Xem mẫu

QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG.
Khái niệm quản lý môi trường
“Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách Kinh tế, kỹ thuật,
xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh
tế - xã hội quốc gia”.
Với nội dung trên quản lý môi trường cần phải hướng tới những mục tiêu cơ bản sau
đây:
Thứ nhất là phải khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh
trong hoạt động sống của con người.
Thứ hai là Phát triển bền vững Kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã
hội bền vững do hội nghị Rio-92 đề xuất và được tuyên bố Johannesburg, Nam phi về
phát triển bền vững 26/8-4/9/2002 tái khẳng định. Trong đó với nội dung cơ bản cần
phải đạt được là phát triển Kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,
bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa
dạng sinh học.
Thứ ba làXây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng
lãnh thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng
đồng dân cư.
Cơ sở Quản lý môi trường
Khi xem xét cơ sở cho quản lý môi trường người ta dựa vào bốn yếu tố cơ bản sau đây.
Cơ sở triết học của quản lý môi trường
Trong triết học người ta bàn nhiều về nguyên lý thống nhất của thế giới vật chất, trong
đó sự gắn bó chặt chẽ giữa tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống thống
nhất, yếu tố con người giữ vai trò quan trọng. Sự thống nhất của hệ thống được thực
hiện trong các chu trình Sinh Địa Hoá của 5 thành phần cơ bản:
Sinh vật sản xuất (tảo và cây xanh) có chức năng tổng hợp chất hữu cơ từ các chất vô
cơ dưới tác động của quá trình quang hợp.
Sinh vật tiêu thụ là toàn bộ động vật sử dụng chất hữu cơ có sẵn, tạo ra các chất thải.
Sinh vật phân huỷ (vi khuẩn, nấm) có chức năng phân huỷ các chất thải, chuyển chúng
thành các chất vô cơ đơn giản.
Con người và xã hội loài người.

Các chất vô cơ và hữu cơ cần thiết cho sự sống của sinh vật và con người với số lượng
ngày một tăng.
Tính thống nhất của hệ thống “Tự nhiên – Con người – Xã hội” đòi hỏi việc giải quyết
vấn đề môi trường và thực hiện công tác quản lý môi trường phải mang tính toàn diện
và hệ thống. Con người cần phải nắm bắt cội nguồn của sự thống nhất đó, phải đưa ra
được những phương sách thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn nẩy sinh trong hệ
thống. Bởi lẽ con người đã góp phần quan trọng vào việc phá vỡ tất yếu khách quan là
sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên – con người – Xã hội. Chính vì vậy khoa học về
quản lý môi trường, hay sinh thái nhân văn chính là sự tìm kiếm của con người nhằm
nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống nhất của hệ thống “Tự nhiên – con
người – Xã hội”.
Cơ sở khoa học – kỹ thuật – công nghệ của quản lý môi trường.
Khoa học về môi trường là một lĩnh vực khoa học mới, thực sự nó xuất hiện và được
phát triển mạnh từ những năm 1960 trở lại đây, làm cơ sở cho nghiên cứu, đúc rút kinh
nghiệm, phát hiện những nguyên lý, quy luật môi trường giúp cho việc thực hiện quản lý
môi trường.
Nhờ những kỹ thuật và công nghệ môi trường, các vấn đề ô nhiễm do hoạt động sản
xuất của con người đang được nghiên cứu, xử lý hoặc phòng tránh, ngăn ngừa. Các kỹ
thuật phân tích, đo đạc, giám sát chất lượng môi trường như kỹ thuật viễn thám, tin học
được phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới giúp cho việc Quản lý môi trường hiệu
quả hơn.
Cơ sở kinh tế của quản lý môi trường
Hiện nay Quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh của nền Kinh tế thị trường
và thực hiện điều tiết xã hội thông qua các công cụ kinh tế.
Trong nền Kinh tế thị trường mọi nguyên lý hoạt động được dựa trên cơ sở cung và cầu
của thị trường, thông qua cạnh tranh, hoạt động phát triển và sản xuất của cải vật chất
diễn ra dưới sức ép của sự trao đổi hàng hoá theo gía trị. Loại hàng hoá có chất lượng
tốt và giá thành rẻ sẽ được tiêu thụ nhanh, ngược lại những hàng hoá kém chất lượng
và giá thành cao thì sẽ không có chỗ đứng. Trên cơ sở những nguyên lý của kinh tế thị
trường, người ta đã đưa ra các chính sách hợp lý và các công cụ kinh tế để điều chỉnh
và định hướng hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho công tác bảo vệ môi trường.
Cơ sở luật pháp cho Quản lý môi trường
Cơ sở luật pháp cho quản lý môi trường thực chất là các văn bản về luật quốc tế và luật
quốc gia về lĩnh vực môi trường.
Luật quốc tế về môi trường thực chất là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều
chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ngăn

chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi trường ngoài
phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi trường đã được hình thành
một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu
Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về “Môi trường và con người” tổ chức năm 1972 tại
Stockholm, Thuỵ điển và sau hội nghị thượng đỉnh Rio 1992, Brazin đã có rất nhiều văn
bản luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho đến nay đã có hàng ngàn các văn bản
luật quốc tế về môi trường, trong số đó đã có nhiều văn bản được chính phủ Việt nam
ký kết.
Trong phạm vi quốc gia, chúng ta cũng đã có nhiều văn bản pháp lý liên quan đến bảo
vệ và quản lý môi trường. Văn bản quan trọng nhất là Luật bảo vệ môi trường được
quốc hội thông qua ngày 27/12/1993.
Các văn bản pháp luật Quốc tế và Quốc gia là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác
quản lý Nhà nước vể bảo vệ môi trường.
Quản lý Nhà nước về môi trường
Khái niệm Quản lý Nhà nước về môi trường
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường xác định rõ chủ thể là Nhà nước, bằng chức
trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách
Kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát
triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia.
Như vậy chúng ta có thể nhận thấy rằng Quản lý Nhà nước về môi trường xét về bản
chất khác với những hình thức quản lý khác như Quản lý môi trường do các tổ chức phi
chính phủ (NGO: None Goverment) đảm nhiệm; Quản lý môi trường dựa trên cơ sở
cộng đồng; quản lý môi trường có tính tự nguyện…., Hình thức quản lý Nhà nước về
môi trường chủ yếu là điều hành và kiểm soát (CAC: Comment And Control).
Tính tất yếu khách quan của Quản lý Nhà nước về môi trường
a). Vấn đề ngoại ứng và hàng hoá công cộng.
Như chúng ta đã nghiên cứu ở chương II, ngoại ứng và hàng hoá công cộng là những
nguyên nhân gây ra thất bại thị trường, nghĩa là thất bại về mặt chính sách trong quản lý
môi trường, hậu quả là gây ra những thiệt hại cho môi trường, đe doạ nghiêm trọng tới
sự phát triển bền vững của quốc gia. Vậy để khắc phục tình trạng nay đòi hỏi phải có sự
Quản lý Nhà nước về môi trường.
b). Sở hữu Nhà nước về tài nguyên và môi trường.
Xem xét về sở hữu tài nguyên và thành phần môi trường, chúng ta đều thừa nhận các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và thành phần môi trường thuộc sở hữu Nhà nước, như

vậy Nhà nước không thể giao cho đối tượng nào khác chịu trách nhiệm chính về quản lý
môi trường, trách nhiệm đó phải thuộc về Nhà nước.
c). Những bài học của các quốc gia trên thế giới.
Những bài học Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy rằng cần phải có sự
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Đối với các nước phát triển, ví dụ như Nhật
bản là quốc gia tiên phong đi đầu trong nhóm các nước đã phát triển, hiện nay đang
truyền bá kinh nghiệm cho các quốc gia phát triển sau là cùng vơí sự phát triển Kinh tế
– xã hội phải có sự quản lý Nhà nước về môi trường, bởi lẽ như họ trước đây do không
quan tâm tới vấn đề môi trường mà chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế nên phải trả giá
quá đắt cho sự phát triển của mình. Từ kinh nghiệm của các quốc gia phát triển sau
như Singapo, rút ra từ bài học của các nước đã phát triển trước, ngay trong chiến lược
phát triển Kinh tế – xã hội của mình, Nhà nước đã rất chú trọng tới Quản lý môi trường,
chính vì vậy mà thành tựu đạt được của họ hiện nay đã được thế giới thừa nhận là có
tính bền vững.
d). Thực trạng và những thách thứcđối với môi trường toàn cầu và ở Việt nam.
Đối với những vấn đề môi trường toàn cầu
Sau hơn 30 năm kể từ Hội nghị đầu tiên về môi trường của thế giới (Stockholm 1972)
đến nay, cộng đồng thế giới đã có nhiều nỗ lực để đưa vấn đề môi trường vào các
chương trình nghị sự ở cấp quốc tế và quốc gia. Tuy vậy hiện trạng môi trường toàn
cầu được cải thiện không đáng kể. Môi trường chưa được lồng ghép với kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội. Dân số toàn cầu tăng nhanh, sự nghèo đói, sự khai thác, tiêu thụ
quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự phát thải quá mức “khí nhà kính” v.v… là
những vấn đề bức xúc có tính phổ biến trên toàn cầu.
Trong “tuyên bố Johannesburg về phát triển bền vững” năm 2002 của liên hợp quốc đã
khẳng định về những thách thức mà nhân loại đang và sẽ phải đối mặt có nguy cơ toàn
cầu là:
“ Môi trường toàn cầu tiếp tục trở nên tồi tệ. Suy giảm đa dạng sinh học tiếp diễn, trữ
lượng cá tiếp tục giảm sút, sa mạc hoá cướp đi ngày càng nhiều đất đai màu mỡ, tác
động tiêu cực của biến đổi khí hậu đã hiển hiện rõ ràng. Thiên tai ngày càng nhiều và
ngày càng khốc liệt. Các nước đang phát triển trở nên dễ bị tổn hại hơn. Ô nhiễm không
khí, nước và biển tiếp tục lấy đi cuộc sống thanh bình của hàng triệu người.”
Đối với những vấn đề môi trường của việt nam.
+ Thực trạng về những vấn đề môi trường của Việt nam.
Sự biến đổi khí hậu

Từ thực tế về diễn biến của thời tiết khí hậu ở nước ta trong những năm vừa qua cho
thấy tính chất biến đổi rất phức tạp, thất thường. Diễn biến nhiệt độ đang có xu thế tăng
lên với đặc điểm là giá trị phân hoá mạnh theo cả không gian và thời gian. So sánh với
biến đổi khí hậu toàn cầu cho thấy trong khi nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng khoảng
0,7% sau gần 150 năm (1854-2000) thì nhiệt độ trung bình năm của Hà nội đã tăng
khoảng 0,75% sau 42 năm (1960 – 2001). Lượng mưa phân bố không đều, nhiều vùng
lượng mưa tập trung khá lớn dẫn đến lũ lụt. Một số nơi như vùng Tây nguyên, vùng Bắc
trung bộ thiếu mưa nghiêm trọng dẫn đến hạn hán. Nhìn chung, trong 30 năm gần đây
lượng mưa ở miền Bắc có xu hướng giảm nhẹ, ngược lại lượng mưa ở miền Trung và
miền Nam có xu hướng tăng. Bão, lũ, lụt diễn biến phức tạp, thường xuất hiện sớm với
cường độ mạnh.
Từ những đánh giá trên cho thấy xu hướng biến đổi khí hậu ở Việt nam theo chiều
hướng xấu.
Môi trường không khí
Không khí chịu tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, thực tế
cho thấy chất lượng không khí ở đô thị và các khu công nghiệp ở Việt nam trong những
năm gần đây có sự thay đôỉ không đáng kể. Điều đáng chú ý nhất đối với môi trường
không khí là ô nhiễm bụi có tính điển hình và phổ biến ở khắp mọi nơi. Hầu hết các đô
thị ở nước ta đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm bụi trầm trọng tới mức báo động.
Nồng độ bụi trung bình ở hầu hết các đô thị đều vượt TCCP từ 2-3 lần, cá biệt có nơi
vượt TCCP tới 5-7 lần. Nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm bụi là do thi công
xây dựng mới và sửa chữa nhà cửa, đường sá, cống rãnh, hạ tầng kỹ thuật đô thị xảy
ra thường xuyên và không quản lý tốt.
Nhìn chung, môi trường không khí ở Việt nam chưa bị ô nhiễm bởi các khí độc hại như
SO2, NO2, CO. Tuy nhiên ở một số nút giao thông lớn, nồng độ chì và khí CO đã xấp xỉ
hoặc vượt trị số TCCP. Kể từ sau khi triển khai sử dụng xăng không pha chì, số liệu
quan trắc 6 tháng đầu năm 2002 cho thấy hàm lượng chì trong không khí đã giảm 4050% so với cùng kỳ năm trước.
Chất lượng không khí ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa nhìn chung còn
rất tốt, nhiều nơi môi trường trong lành, phù hợp với mục đích an dưỡng, du lịch và nghỉ
ngơi.
Môi trường đất
Thoái hoá đất là xu thế phổ biến từ đồng bằng đến trung du và miền núi. Thực tế cho
thấy các loại đất bị thoái hoá chiếm hơn 50% diện tích tự nhiên của cả nước. Các loại
hình thoái hoá đất chủ yếu là xói mòn, rửa trôi, đất có độ phì nhiêu thấp và mất cần
bằng dinh dưỡng, thoái hoá hữu cơ, khô hạn và sa mạc hoá, ngập úng, ngập lũ, đất
trượt, sạt lở đất, mặn hoá, phèn hoá, đất mất khả năng sản xuất.

nguon tai.lieu . vn