Xem mẫu

Quan điểm của Trần Trọng Kim về đạo đức
Trần Thị Hạnh1
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Email: tranthihanhtriethoc@gmail.com
1

Nhận ngày 5 tháng 3 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 10 tháng 4 năm 2017.

Tóm tắt: Trong dòng chảy lịch sử tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX, Trần Trọng Kim (18831953) là một trong những học giả danh tiếng, một nhà giáo dục, một nhà biên khảo văn học và sử
học Việt Nam. Ông đã tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, giá trị đạo đức của phương
Đông, phương Tây. Quan điểm về đạo đức của Trần Trọng Kim mang đậm nét đạo đức Việt Nam
thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đó là thời kỳ mà trong văn hóa Việt Nam có sự tiếp biến
mạnh mẽ của văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Trần Trọng Kim tiếp thu những giá
trị cơ bản của đạo đức Nho giáo, đạo đức truyền thống dân tộc, đồng thời bổ sung một số nét của
đạo đức phương Tây. Quan điểm của ông về đạo đức nói chung và về lòng nhân ái, thiện và ác,
nghĩa vụ đạo đức nói riêng có nhiều giá trị, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ
hiện nay.
Từ khóa: Trần Trọng Kim, đạo đức, tư tưởng triết học, Việt Nam.
Abstract: In the history of Vietnam’s ideology early in the 20th century, Tran Trong Kim (18831953) was a renowned scholar and educator, who studied and compiled many books of Vietnamese
literature and history. He absorbed the nation’s traditional ethical values, as well as those of both
the Orient and the Occident. His views on ethics were imbued with the Vietnamese ethical views at
the turn of the 19th and 20th centuries, when there was strong acculturation of both oriental and
occidental into the Vietnamese culture. The scholar inherited the fundamental values of the
Confucian and national traditional ethics, while making additions with a number of traits of the
Western ethics. His views on ethics in general and on benevolence, the good and the evil, and the
moral obligations in particular, bear high values, especially in the field of education of ethics to the
younger generation today.
Keywords: Tran Trong Kim, ethics, philosophical ideology, Vietnam.

1. Giới thiệu
Trần Trọng Kim tự là Lệ Thần, là người ở
làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ (nay là Xuân
30

Phổ), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông
sinh ra trong một gia đình có truyền thống
Nho giáo. Cụ thân sinh ra Trần Trọng Kim
là Trần Bá Huân, tham gia phong trào Cần

Trần Thị Hạnh
Vương. Năm 1897, Trần Trọng Kim học
trường Pháp - Việt ở Nam Định. Năm 1900,
ông thi đỗ vào trường Thông ngôn, tốt
nghiệp năm 1903. Năm 1904, ông làm
Thông sự ở Ninh Bình. Năm 1905, Trần
Trọng Kim được một hãng buôn tư nhân cử
sang Pháp làm việc. Tại Pháp, lúc đầu ông
học trường Thương mại ở Lyon. Năm 1908,
ông được nhận học bổng vào trường Đại
học Sư phạm Melun. Năm 1911 ông về
nước. Ông giữ nhiều chức vụ trong ngành
giáo dục: thanh tra tiểu học (1921), trưởng
ban soạn thảo sách giáo khoa tiểu học
(1924), giáo viên trường Sư phạm thực
hành (1931), giám đốc các trường Nam tiểu
học tại Hà Nội (1939). Trần Trọng Kim còn
là Phó trưởng Ban Văn học của Hội Khai
Trí Tiến Đức và nghị viên Hội đồng Dân
biểu Bắc Kỳ. Ngày 9 tháng 3 năm 1945,
Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm thuộc địa
Đông Dương. Để tranh thủ sự ủng hộ của
người Việt Nam, Nhật tuyên bố trao trả độc
lập cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm
1945, triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa
ước kí với Pháp năm 1884, khôi phục chủ
quyền Việt Nam. Trần Trọng Kim được
giao thành lập Nội các vào ngày 17 tháng 4
năm 1945. Sau khi Việt Minh giành được
chính quyền, Trần Trọng Kim lưu vong ra
nước ngoài. Sau nhiều năm tháng ở Quảng
Châu và Hồng Kông, ngày 6 tháng 2 năm
1947 ông trở về sống ở Sài Gòn tại nhà
của Luật sư Trịnh Đình Thảo. Năm 1948,
ông qua Phnôm Pênh sống với con gái. Sau
đó ông trở về Việt Nam sống thầm lặng và
mất tại Đà Lạt vào ngày 2 tháng 12 năm
1953, thọ 71 tuổi. Trước năm 1945, Trần
Trọng Kim đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng
thời bấy giờ về các lĩnh vực sư phạm, sử
học. Trong lĩnh vực giáo dục, ông soạn và
tự xuất bản một số cuốn sách như: Sơ học

luân lý, Sư phạm khoa yếu lược, Quốc văn
giáo khoa thư; Luân lý giáo khoa thư, Sử ký
giáo khoa thư... Những cuốn giáo khoa thư
này (đặc biệt là các cuốn Quốc văn giáo
khoa thư, Sử ký giáo khoa thư và Luân lý
giáo khoa thư) đều là những sách hay thời
bấy giờ. Quốc văn giáo khoa thư là cuốn
sách giáo khoa; sách này không chỉ kể
chuyện ngày nay mà còn nhắc chuyện ngày
xưa, không chỉ lấy những tấm gương từ
trong lịch sử dân tộc mà còn rút những bài
học từ lịch sử nước ngoài, không chỉ kể
chuyện con người mà còn mượn hình
tượng các con vật gần gũi với con người.
Nói chung, sách này dẫn các em học sinh
vào những vấn đề của đạo đức, bao quát từ
đạo làm con, đạo làm dân đến cả những
vấn đề nhỏ bé như cách ăn, mặc, viết thư,
vệ sinh, thường thức hàng ngày. Là một
nho sĩ, xuất thân trong một gia đình có
truyền thống hiếu học, Trần Trọng Kim có
điều kiện tiếp thu các tư tưởng đạo đức
truyền thống dân tộc, giá trị đạo đức trong
các học thuyết của triết học phương Đông,
giá trị đạo đức của phương Tây. Quan
điểm của ông về đạo đức vừa mang tính
triết lý vừa mang tính ứng dụng. Quan
điểm của ông về đạo đức có nhiều nội
dung giá trị. Bài viết phân tích một số nội
dung trong quan điểm của ông về đạo đức
(cụ thể là về quan điểm lòng nhân ái, về
cái thiện, cái ác, về nghĩa vụ đạo đức của
mỗi người).
2. Quan điểm của Trần Trọng Kim về
lòng nhân ái
Lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam có
nguồn gốc từ buổi đầu dựng nước. Qua
những thời kỳ lịch sử khác nhau, lòng nhân
31

Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (114) - 2017

ái tuy có những nội dung mới, song về cơ
bản nó vẫn giữ được nét đặc sắc riêng.
Những hành động của Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang
Trung mở đường hiếu sinh tha tội cho hàng
chục vạn tù binh thua trận về nước an toàn
đã thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả, đáng
khâm phục. Tấm lòng nhân ái thấm sâu
trong các quan hệ từ trong gia đình đến
xóm làng, cộng đồng xã hội. Lòng nhân ái
của người Việt biểu hiện trong quan hệ gia
đình ở chỗ, cha mẹ lo cho con từ nhỏ, con
cái báo hiếu cha mẹ khi già yếu, bệnh tật;
anh em trong nhà thì thuận hòa, xem như
chân với tay. Đối với người không cùng
huyết thống thì lòng nhân ái thể hiện ở việc
giúp người nghèo khổ vượt qua cơn hoạn
nạn lúc khó khăn không màng ơn huệ.
Trong quan hệ xóm giềng, lòng nhân ái
biểu hiện ở lối sống “chín bỏ làm mười”,
“nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá
rách”, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Kế thừa tư
tưởng đó, Trần Trọng Kim cho rằng con
người sống vì xã hội, sống vì hạnh phúc của
mỗi người, sống để cống hiến và đem lại
nhiều lợi ích cho xã hội. Con người sống vì
lợi ích chung của xã hội và vì người khác.
Trong xã hội ấy thì tấm lòng “nhân ái, từ
bi” là rất cần thiết. Ông viết: “Các anh đã
hiểu rõ những lẽ công bằng, nghĩa là phải
trân trọng tính mệnh, của cải, danh giá của
người ta. Nhưng đó chỉ là giữ không làm
điều ác mà thôi. Như thế vẫn chưa đủ bổn
phận làm người. Phải có lòng nhân ái mới
được” 3, tr.191. Theo Trần Trọng Kim,
chỉ rõ biểu hiện của nhân ái là lòng từ thiện,
thương và giúp người nghèo khổ, đói khát,
hoạn nạn. Con người có lòng nhân ái sẽ
quên mình mà làm việc thiện. Sự bố thí
chính là biểu hiện của tình thương, bao
dung. Bố thí có nghĩa rằng, khi nhìn thấy ai
32

nghèo đói, khổ sở thì mình cho họ cơm ăn,
áo mặc hoặc tiền bạc. Việc bố thí tự nhiên,
không cầu kỳ, không khoe khoang và có
phần thiệt thòi cho mình thì mới quý. Sự bố
thí không đơn giản chỉ là cho tiền, hiện vật,
mà cần có tấm lòng thành. Một lời nói an ủi
sẽ làm cho người ta đỡ được một phần chua
xót, điều đó cũng đáng quý lắm rồi. Nhân ái
không chỉ đơn giản là tình thương, sự bố
thí, mà còn là sự cứu mạng, là sự hy sinh
bản thân mình vì lợi ích quốc gia (ví dụ như
Lê Lai liều mình cứu chúa). Trần Trọng
Kim đã khéo léo đưa nội dung khái niệm
lòng nhân ái lên một tầm cao hơn khi cho
rằng nhân ái còn thể hiện ở sự hy sinh vì
quốc gia, dân tộc.
Lòng nhân ái là một giá trị đạo đức văn
hóa lớn của dân tộc ta, đã tạo nên một nét
độc đáo trong chủ nghĩa nhân văn truyền
thống Việt Nam. Trần Trọng Kim đã tiếp
nhận tư tưởng sâu sắc đó và ông đã truyền
lại cho thế hệ sau thông qua sách giáo
khoa, qua những câu chuyện kể lịch sử,
chuyện ứng xử hàng ngày của con người,
gần gũi, dễ hiểu, đó là một cách bảo tồn và
phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc rất hữu hiệu.
3. Quan điểm của Trần Trọng Kim về
thiện và ác
Trong lịch sử nhân loại, thiện và ác đã được
đề cập rất sớm, trở thành những phạm trù
cơ bản của đạo đức học nói riêng và đạo
làm người nói chung. Nhìn chung mọi
người đều mơ ước sống thiện, khát khao
làm điều thiện, muốn sống trong một xã hội
thuận hòa, bình đẳng, nhân ái và cũng tích
cực phê phán cái ác. Đề cao việc thiện, phê
phán cái ác là một phẩm chất đạo đức của

Trần Thị Hạnh
con người trong xã hội. Việc này thể hiện
trong các hoạt động lao động, trong lối
sống, hành vi ứng xử của mỗi người. Kế
thừa quan điểm về thiện và ác trong lịch sử,
Trần Trọng Kim đã đưa ra cách hiểu rằng,
cái thiện là tất cả những gì có vai trò tích
cực trong đời sống của con người và của
toàn xã hội, là tất cả những việc làm đem
lại lợi ích cho con người và xã hội (như sự
giúp đỡ, san sẻ, cảm thông, sự nhường
nhịn); cái ác là tất cả những gì gây trở ngại
và có hại cho con người và xã hội. Cái ác
thường gây ra những thảm họa khủng khiếp
cho con người (như chiến tranh, cướp bóc,
giết người). Cái thiện bao giờ cũng có ý
nghĩa xã hội rộng lớn và lâu dài. Nó kích
thích tính tích cực trong xã hội, tạo niềm tin
cho con người và xã hội. Đối với cá nhân,
cái thiện có tác dụng làm cho con người xác
định được lẽ sống đúng đắn và sự tự giác
thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Đối với xã hội,
cái thiện là mảnh đất nuôi dưỡng những
quan hệ lành mạnh, trong sáng làm cho bộ
mặt xã hội văn minh hơn. Ông viết: “Con
người được gọi là sinh vật xã hội, và nơi
người phản ánh cái thiện và cái ác của xã
hội. Do đó, kẻ xấu nuôi dưỡng cái ác bằng
việc làm tồi tệ và để cái thiện bị mòn mỏi
đi. Người tốt thì cố gắng làm điều thiện để
phát triển nó và đẩy lùi điều ác. Trên cơ sở
đó, việc sửa mình đòi hỏi thường xuyên
kiểm tra ý nghĩ của mình vì ý nghĩ sẽ đẻ ra
hành động. Người xưa rất nghiêm túc về
việc này, thậm chí dạy con khi còn là một
bào thai” [2, tr.362].
Trần Trọng Kim tiếp thu quan điểm về
thiện ác của đạo đức phương Đông truyền
thống nhưng điểm mới trong quan điểm của
ông là ở chỗ, ông hiểu điều thiện còn theo
giá trị thực dụng của văn minh phương Tây
(ví như là đem tiền của mình làm nhà tình

thương, nhà bệnh, nhà ở để chữa cho những
người đau yếu, tàn tật, để nuôi người già
yếu, đói khổ, cô độc, là sự cứu trợ mang
tính nhân loại khi có thiên tai, chiến tranh,
dịch bệnh...).
Theo Trần Trọng Kim, đối lập với cái
thiện là cái ác. Đối với mỗi cá nhân, cái ác
đối lập với những quyền lợi chân chính của
con người. Đó là sự vô lương tâm, ích kỉ, ăn
bám, hành động tàn bạo, sự nhẫn tâm, thờ
ơ, vô trách nhiệm trước số phận của người
khác. Những đứa trẻ nào độc ác thì ai cũng
ghét. Một người khi trẻ mà độc ác thì lớn
lên thành ra người bất nhân. Chính sự bất
nhân đó mà gây ra bao tổn hại cho chính
người thân và cho toàn thể xã hội. Ông viết:
“Tàn bạo cũng là một khía cạnh của cái ác,
là một tính xấu, người ta đối với kẻ hèn yếu
hay giống súc vật bao giờ cũng phải nhân từ
thì mới phải đạo” 3, tr.88. Cái ác còn
được thể hiện trong sự lười biếng. Ở đời ai
cũng phải làm, có làm thì mới có ăn. Làm
việc là bổn phận thứ nhất của con người.
Lao động là tiêu chuẩn, là thước đo phẩm
giá của con người. Không lao động, vô
trách nhiệm với bản thân và với cuộc đời
cũng đồng nghĩa với cái ác. Sống thiện là
điều phù hợp với sự tiến bộ văn minh. Sống
thiện làm cho con người có tính người hơn,
đồng thời làm nảy nở ở mỗi con người
những tình cảm đẹp đẽ như vị tha, lòng
nhân ái, thái độ biết quý trọng nhau. Sống
thiện làm cho xã hội ấm áp tình người và
trái tim con người được sưởi ấm trong sự
ấm áp đó. Xã hội càng phát triển thì con
người cần phải sống thiện. Cái thiện luôn
phù hợp với lẽ công bằng, nhân đạo. Xã hội
nào đề cao tính thiện thì những bất công
trong xã hội đó cũng sẽ giảm dần, con người
được sống trong trạng thái tự do, sung sướng
hơn. Con người cần được giáo dục đạo đức từ
33

Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (114) - 2017

khi còn nhỏ, điều đó có ý nghĩa quan trọng
trong việc hình thành nhân cách con người
sau này. Giáo dục đạo đức cho con cái là
trách nhiệm của cha mẹ. Giáo dục đạo đức
trong gia đình tạo cho cho xã hội những
người công dân có đạo đức, sống có trách
nhiệm, biết hy sinh, biết xót thương với
những mảnh đời bất hạnh, biết chia sẻ hạnh
phúc với người khác.
4. Quan điểm của Trần Trọng Kim về
nghĩa vụ đạo đức
Trần Trọng Kim coi nghĩa vụ đạo đức là ý
thức trách nhiệm, là tình cảm tự giác của
con người đối với người khác và đối với xã
hội, được con người ý thức và tự nguyện
tự giác hành động. Nghĩa vụ đạo đức
chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống
đạo đức xã hội. Việc thực hiện nghĩa vụ
đạo đức tốt hay xấu là thước đo tình trạng
tiến bộ hay suy thoái của đời sống đạo đức
trong một xã hội nhất định. Mỗi cá nhân
bắt đầu được giáo dục đạo đức ngay từ bé,
trước hết là giáo dục đạo đức trong gia
đình. Bằng tình yêu thương đằm thắm, sâu
sắc, sự chăm sóc của gia đình, con người
đã cảm thụ và hình thành tình yêu thương
đối với cha mẹ, ông bà, anh chị em và
những người thân. Những người thân trong
gia đình cần có tình yêu thương đối với
nhau. Con phải yêu mến, kính trọng, biết
ơn đối với cha mẹ vì đã có công sinh
trưởng mình; cháu phải ngoan ngoãn, vâng
lời, lễ phép, có hiếu đối với ông bà, phụng
dưỡng ông bà khi ông bà ốm đau bệnh tật,
thờ phụng ông bà khi ông bà qua đời. Ông
viết: “Tổ tiên là các cụ ngày xưa sinh ra
ông bà, cha mẹ mình. Bởi có tổ tiên mới có
ông bà, cha mẹ mới có mình. Vậy thì phải
34

nhớ ơn tổ tiên mới được. Cho nên cứ đến
ngày giỗ, ngày tết thì con cháu đều đến tại
nhà trưởng tộc mà cúng lễ tổ tiên. Cũng có
nhà cứ ngày giỗ cụ nào thì người trưởng
tộc lại kể tính hạnh và công đức của cụ ấy
cho con cháu nghe. Vậy cũng là một cách
tỏ lòng nhớ ơn rất hay” 3, tr.23.
Trần Trọng Kim rất coi trọng tình nghĩa
anh chị em. Ông viết: “Anh em, chị em là
cùng cha mẹ sinh ra, đều là khí huyết của
cha mẹ cả. Anh chị em ở với nhau một
nhà, từ lúc nhỏ dại cho đến lúc khôn lớn,
khi buồn bực, lúc vui vẻ, trò chuyện, chơi
bời không lúc nào không có nhau. Bởi vậy,
không có ai thân ái bằng anh em và chị em
một nhà. Vậy nên anh chị em phải thương
yêu nhau. Ở trong nhà thì nhường nhịn
nhau, có ăn cùng ăn, có chơi cùng chơi,
đừng có ganh tỵ nhau mà sinh ra mất hòa
mục và lại làm phiền lòng cha mẹ” 3,
tr.112. Theo ông, những tình cảm mà gia
đình dành cho mỗi người, những ân tình đó
mỗi ngày thêm sâu sắc, lớn thêm và được
củng cố và hình thành ý thức nghĩa vụ đạo
đức sau này. Cùng với quá trình trưởng
thành, mỗi người còn được hưởng một nền
giáo dục của nhà trường và xã hội, qua đó
mỗi cá nhân tùy thuộc vào đặc điểm và
mức độ hoạt động mà dần dần hoàn thiện ý
thức nghĩa vụ đạo đức của mình dù điều
kiện xã hội có thay đổi thế nào.
Ý thức nghĩa vụ đạo đức mang tính chất
một tình cảm thiêng liêng, cao cả, một nghĩa
vụ tinh thần sâu sắc và tinh túy cấu thành nội
dung cơ bản của bổn phận, của đạo làm
người. Điều này được ông trình bày rất rõ
trong cuốn sách Luân lý giáo khoa thư.
Thông qua cuốn sách đó, ông đã đưa ra các
chuẩn mực đạo đức và quan niệm về các bổn
phận chính của một con người như: bổn
phận đối với gia tộc, bổn phận đối với học

nguon tai.lieu . vn