Họ muốn lấy thêm vợ phải được vợ cả tán thành và rồi khi ấy chính vợ cả lại đích thân đi xin cưới người vợ bé cho chồng”. CHƯƠNG 3: LỄ NGHI ĐÁM CƯỚI CỦA NGƯỜI CHĂM Ở VIỆT NAM 3.1. Lễ Nghi Đám Cưới Của Người Chăm Trung Bộ Hôn nhân ở người Chăm được coi là một trong những việc hệ trọng và thiêng liêng nhất cảu con người cho nên họ sắp xếp rất chu đáo v ề v ật chất cũng như về tinh thần. Về mặt thời gian tiến hành đám cưới họ cũng ấn định ngày tháng tốt để cưới hỏi, xây dựng tổ ấm gia đình. Những ngày tháng tốt đó được tập trung vào một số tháng theo lịch riêng cảu người Chăm. Đối với cộng đồng Chăm hồi giáo Ba Ni thường plan clau (tháng 3) tương đương với tháng 7 dương lịch, plan năm (tháng 6), tương đ ương với tháng 10 dương lịch, plan pluh tương đương với tháng 2 d ương l ịch… được coi là những tháng tốt có thể làm đám cưới và xây cất nhà cửa. Trong những tháng được coi là tốt đó, chỉ có thời kỳ hạ tuần từ khi trăng tròn trở đi, mới được coi là ngày “lành” để tiến hành c ưới h ỏi. Nh ưng trong mỗi tuần lại có thể tổ chức lễ cưới trong những ngày như sau: ngày Agan (thứ 3), but (thứ 4) và ngày gjip (thứ 5) mà thôi. Đối với người Chăm ở vùng Phan Rang họ thường cưới hỏi vào tháng 3, 6, 8, 10, 11 và có khi tháng 12 theo lịch Chăm. Riêng người Chăm Bà La Môn ở Phan Rí ch ỉ cưới vợ, cưới chồng vào tháng 3, 6, 10 mà thôi. Đặc bi ệt ng ười Chăm Islam Nam Bộ do ảnh hưởng của giáo lý tôn giáo nên không ấn đ ịnh ngày, tháng cưới như người Chăm ở Trung Bộ. Vấn đề tôn giáo đã phân chia người Chăm thành 3 cộng đồng riêng biệt, từ đó dẫn đến việc cưới hỏi của 3 cộng đồng có những nét khác nhau. Lễ nghi đám cưới của người Chăm nói chung qua các giai đoạn như sau: - Giai đoạn dạm hỏi (paluak panôit), là giai đoạn mọi việc ph ải đ ược ti ến hành trong âm thầm, kín đáo, mong manh và vô hạn định. - Lễ nao nao pôih (lễ hỏi), giai đoạn mọi việc được tiến hành bán công khai, tế nhị nhưng sáng tỏ và có nhiều triển vọng. - Lễ ta kloh panôih (lễ đính hôn), giai đoạn kết thúc đ ể quy ết đ ịnh d ứt khoát lễ vu quy hay tục rước rể trong lễ thành hôn. - Đám cưới (Băng mơ nhum, pa likhah, băng padih). - Lễ sau đám cưới (Ta lơh akhak ao) là lễ xe y hay là lễ trình di ện tong môn. 3.1.1 Lễ nghi đám cưới của người Chăm Bà La Môn. 14
  15. Bước đầu cảu lễ thành hôn là một giai đoạn khó khăn, giai đoạn này thường được gọi bằng một danh từ có nghĩa rộng kín đáo, c ần nhi ều tài xã giao, hung biện, đó là danh từ “pa luak panoih”. Theo chế độ mẫu hệ, người con gái thuộc nội tộc, có bổn phận nội trợ, quản thủ tài sản, phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc chồng con và thờ cúng tổ tiên… Một vài trườnghợp cần ghi nhận: - Trường hợp cô nàng không thích anh chàng, anh chàng lại mê cô nàng, sự quyết định do cha mẹ đằng gái. Trường hợp trên có hai cách giải quy ết thường thấy: + Cha mẹ đằng gái cũng không đồng ý, hôn nhân chắc chắn sẽ không thành + Cha mẹ đằng gái đồng ý. Hôn nhân có thể thành vì việc chinh ph ục con gái cưng thường không khó lắm. Vì cha mẹ đặt đâu con ng ồi đó là quan niệm xuyên suốt chiều dài lịch sử cảu xã hội Chăm Pa từ xưa đến nay. Nếu cha mẹ không thuyết phục được con gái, thường xảy ra trường hợp ép duyên con gái với những câu thông thường: Tình yêu sẽ đến sau hôn nhân “Tao có yêu ba mày hồi nào đâu? Cha mẹ đặt đâu con ng ồi đó. Nh ư vậy mới hiểu, áo mặc sao qua khỏi đầu. Bây giờ trời cho làm ăn nên nổi, con cháu đùm đề, đời sống vững vàng như ai, th ấy không”. Sau đó cha mẹ tiến hành hôn nhân theo ý mình. - Trương hợp hai người xa lạ, không hề yêu nhau. Hai bên cha m ẹ t ự kén chọn, lựa tuổi cùng tốt, môn đăng hộ đối, xứng đôi, tiến hành công việc cậy người làm mai mối dạm hỏi. Trng trường hợp này duyên nợ hoàn toàn do cha mẹ đặt để. Phương thức này rất phổ biến ở xã hội Chăm x ưa, sau ngày giải phóng tuy còn nhiều nhưng giảm nhiều - Trường hợp khác, con trai đã để ý người con gái nhưng do cha mẹ ngườicon trai khước từ. Cha mẹ bên đàng gái đồng ý. Hôn nhân có th ể thành dưới hình thức không có đám cưới linh đình, mà theo hình th ức t ự ý, tức đi lén. Sau đó ít lâu, chờ thời gian thuạn tiện, cha m ẹ đàng gái nh ờ người có uy tín dẫn hai vợ chồng sang bên nhà trai để thú tội với cha m ẹ và họ hàng bên nhà trai. Đặc biệt người Chăm nếu có chuyện phạt ý, không vừa lòng hay để bụng. Tuy nhiên, nếu có sự xin lỗi “nao thú”, họ sẵn sang tha thứ. Trong xã hội Chăm cũng như người Chăm nhất là cha mẹ bên nhà gái ít thích hình thức đám cưới thiếu danh dự (bok muta) này. Chỉ thường xảy ra đối với các gia đình nghèo khổ hay những trường hợp cậu con trai nhà giàu gặp cô gái nhà nghèo cha mẹ chàng trai không tán thành cu ộc hôn nhân do quan niệm môn đăng hộ đối. 15
  16. Trường hợp hai bên cha mẹ đều không tán thành hôn nhân, có th ể đôi trai gái sẽ thoát ly gia đình để tự lập, thực ra trường hợp này rất hiếm trong xã hội Chăm. Lễ PALUAK PANÔIKH (Dạm hỏi) Đây là giai đoạn khó khăn nhất của gia đình cô gái, b ởi nó luôn luôn diễn ra trong bí mật âm thầm, càng kín đáo càng t ốt. Vì ngại r ằng câu chuyện mai mối không thành khi đổ bể ra, cả làng, cả vùng đều nghe tin thì tai tiếng không mấy tốt cho gia đình bên nhà gái và ngay thân phận cô gái nữa. Điều này được giải thích bởi những lý do sau: - Về phương diện gia đình: Người Chăm quan niệm rằng khi đàng trai khước từ lời cầu hôn của mai mối khác gì họ chê bai gia đình đàng gái. Vấn đề thể diện và danh dự của gia đình thật to tát biết bao. Xã hội Chăm rất quý và tôn trọng danh dự, khi bị xúc phạm là nỗi nhục của họ. - Về phương diện thân phận người con gái: Việc dọn đường mai mối luôn luôn đặt trong kế hoạch thầm kín và bí mật tối đa. Công việc được thành đạt thì tốt cho con gái. Câu chuyện lứa đôi không thành th ị không thể tránh khỏi được lời rèm pha của láng giềng hàng xóm chê bai cô gái là “bị ế”. Ngay cả việc mai mối cho lần tiếp theo trong tương lai cũng có nhiều trở ngại và ảnh hưởng rất lớn đến thân phận của người con gái. Cho nên con đường mai mối ngầm thật là quan trọng. Vị sứ gi ả hôn nhân (ôn binhuk) mà gia đình nhà gái muốn nhờ cậy phải được đắn đo chọn lựa không phải ai cũng được. Người mai mối (ôn binhuk) thường là bô lão có uy tín trong xóm làng, có tài ăn nói, lợi khẩu, khéo léo và kiên trì có quen nhiều hay thân thuộc với bên đàng trai càng có lợi. Đặc biệt người mai mối phải có gia đình, có vợ, con cái nhiều và cuộc sống gia đình ông ta phải khá gi ả và h ạnh phúc. Thời gian thăm dò ý kiến cha mẹ đàng trai, lui tới kéo dài hàng tháng và có thể từ năm này qua năm khác. Hiện nay để phụ vào công cuộc thăm dò ý kiến cha mẹ bên nhà trai, cha mẹ bên gái đôi khi có dịp hỏi thăm ý định của chàng trai trong những lúc anh ta lui tới bên nhà gái. Ngày xưa, người lớn chỉ chú trọng sự thảo thuận của cha m ẹ. Nói th ế không phải đàng trai hoàn toàn thụ động. Cha mẹ và họ hàng bên nhà trai có rất nhiều quyền đó là quyền tối hậu, quyền quy ết định từ ch ối hay chấp nhận. Hiện nay khi lựa chọn chú rể, cô dâu nhằm vào các tiêu chuẩn sau: - Về vấn đề giai cấp: Vấn đề giai cấp còn ảnh hưởng nặng nề trong hôn nhân như các thời kỳ cổ xưa của họ. Hai chiều hướng ngược nhau v ề 16
  17. quan niệm hôn nhân sau đây trong hiện tại đang làm cho không ít b ậc cha mẹ không ít bối rối. Đa số luôn luôn thích có vợ giàu để được sang trọng, sung s ướng, kh ỏi khổ thân, nở mày nở mặt với thiên hạ. Người ta không c ần h ọc hành nên thân. Quan niệm này có ở cả hai bên trai và gái. Thiểu số quan niệm hôn nhân phải bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. - Dư luận của xã hội đối với gia đình: Tai tiếng không tốt c ủa gia đình có nhiều ảnh hưởng không tốt đối với vấn đề hôn nhân. Xã hội Chăm sống rất nể vị nhau, nhưng khi trái ý họ họ để bụng lâu đời. - Vấn đề lựa chọn dòng họ: + Tránh những dòng lai căng: Cha hoặc mẹ khác giống (khác dân tộc, khác tôn giáo) + Tránh họ Yang In. Vì mọi người cho rằng họ này không tốt + Tránh giai cấp tôi tớ - Đức tính của người con gái: Đức tính của người con gái được coi trọng trong hôn nhân. Theo quan niệm xưa người con gái không căn cứ vào sắc đẹp bên ngoài, mà chú trọng cái đẹp bên trong. Phương châm của người Chăm có câu: “Siam binai hatai bau bruk, Jhiak binai hatai yâu mưh » “ Nhan sắc đẹp, lòng thối tha Nhan sắc xấu, lòng dạ như vàng” Mặt khác, tướng mạo cũng được đề cập rất nhiều (tướng sát phu; tướng phá năn; tướng lang chạ; tướng dễ hay khó nuôi con…) Qua bao nhiêu thời gian, bậc cha mẹ nhận thấy những khuân kh ổ bó bu ộc thật khắt khe, hoặc quyết đoán một cách đơn ph ương hay quá cá nhân ch ỉ đem lại những thất bại đi kèm với sự đổ vỡ của gia đình. Đó là đi ều hi ển nhiên không thể tranh được. Con gái cần có đôi chút nhan sắc mới dễ kiếm chồng. Thứ đến tính nết nhu mì, nết na, ăn nói lễ phép điềm đạm và biết lo công việc gia đình. - Ảnh hưởng bà con: Điều kiện gần gũi thân thuộc cũng đem lại nhiều dễ dãi cho công việc mai mối. - Về tuổi tác: Cung mạng cũng rất quan trọng trong việc cưới hỏi. Xưa kia con trai con gái lớn lên 15 tuổi có quyền lập gia đình. Thường người Chăm lập gia đình rất sớm. Người Chăm theo đạo Hồi giáo Bà Ni ,đến 15 tuổi phải làm lễ nhập đạo, con trai làm lễ patal “kho tan” (lễ cắt dây quy đầu), con gái làm lễ ka rơh mới có 17
  18. thể lập gia đình. Người Chăm Hồi giáo Islam thì làm lễ nhập đ ạo khi mới sinh. Giai đoạn dạm hỏi sẽ đi đến kết quả như sau: - Bị khước từ vì nhiều lý do ( kỵ tuổi xung khắc; nghèo nàn; tuổi ly biệt; tướng không con; tìm cách từ chối khéo) - Hai bên cha mẹ thuận tình, dấu hiệu có triển vọng tốt. Cha mẹ đàng trai sẽ trả lời rất thông cảm, dễ dãi và định ngày cho phép bên gái cử một số đại diện lại gia đình bên trai làm lễ hỏi, đ ể đánh dấu sự thỏa thuận của bên nhà trai. Giai đoạn mai mối dạm hỏi luôn luôn được tiến hành về đêm, trong âm thầm. Khi có kết quả tốt thì mới xuất hiện ban ngày bằng lễ hỏi. Lễ NAO PÔIH (lễ hỏi) Đây là giai đoạn hoạt động bán công khai, tế nhị, nhưng sáng tỏ và có nhiều triển vọng. Sau lễ dạm hỏi, nếu hai bên gia đình và hai dòng h ọ đồng ý thì nhà gái mang trầu cau đến nhà trai xin ấn định th ời gian làm đám hỏi. Khi được nhà trai cho ngày chính thức để tiến hành đám h ỏi, nhà gái thường hỏi ý kiến những người đứng đầu tôn giáo trong làng nh ư ông pôsà là người độc quyền trong việc xem lịch và phán ra ngày tốt mới có thể làm đám hỏi được. Theo cổ tục, tới ngày ấn định, nhà gái làm bánh trái gồm các lo ại nh ư bánh Sacada hay thường gọi là pei saliya. Còn cada là bánh làm bằng chứng gà đánh với nước dừa, đậu phụng, đem chưng cách thủy, thường được đựng trong một cái tô lớn. Bánh peinung là một trong hai loại bánh không thể thiếu được trong lễ hỏi và trong các lễ cưới. Đặc biệt còn có peimang và một số trái cây như chuối, dừa…2 quả trứng gà và một chai rượu. Cùng đi với ông bà mai chính mang bánh trái đựng trong m ột cái “ciết” đến nhà đàng trai còn có hai ông bà mai phụ để h ộ tống ông bà mai chính. Gia đình nhà trai nời họ thân tộc gần gũi với mình nh ất đ ể ti ếp chuyện với gia đình nhà gái. Nếu không có gì trục trặc x ảy ra thì h ọ cùng nhau ăn bánh, chuyện trò, bàn chuyện hôn nhân. Ngoài ra nhà trai có th ể t ổ chức tiệc mặn hoặc tiệc ngọt, thùy theo hoàn cảnh mỗi gia đình mà đón tiếp nhà gái. Cũng nhân dịp này nhà gái mời nhà trai sang nhà gái làm khách. Đến ngày nhà trai cùng ngưổitng thân tộc và ông bà mai mối đến nhà gái được nhà gái tiếp đãi nồng hậu và ăn uống linh đình. N ếu tr ường hợp nhà gái nghèo quá, có thể làm bữa ăn đơn s ơ ho ặc làm ti ệc ng ọt. Sau đó hai bên cử đại diện mang một ít bánh trái sang nhà Th ầy C ả đ ể xin làm đám cưới. Đặc biệt chỉ có Thầy Cả mới phán cho ngày lành tháng tốt để tổ chức lế thành hôn cho đôi trai gái. 18
  19. Sự tiếp xúc đông đảo giữa hai họ trước hết có mục đích để hai họ tìm hiểu nhau và sau nữa chứng tỏ sự bằng lòng của họ hàng. Cũng trong lễ này nhà trai phải cho nhà gái biết số người sẽ đi đưa rể để nhà gái s ửa soạn đón tiếp trong lễ cưới tới. Lễ BĂNG PADIH (Lễ cưới) Lễ cưới thường được tiến hành sau lễ hỏi ít ngày, nhưng không được quá 4 tháng, vì để lâu nhiều kẻ rèm pha dẫn đến khó khăn cho hôn nhân, gây ảnh hưởng không tốt cho việc cưới. Hôn nhân của những người Chăm theo tôn giáo Bà La Môn và Hồi giáo Bà Ni Trung B ộ, đ ều l ấy ngày tháng thống nhất để tiến hành đám cưới, thường là vào buổi chi ều th ứ tư ngày chẵn, trong hạ tuần trăng từ 16 đến cuối tháng theo lịch Chăm của các tháng ba, sáu, tám, mười và tháng 11. Cách chọn tháng cưới này có l ẽ ảnh hưởng của thuyết âm dương. Ở xã hội Chăm hạ tuần trăng và buổi chiều đều thuộc về âm. Vì theo chế độ mẫu hệ việc tổ chức đám cưới do nhà gái tổ ch ức. Tới ngày cưới, nhà trai làm tiệc rượu cầu trời và tổ tiên, ông bà đã khuất chứng giám cho viẹc hôn nhân của con cái mình. Đầu tiên tất cả những nhười thân trong dòng họ kể cả bạn bè thân thiết được mời của phía đàng trai đến tạp trung đông đủ. Những người đến dự đều không quên mang theo tiền gọi là “chền chúk”, tiền “gậup gàn” (tức tiền họ hàng) để làm của hồi môn cho chú rể. Trước khi đưa chú rể qua nhà gái, bên nhà trai làm lễ rửa mình cho chú rể do một ông thầy pasế đảm nhiệm. L ễ được tiến hành ở ngoài sân. Thầy làm phép cho chú rể, cầm một hũ n ước và một cây trượng dài 2-3 mét (làm bằng mây), đọc lời bùa chú, nội dung báo cáo cho các “yang”, thần thiên đại biết. Đọc xong lời bùa chú, ông th ầy đưa hũ nước làm phép cho chú rể súc miệng ba l ần rồi đ ổ xu ống sân. Sau đó chú rể bước vào nhà tục làm lễ cúng xin, khấn vái tổ tiên để mặc đồ truyền thống như ao (áo) “khanh báy” (sà rông), xếu (khăn cột đầu). Lễ cúng sau này có thêm cha mẹ chú rể và vợ chồng bà mai (cùng chú rể và thầy pasế). Lễ cúng gồm một ít trái cây, bộ áo truyền thống được ông mai mặc cho chú rể. Ông thầy pasế rót rượu, khấn vái thần linh và tổ tiên ông bà của chú rể. Nhà gái phải cử ông mai đến nhà trai để đón rước họ nhà trai, ông mai nhà gái thường mang theo bình nước, trầu cau. Đi đầu và là ng ười dẫn đường cho họ hàng chú rể là ông mai, kế đến chú rể, đàn ông, thanh niên, rồi sau cùng đến đàn bà và thanh nữ. Hiện nay do thời đại phát triển, nhiều người đi giày nên t ục l ệ rửa tay chân không bắt buộc. 19
  20. Đoàn đưa rể đến gần nhà gái mà chưa đến giờ tốt thì ph ải d ừng ngh ỉ 10- 15 phút tại một điểm đã được hẹn, trước lúc đó nhà gái cử một đoàn do người đàn ông cao tuổi trong họ cô dâu mang chiếu, trầu cau ra thiết đãi họ hàng chờ giờ tốt. Tất cả cùng nhay trò chuyện, uống nước. Khi đúng giờ lành đã định, một số người trong đoàn nhà gái quay trở vào nhà đ ể thông báo cho phía nhà gái biết là đoàn nhà trai đã tới, để ti ếp đón chính thức. Đúng giờ lành đàng trai vào nhà theo thứ tự. Để tỏ lòng kính trọng nhà trai, nhà gái để một lu nước lớn, có một người đàn bà cầm gáo n ước dội cho từng người ở phía nhà trai rửa chân tay và mời h ọ đi theo hàng chiếu bước vào nhà. Họ được ông mai và họ hàng nhà gái tiếp tục đón nồng hậu, cởi mở,, đặc biệt phải hết sức tôn trọng, không để mất lòng nhà trai. Trong nhà người ta trải 3 chiếc chiếu dài thành 3 hàng d ọc, hàng chiếu giữa dành cho ông mai, chú rể và những người già cả; hàng chiếu bên phải giành cho họ đàng trai, hàng chiếu bên trái dành cho họ nhà gái. Hiện nay đám cưới ít khi ngồi dưới chiếu mà ngồi bàn ghế. Đến giờ quy định, ông mai dàng trai đứng dậy dẫn chú rể tiến về hướng phòng the của cô dâu. Phòng của cô dâu là một gian ở phía trong của căn nhà, kiến trúc theo lối cổ truyền gọi là “thang y ơ” (nhà t ục). Ông mai cảu cô dâu từ phòng the đi ra đón nhận chàng rể do ông mai nhà trai dẫn vào. Trong phòng the được kê một tấm phản hoặc trải chi ếu d ưới nền đã được yểm bùa chú, cô dâu đã được trang đi ểm ngồi s ẵn ở đó, chú rể ngồi đối diện với cô dâu. Ông mai nhà trai đứng ở phía Đông, ông mai nhà gái đứng ở phía Tây, cùng cầm chiếc chiếu đập xuống 3 lần, khấn vái các thần linh rồi trải xuống tấm phản cảu cặp hôn nhân, đầu chiếu quay về hướng bắc, đuôi quay về hướng Nam, kế đó hai ông mai cầm 2 chiếc gối để săn ở đó đẩy sát vào nhau và ra hiệu cho cô dâu và chú r ể ng ồi vào cạnh ông mai của mình. Trong lúc đó người nhà mang vào một mâm lễ tơ hồng, có trầu cau, cùng bánh trái và rượu để giữa hai người. Thầy Cả được mời đến để làm lễ, ông thắp nến làm lễ bổn mạng cho hai người, rồi rót rượu khấn vái các vị thần yamư, pô i nư gar, pô pan cùng ông bà tổ tiên ch ứng giám cho hôn lễ này và trịnh trọng lấy một lá trầu to, đẹp từ trong hộp đựng trầu cau, xẻ đôi dưa cho cô dâu một nửa, cô dâu lại xẻ đôi miếng trầu ra làm hai phần đưa cho chú rể một phần. Chú rể cầm quả cau bổ đôi đưa cho cô dâu một phần. Cô dâu lấy ít vôi bôi vào trầu cau của chú rể và của mình rồi hai người cùng ăn những miếng trầu cay nồn ấy trong niềm hạnh phúc. Ông mai rót rượu khấn vái một hồi rồi đưa ly tượu cho chú rể và cô dâu cùng uống, đoạn lấy nhẫn để cho cả hai người đeo nhẫn cho nhau, nhẫn cưới nầy có chạm vảy cá ở giữa mặt nhẫn có hình con mắt mà ng ười 20
nguon tai.lieu . vn