Xem mẫu
- Quản lý chất thải nguy hại [Thứ sáu, 18/06/2010]
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang
nền kinh tế thị trường. Với mục tiêu phấn
đấu đến năm 2020, về cơ bản Việt Nam sẽ
trở thành một nước công nghiệp hóa và tất
yếu là sự đô thị hóa ở các thành phố lớn.
Theo dự báo, đến năm 2010 tỷ lệ đô thị
hóa của nước ta sẽ đạt 33%, năm 2020
đạt 45% tương ứng với quy mô dân số đô
thị năm 2010 là 30,4 triệu người và năm
2020 là khoảng 46 triệu người. Với quy mô
đô thị hóa của nước ta, gia tăng dân số và
công nghiệp hóa như trên thì lượng chất
thải nói chung và chất thải nguy hại nói
riêng sẽ tăng lên nhanh chóng. Việc xử lý
chất thải nguy hại này sẽ là một áp lực rất
lớn với công tác bảo vệ môi trường ở nước
ta hiện nay và trong tương lai.
Theo số liệu điều tra của Cục Môi trướng, riêng tổng
lượng chất thải rắn nguy hại (CTRNH) phát sinh
hàng năm chủ yếu tại 3 khu vực kinh tế trọng điểm
chính là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh ở phía Bắc,
thành phố Hồ Chí minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu ở phía Nam và Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng
Ngãi ở miền Trung. Trong đó, CTRNH phát sinh ở
- khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam khoảng 80.332
tấn/ năm, lớn gấp 3 lần khu vực phía Bắc và lớn gấp
20 lần lượng phát sinh ở khu vực miền Trung.
Theo Thống kê của Cục Môi trường, tổng lượng
CTRNH phát sinh hàng năm trên toàn quốc là
152.000 tấn, bao gồm chất thải của các ngành
công nghiệp nhẹ (60.000 tấn), hóa chất (45.000
tấn), cơ khí luyện kim (26.000 tấn), y tế (10.000
tấn), chất thải sinh hoạt đô thị (5.000 tấn) và
chất thải chế biến thực phẩm, điện - điện tử có
số lượng ít nhất trong số các ngành trên (2.000
tấn) nhưng lại chứa các chất hữu cơ khó phân
hủy như PCB và kim loại nặng, đó là các chất
đặc biệt nguy hại tới sức khỏe con người và môi
trường.
Bên cạnh các chất thải của các ngành trên còn
có chất thải từ thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) tồn
lưu. Theo số liệu của Cục Môi trường và các sở
công nghiệp địa phương, chỉ trong 2 năm 2000 -
2001 , tổng lượng thuốc BVTV tổn lưu trên
phạm vi 61 tỉnh/ thành phố là khoảng 300 tấn,
trong đó thuốc BVTV dạng lỏng là 9.7.374 lít
thuốc BVTV dạng bột là 109.145 kg; các bao bì
chứa thuốc BVTV 2.137.850 (bao gồm cả hộp,
chai và lọ).
- Lượng chất thải rắn y tế phát sinh trên phạm vi
toàn quốc theo ước tính của Bộ Y tế năm 2001
là khoảng 12.500 tấn/ năm. Theo số liệu điều
tra của Bộ Y tế cho thấy, hiện nay có khoảng 61
lò đốt chất thải y tế được lắp đặt trên toàn
quốc, trong đó có 41 lò đã đăng ký thẩm định
và có 20/41 lò đạt đủ các yêu cầu về mặt kỹ
thuật. Tính đến tháng 6 năm 2002, tổng công
suất xử lý của các lò là 30 tấn/ ngày. Tuy nhiên,
tại nhiều cơ sở y tế, CTRNH vẫn còn bị để lẫn
với các chất thải khác tại khu vực chôn lấp và
được chôn lấp tại các bãi rác sinh hoạt.
CTRNH sẽ phát sinh ngày càng tăng trên phạm
vi toàn quốc đến năm 2010, phụ thuộc vào các
yếu tố như; dân số đô thị, trình độ văn minh,
phong tục tập quán cũng như thói quen sinh
hoạt và tiêu dùng của từng vùng, nhịp độ phát
triển kinh tế và GDP bình quân đẩu người.
Lượng CTR đô thị và khu công nghiệp ở nước ta
sẽ tăng ở mức tối thiểu là 0,9 kg/ người/ngày,
cho tới năm 2010 và chỉ số này sẽ là 1,3 kg/
người/ ngày tới năm 2020.
Số lượng CTRNH phát sinh ở Việt Nam được các
chuyên gia xác định là chưa nhiều nên mức độ
ảnh hưởng của nó đến sức khỏe con người và
- môi trường chưa lớn. Tuy nhiên, trong tương lai,
với sự gia tăng dân số và nhu cầu tiêu dùng
cùng nhịp độ phát triển kinh tế lớn, số lượng
CTRNH ở Việt Nam ước tính sẽ tăng lên gấp 5
lần, đạt 846.000 tấn vào năm 2010 và đạt
1.548.000 tấn vào năm 2020 (số liệu dự báo của
Bộ Xây dựng).
Nếu không được quản lý tốt, lượng CTRNH này
sẽ tác động đến con người, môi trường và trở
thành một gánh nặng kinh tế lớn.
Theo một số chuyên gia môi trường, do thiếu
đầu tư ngân sách của các cấp chính quyền và
các bộ, ngành trong quản lý chất thải, hiện nay,
ngoại trừ Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí
Minh và Đà Nẵng, các tỉnh thành phố còn lại
đều chưa có các bãi chôn lấp chất thải đảm bảo
vệ sinh môi trường. Trong khi đó, cả nước chưa
có tỉnh, thành phố nào có đủ khả năng xử lý
toàn bộ CTRNH phát sinh trên địa bàn.
Thực tiễn công tác quản lý CTRNH trong nước
và quốc tế cho thấy, các nước muốn tiến hành
công nghiệp hóa đều phải đầu tưxây dựng các
trung tâm xử lý tập trung các CTRNH. Các cơ sở
phát sinh CTRNH sẽ chuyển CTRNH của mình
đến các trung tâm này để xử lý và phải trả chi
- phí cho việc xử lý. Việt Nam cũng đi theo hướng
này để xử lý CTRNH phát sinh trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hôi. Tuy nhiên cho đến
nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được các khu
xử lý tập trung các CTRNH . Đã có những dự án
bắt đầu được triển khai, Đồng Nai đang là tỉnh
đi tiên phong về vẩn đề này. Trong khi chờ đợi
có các khu xử lý tập trung CTRNH, hầu hết các
cơ sở sản xuất kinh doanh phát sinh CTRNH đều
phải tạm thời tồn trữ CTRNH. Và đây chỉ là một
biện pháp tình thế. Vì vậy việc xây dựng các khu
xử lý tập trung các CTRNH đã và đang trở thành
một trong những vấn đề rất cấp bách của công
tác quản lý chất thải.
Theo ông Phạm Khôi Nguyên - Thứ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường, việc xử lý CTRNH có
thể thực hiện bằng nhiều phương pháp như: xử
lý cơ học, xử lý hóa lý, xử lý nhiệt, chôn lấp....
Hiện nay một số nước như Na Uy, Thụy Điển,
Nhật Bản, Hàn Quốc..., ngoài việc áp dụng các
phương pháp trên đã nghiên cứu áp dụng
phương pháp thiêu đốt chất thải bằng lò nung
clinke. Qua khảo sát của Cục Môi trường và Dự
án VCEP cùng một số cơ quan liên quan , đây là
một phương pháp có một số ưu điểm về mặt
kinh tế và kỹ thuật. Phương pháp này đã tận
- dụng được nhiệt độ rất cao và thời gian lưu
cháy dài của lò nung clinke để phá vỡ các cấu
trúc bền vững của CTRNH. Hầu hết các loại chất
thải hữu cơ dạng rắn và lỏng, kể cả các chất
thải có chứa PCB đều có thể thiêu đốt trong lò
nung clinke. Tuy nhiên các chất thải này cần
phải qua cung đoạn chế thành nhiên liệu, chất
phụ gia đạt các tiêu chí nhất định trước khi đưa
vào lò nung clinke. Việc thiêu đốt CTRNH trong
lò cklinke có thể áp dụng cho rất nhiều loại chất
thải nguy hại như: các dung môi hữu cơ, dầu
thải chứa PCB, sơn, keo, dán vecni, plastic kể cả
PVC, lốp cao su... Quá trình cháy trong lò clinke
sẽ phá hủy cấu trúc của các chất nguy hại, tro xỉ
còn lại tham gia vào cấu trúc thành phần xi
măng mà không gây ảnh hưởng tới thành phần
của xi măng.
Ngoài ra, còn có các phương pháp xử lý CTRNH
như trung hòa để xử lý chất thải có tính axit hay
kiềm ; xử lý nước thải để loại bỏ các chất vô cơ
kim loại, xyanua, sunfit trong nước thải và cả
các chất hữu cơ; xử lý chất thải nguy hại
lỏng/rắn bằng cách rửa đất, chiết dung môi, lọc,
hỏa luyện kim, thủy luyện kim, chưng cất. Hoặc
phương pháp cố định hóa: ổn định hóa/ hóa
rắn. Quy trình này áp dụng cho CTRNH chứa
- kim loại nặng hay kim loại trong chất thải phải
được gắn với một chất nền không rò rỉ. Người ta
cũng có thể dùng công nghệ xứ lý sinh học:
dùng vi sinh vật gây xúc tác phản ứng hóa học
định trước để chuyển hóa chất nguy hại, độc hại
sang dạng đỡ nguy hiểm hơn.
Chi phí cho xử lý chất thải nguy hại tùy thuộc
vào thành phần, nồng độ chất thải, phương
pháp, công nghệ và thiết bị xử lý. Vì vậy, đối với
từng loại CTNH khác nhau , chi phí xử lý cũng
rất khác nhau. Theo số liệu của Công ty Sam
sung Hàn Quốc, chi phí trung bình cho xử lý
CTNH tại công ty này khoảng 80 - 90 USD/ tấn.
Tại Việt Nam, Cục Môi trường đang phối hợp với
một số cơ quan liên quan tổ chức xử lý thí điểm
thuốc BVTV, chi phí xử lý dự tính là khoảng 50
triệu đồng/ tấn bằng phương pháp xử lý đốt; từ
30 - 35 triệu đồng/ tấn bằng phương pháp hóa
sinh.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng
định hướng xử lý CTNH tập trung bằng cách quy
hoạch các trung tâm xử lý CTRNH tại các đô thị
và khu công nghiệp. Chính phủ đã dự kiến ưu
tiên xây dựng hai trung tâm xử lý CTRNH tại hai
khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía
- Nam. Tuy nhiên, sau 3 năm thực hiện chiến lược
này, khu vực miền Trung do được đầu tư nhiều
dự án phát triển kinh tế nên khả năng phát sinh
CTRNH gia tăng và vì vậy cần thiết phải xây
thêm một trung tâm xử lý CTRNH tại khu vực
này.
nguon tai.lieu . vn