Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM PGS.TS. ĐẶNG KIM VUI (Chủ biên) TS. LÊ SỸ TRUNG - ThS. NGUYỄN VĂN MẠN - ThS. ĐẶNG THỊ THU HÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA TRONG PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP XÃ HỘI (SÁCH CHUYÊN KHẢO DÙNG CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH LÂM NGHIỆP, QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG VÀ NÔNG LÂM KẾT HỢP) NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI - 2007
  2. LỜI NÓI ĐẦU Từ năm 1991 Ngành Lâm nghiệp Việt Nam đang từng bước đổi mới từ lâm nghiệp truyền thống sang lâm nghiệp xã hội (LNXH). Chấp nhận mọi thành phần kinh tế tham gia vào quản lý và phát triển rừng, đặc biệt là cộng đồng dân cư sống trong và gần rừng. Đây là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước hướng tới mục tiêu tạo ra một diện tích rừng đủ lớn, quản lý bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân địa phương. Tuy nhiên đối với phát triển Lâm nghiệp xã hội còn nhiều bất cập, hạn chê do thiếu kiên thức, kỹ năng, phương pháp tiếp cận, thực hiện chính sách chưa đồng bộ,... Để giúp cho cán bộ làm công tác ở địa phương có tài liệu tham khảo trong phổ cập và phát triển lâm nghiệp, Khoa Lâm nghiệp Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên được sự hỗ trợ của Dự án Hỗ trợ lâm nghiệp xã hội giai đoạn II (1998 -2004) đã triển khai nhiều thử nghiệm về xây dựng mô hình cộng đồng tham gia quản lý bảo vệ rừng, phát triển công nghệ có sự tham gia. Các thử nghiệm này đã đem lại kết quả nhất đinh, được cộng đồng chấp nhận. Để khuyên cáo và nhân rộng kết quảđó, nhóm nghiên cứu xin giới thiệu cuốn sách "Phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát triển lâm nghiệp xã hội". Nội dung cuốn sách gồm 4 phần chính, do các các tác giả biên soạn như sau: PGS.TS. Đặng Kim Vui -Chủ biên, trực tiếp biên soạn Phần 1 : Giới thiệu chung và Phần 3: Phương pháp tiếp cận LNXH. ThS. Nguyễn Văn Mạn biên soạn Phần 2: Giới thiệu về LNXH. TS. Lê Sỹ Trung, ThS. Đặng Thị Thu Hà biên soạn Phần 4 : Kết quả áp dụng phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát triển LNXH cấp thôn bản. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với độc giả và rất mong nhận được sự góp ý để hoàn thiện trong lần xuất bản sau. Nhóm tác giả
  3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADB: .Asian Development Banh (Ngân hàng Phát triển châu Á) AEA: Agro - Ecological Analysis (Phân tích sinh thái nông nghiệp) CSHT: Cơ sở hạ tầng D&D: Design & Diagnostic (Chẩn đoán và Thiết kế) FAO: Food and Agriculture Organization (Tổ chức Nông - Lương thế giới) FSP: Social Forestry Support Programme (Chương trình hỗ trợ lâm nghiệp xã hội) FSR: Farming System Research (Nghiên cứu hệ thống canh tác) GTZ: Gesellschaft fur Technische Zurammentracbeit (Cơ quan phát triển kỹ thuật Đức) HGĐ: Hộ gia đình ICRAF: Intemational Center for Research in Agroforestry (Trung tâm quốc tế nghiên cứu nông lâm kết hợp) KHKT: Khoa học kỹ thuật LN: Lâm nghiệp LNTT: Lâm nghiệp truyền thống LNXH: Lâm nghiệp xã hội NLKH: Nông lâm kết hợp NLN: Nông lâm nghiệp NN & PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn PRA: Participatory Rural Appraisal (Đánh giá nông thôn có sự tham gia) PTD: Participatory Technology Development (Phát triển công nghệ có sự tham gia) PTNT: Phát triển nông thôn QLBVR: Quản lí bảo vệ rừng SOWT: Strength - Opportunity - Weakness - Threats (Điểm mạnh -Điểm yếu - Cơ hội - Thách thức) TB: Trung bình TOT: Training of trainers (Đào tạo tập huấn viên) UNDP: United Nation Development Programme (Chương trình phát triển Liên hợp quốc)
  4. Phần 1 GIỚI THIỆU CHUNG 1.1 GIỚI THIỆU Dự án hỗ trợ lâm nghiệp xã hội (SFSP) giai đoạn II bắt đầu thực hiện từ đầu năm 1998 và kéo dài đến năm 2004, do Chính phủ Thuỵ Sỹ tài trợ nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ giảng dạy, phổ cập trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, tạo kiến thức, nghiên cứu chuyển giao và trao đổi thông tin. Dự án gồm 7 đối tác, đó là Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Trường Đại học Nông Lâm Huế, Trung tâm Khuyến nông khuyến lâm tỉnh Hoà Bình, Viện Nông hoá thổ nhưỡng, Trường Đại học Nông Lâm Thủ Đức và Đại học Tây Nguyên dưới sự hỗ trợ của một văn phòng Trung ương ở Hà Nội. Dự án đã thực hiện nhiều hoạt động ở các địa phương trong đó một hoạt động không thể không kể đến là hoạt động nâng cao năng lực cho cán bộở hiện trường về tổ chức, tập huấn, chuyển giao kỹ từ uất nông lâm nghiệp. Các kết quả vềđào tạo phổ cập, tạo lập nhóm sở thích, phát triển công nghệ có sự tham gia,... trong quản lý phát triển rừng được thực hiện ở hầu hết các vùng miền trong nước, cho các đối tượng dân tộc khác nhau đã được tổng kết đánh giá và đang được sử dụng để phân tích cộng đồng, lập kế hoạch, phát triển công nghệ có sự tham gia, giám sát đánh giá trong phát triển lâm nghiệp xã hội trong những năm tiếp theo. 1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA CUỐN TÀI LIỆU LNXH mới ra đời, về phương pháp luận, nhìn nhận đánh giá còn nhiều quan điểm khác nhau, có người người cho rằng LNXH là một ngành, có người cho rằng LNXH là một phương pháp tiếp cận,... Để có tiếng nói chung thống nhất, mọi người cho rằng cần phải có nhiều trải nghiệm thực tiễn. Dự án Hỗ trợ LNXH do Chính phủ Thuỵ Sỹ tài trợ giai đoạn 2 từ năm 1998 đến năm 2004 đã có nhiều hoạt động nhưđiều tra đánh giá hiện trạng phát triển 1âm nghiệp, đánh giá nhu cầu nguồn lực, phát triển chương trình, tạo kiến thức, trao đổi thông tin nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ lâm nghiệp. Tham gia giai đoạn II của Dự án, Khoa Lâm nghiệp Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tiến hành nhiều hoạt động thử nghiệm trên hiện trường như: Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân, lập kế hoạch có sự tham gia, tạo lập các nhóm sở thích trong phát triển bảo vệ rừng, phát triển công nghệ có sự tham gia. Các hoạt động thử nghiệm này đã phần nào làm sáng tỏ hơn phương pháp phát triển LNXH ở cấp thôn bản. Vì vậy việc biên soạn cuốn tài liệu "Phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát triển lâm nghiệp xã hội" là việc làm cần thiết nhằm chia sẻ kinh nghiệm với độc gia và mong muôn: Giúp cho cán bộ làm công tác phát triển nông thôn cấp cơ sở thay đổi cách tiếp cận trong phát triển lâm nghiệp nói riêng và phát triển nông thôn nói chung; Phổ cập rộng rãi kinh nghiệm lâm nghiệp xã hội, giúp cán bộ lâm nghiệp nâng
  5. cao kiến thức về lâm nghiệp xã hội; Giúp giảng viên có tài liệu hướng dẫn các cộng đồng lập kế hoạch phát triển lâm nghiệp xã hội. 1 3. CẤU TRÚC CỦA CUỐN TÀI LIỆU Cuốn sách "Phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát triển lâm nghiệp xã hội" bao gồm 4 phần chính như sau: Phần 1. Giới thiệu chung Giới thiệu cho độc giả những thông tin về sự cần thiết của cuốn tài liệu, cấu trúc nội dung chính của tài liệu. Phần 2. Giới thiệu về LNXH Phần này giới thiệu cho độc giả về bối cảnh ra đời, khái niệm về lâm nghiệp xã hội, sự khác nhau giữa LNXH và lâm nghiệp truyền thống (LNTT) và một số chính sánh liên quan tới phát triển LNXH. Phần 3. Phương pháp tiếp cận LNXH Đây là phần quan trọng của cuốn tài liệu, giới thiệu về khái niệm tham gia, điều kiện và động lực thúc đẩy sự tham gia, các phương pháp tiếp cận có sự tham gia như: tiếp cận có sự tham gia trong nghiên cứu LNXH, tiếp cận có sự tham gia trong đào tạo LNXH, tiếp cận có sự tham gia trong nông lâm kết hợp (NLKH) và tiếp cận có sự tham gia trong khuyến nông khuyến lâm. Phần 4. Kết quả áp dụng phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong phát triển LNXH cấp thôn bản Phần này cung cấp một số kết quả, phương pháp, bài học kinh nghiệm có được trong quá trình nghiên cứu hiện trường tại các thôn điểm, nhằm giúp bạn đọc tham khảo để từđó sử dụng các kết quảđó một cách linh hoạt ở các địa phương có trình độ dân trí, phong tục tập quán, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau.
  6. Phần II GIỚI THIỆU VỀ LÂM NGHIỆP XÃ HỘI 2.1. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA LNXH 2.1.1. Xu thế phát triển và nguyên nhân ra đời của LNXH Từ những năm 1970 trở lại đây, ở một số nước trong khu vực châu Á đã bắt đầu xuất hiện những xu thế mới trong việc quản lý, sử dụng tài nguyên rừng, đó là: Xu thế phi tập trung hoá trong việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng thông qua việc phân cấp trong quản lý, sử dụng, cho phép nhiều thành phần kinh tế tham gia vào quản lý tài nguyên rừng, vai trò của người dân và cộng đồng địa phương được nâng cao; Xu thế chuyển từ khai thác, lợi dụng gỗ sang sử dụng tổng hợp, đa dạng hoá sản phẩm theo phương thức sử dụng tổng hợp tài nguyên rừng; Xu thế phát triển từ đơn ngành lâm nghiệp sang phát triển đa ngành theo hướng phát triển nông thôn tổng hợp; -Xu thế quốc tế hoá trong việc phối hợp, liên kết các hoạt động lâm nghiệp. Theo Donovan và Trần Đức Viên (1997), LNXH ra đời vào đầu những năm 1970, do các nguyên nhân chủ yếu sau: -Chính phủ các nước bị thất bại trong việc kiểm soát các nguồn tài nguyên rừng Sự kém hiệu quả của lâm nghiệp dựa trên nền tảng công nghiệp rừng và sản phẩm gỗ thuần tuý; -Xu thế phi tập trung hoá và dân chủ hoá trong việc quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên; -Các nhu cầu cơ bản của nông dân về lương thực và lâm sản không được đáp ứng; -Có sự mâu thuẫn về lợi ích giữa nhà nước và cộng đồng cùng với người dân địa phương đối với các sản phẩm của rừng. Tại một số nước, LNXH đã được hình thành và phát triển dựa trên các sáng kiến của cộng đồng như các cộng đồng tự đề ra các quy chế để kiểm soát, sử dụng các nguồn tài nguyên rừng của họ, thành lập hệ thống tự quản và ra quyết định, xây dựng các cơ chếđóng góp và chia sẻ lợi ích. Ở nhiều nước khác, LNXH được hình thành khi Chính phủ các nước nhận thức được vai trò quan trọng của người dân trong việc bảo vệ và phát triển rừng, các nước này trước hết đã xây dựng các chính sách khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động lâm nghiệp, tiếp theo là trao quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ gia đình. Các dự án LNXH chủ yếu tập trung vào việc hỗ trợ và giúp đỡ các hộ gia đình giải quyết các nhu cầu thiết yếu và khuyến khích phát triển nông lâm nghiệp. Sau những thất bại và kém hiệu quả của các chương trình LNXH trong giai đoạn đầu, Chính phủ và các tổ chức quốc tế hỗ trợ các cộng đồng tham gia vào việc tự quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. LNXH ra đời và phát triển để tạo ra sự phát triển có hiệu quả bằng việc giải quyết các vấn đề hưởng lợi tài nguyên rừng, hình thức lâm nghiệp cộng quản giữa Chính phủ và cộng đồng đã xuất hiện và phát triển.
  7. 2.1.2. Các giai đoạn phát triển lâm nghiệp Theo Wiersum (1994), quá trình phát triển lâm nghiệp trên thế giới trải qua các thời kỳ với các cách tiếp cận khác nhau nhưng rất đặc trưng cho quá trình chuyển từ LNTT sang LNXH. Quá trình phát triển lâm nghiệp ở châu Á được tiến triển theo các mốc với các giai đoạn được khái quát trong Bảng 2 . 1 . Bảng 2.1. Quá trình phát triển lâm nghiệp ở châu Á (Nguồn: Đinh Đức Thuận, 2002). Trước 1950 1950 - 1970 1971 - 1990 Từ 1991 đến nay Lâm • Giai truyền trước năm 1950 nghiệp đoạn thống Lâm nghiệp thuộc địa Lâm nghiệp nhà Lâm nghiệp hộ gia đình Lâm nghiệp cộng đồng Lâm nghiệp Đặc trưng của nước Lâmn nàyp là lâm nghiệệp thuộc đcịa và phong kiến. Quyền sở hữu giai đoạ nghiệ tư Lâm nghi p nhà nướ Lâm Mầm mống lâm nghiệp ai ng đrừng thuộc về các nhà tư sản nướcưngoài, các chủ đồn điền. Một phần đất đai đất đ cộ và ông nhân nghiệp t nhân Lâm thuộc về quyền tự quản của các cộng đồnghiệp cạt độồngchủ yếu của lâm nghiệp là khai thác ng. Ho ộng đng vơ vét tài nguyên rừng phục vụ cho "Mẫu Quốc" và giai cấp thống trị. • Giai đoạn từ 1950 trên 1970 Các nước thực hiện quốc hữu hoá rừng và xác định quyền sở hữu, quản lý đất rừng thuộc nhà nước. Lâm nghiệp nhà nước chiếm vị trí chủ đạo. Hoạt động lâm nghiệp chủ yếu vẫn dựa vào khai thác gỗ nhưng tập trung nhiều cho xuất khẩu sang các nước phát triển. Ở giai đoạn này, tài nguyên rừng ở hầu hết các nước bị tàn phá nghiêm trọng, tỷ lệ tàn che giảm sút nhanh chóng. • Giai đoạn từ 1971 đến 1990 Chính phủ huy động nhân dân địa phương vào bảo vệ và phát triển rừng. Một phần rừng và đất ừng được giao cho các hộ gia đình quản lý. Các chương trình LXNH ra đời với mục tiêu trợ giúp cho sự phát triển và thoả mãn các nhu cầu về lâm sản của người dân. Các nước giảm dần lượng khai thác gỗ. Hoạt động lâm nghiệp đã hướng vào khai thác, lợi dụng tổng hợp theo hình thức nông lâm kết hợp, phát triển nhiều loại sản phẩm khác nhau, chuyển từ sản xuất đơn ngành sang sản xuất đa ngành. • Giai đoạn từ 1 991 đến nay Chính phủ các nước tiếp tục phân cấp quản lý rừng theo hướng phi tập trung hoá, gia tăng quyền hạn tự quản cho chính quyền địa phương. Một phần rừng và đất rừng được giao cho các cộng đồng địa phương theo hướng lâm nghiệp cộng đồng. Chính phủ các nước và các nhà tài trợ đầu tư cho các dự án phát triển lâm nghiệp cộng đồng. Xu hướng cộng quản giữa chính phủ và các cộng đồng tăng lên. Nông lâm kết hợp, phát triển nông thôn tổng hợp theo hướng phát triển đa ngành đã trở thành phương thức hoạt động phố biến của ngành lâm nghiệp. Qua các giai đoạn phát triển lâm nghiệp trên, ta thấy bắt đầu từ những năm 1970 có thêm các hình thức quản lý bảo vệ và phát triển rừng mới, đó là lâm nghiệp hộ gia đình và lâm nghiệp cộng đồng. Những năm 1990 xuất hiện thêm hình thức lâm nghiệp cộng quản. Các hình thức quản lý rừng mới này là dấu hiệu xuất hiện và phát triển của LNXH.
  8. 2.1.3. Bối cảnh ra đời của LNXH ở Việt Nam Thuật ngữ LNXH bắt đầu được sử dụng ở Việt Nam vào giữa thập kỷ 80. LNXH dần dần được hình thành và phát triển cùng với quá trình cải cách kinh tế của đất nước. Sự chuyển hướng từ một nền lâm nghiệp lấy quốc doanh làm chính sang một nền lâm nghiệp nhân dân có nhiều thành phần kinh tế tham gia được xuất phát từ các bối cảnh chủ yếu sau: 1) Thực trạng đời sống nông thôn, đặc biệt là nông thôn miền núi đang gặp nhiều khó khăn, sự phụ thuộc của các cộng đồng vào rừng ngày càng tăng đòi hỏi phải có phương thức quản lý rừng thích hợp Hiện tại ở Việt Nam có khoảng 80% dân số sống ở vùng nông thôn, 27 triệu người trong đó hơn 10 triệu người là các đồng bào dân tộc thiểu số sống ở các vùng trung du và miền núi. Mặc dù Chính phủđã có chương trình quốc gia hướng tới xoá đói, giảm nghèo nhưng tỷ lệ hộ gia đình đói nghèo vẫn còn chiếm khá cao. Tỷ lệ này ở các tỉnh vùng cao còn trên dưới 30%. Đa phần các hộ gia đình nghèo phải tập trung vào sản xuất lương thực, chăn nuôi hay làm các ngành nghề phụ khác. Sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng là một trở ngại lớn. Các vùng sâu vùng xa sản xuất kém phát triển, lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém cần nhiều đầu lư hỗ trợ và thời gian mới tiến kịp miền xuôi. Mặc dù nhiều nơi ở trung du và miền núi đã và đang hình thành các vùng chuyên canh sản xuất cây nguyên liệu, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau xanh; đang xuất hiện hàng vạn trang trại nông lâm nghiệp; song nhìn chung sản xuất tự túc, tự cấp vẫn còn nhiều, cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, vẫn nặng về trồng trọt, sản xuất hàng hoá chưa phát triển tại các vùng sâu vùng xa. Sự phụ thuộc vào rừng của các cộng đồng miền núi về lương thực, thực phẩm được sản xuất trên đất rừng, tiền mặt thu được từ bán lâm sản như gỗ, củi đất,... ngày càng tăng dẫn đến khai thác tài nguyên rừng quá mức, nhiều nơi rừng không còn có khả năng tái sinh dẫn đến đồi trọc hoá. Những xung đột trong sử dụng tài nguyên rừng ngày càng nhiều. Lâm nghiệp nhà nước không còn khả năng kiểm soát có hiệu quả việc quản lý tài nguyên rừng. Trong bối cảnh như vậy cần phải có một phương thức quản lý rừng thích hợp, làm sao vừa đáp ứng được lợi ích của người dân địa phương vừa bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Lâm nghiệp xã hội được hình thành, xã hội chấp nhận và ngày càng phát triển.
  9. 2) Ảnh hưởng của những đổi mới trong chính sách lánh tê theo hướng phi tập trung hoá -Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp trong thập kỷ 60 đến đầu thập kỷ 80 Sau cải cách ruộng đất, Đảng và Nhà nước đã phát động phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc. Hình thức sản xuất hợp tác xã ở nông thôn miền Bắc đã phát triển ở đỉnh cao vào giai đoạn từ 1960 đến 1975 khi miền Bắc là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, quan hệ sản xuất hợp tác xã bộc lộ những nhược điểm như việc trả công theo công điểm, phân phối sản phẩm theo định suất,... đã tạo ra phân phối bình quân, không kích thích sản xuất. Do đó, năng suất lao động nông nghiệp ngày càng thấp, thu nhập của nông dân ngày càng giảm đã khiến các hộ nông dân ngày càng ít quan tâm tới làm ăn theo kiểu hợp tác xã. Đây là cơ sở ra đời Chỉ thị 100 nhằm bước đầu cải tiến công tác tổ chức sản xuất trong nông nghiệp trong hợp tác xã theo hướng phi tập trung hoá. -Khoán 100 năm 1981 (Chỉ thị 100) Mục đích của cuộc đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp này là khuyến khích nông dân tăng cường sản xuất để giải quyết vấn đề thiếu lương thực đang trầm trọng ở Việt Nam. Để làm được như vậy, ruộng đất được chia cho cá nhân nông dân trong thời gian hạn định với một phần phương tiện sản xuất. Sản phẩm thu được theo năng suất khoán phải nộp vào hợp tác xã. Hợp tác xã chịu trách nhiệm phân chia sản phẩm. Sản phẩm vượt khoán thuộc quyền sở hữu của nông dân. Hình thức khoán này đã có tác động đến tăng năng suất và sản lượng nông nghiệp. Tuy nhiên những mặt tích cực của hình thức khoán này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Những yêu cầu mở rộng quyền tự chủ và quyết định của nông dân ngày càng tăng và dẫn tới những đổi mới trong quản lý và sản xuất nông nghiệp. -Khoán 10 năm 1988 (Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị) Cơ chế khoán trong sản xuất nông nghiệp theo Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị năm 1988 nhằm tiếp tục tăng trưởng sản xuất nông nghiệp của đất nước. Phần lớn tư liệu sản xuất được giao cho hộ nông dân và họ được chủ động sử dụng cho mục đích sản xuất ảnh hưởng của Nghị quyết 10 được nhận thấy rõ rệt thông qua sản phẩm sản xuất nông nghiệp đã tăng và những thay đổi của các hệ thống sản xuất nông nghiệp. Các hệ thống sản xuất nông nghiệp ngày càng đa dạng và bắt đầu hướng vào sản xuất hàng hoá hoặc sản xuất cho tiêu dùng tuỳ theo từng hộ. -Luật Đất đai Luật Đất đai lần đầu tiên được ban hành vào năm 1988, được sửa đổi và bổ sung vào các năm 1993, 1998, 2004 được coi là một trong những mốc quan trọng cho công cuộc đổi mới quản lý nông nghiệp nhằm đảm bảo một hành lang pháp lý cho việc quản lý, sử dụng tài nguyên đất đai một cách có hiệu quả và bền vững. Luật Đất đai 1993 là cơ sở pháp lý rất quan trọng cho các hộ nông dân tự chủ sử dụng đất với 5 quyền cơ bản khi
  10. nhận đất. Những ảnh hưởng tích cực của Luật Đất đai được thấy rất rõ đối với các cộng đồng miền núi, nơi đất đai và tài nguyên rừng đã và đang được giao cho các hộ gia đình, cộng đồng quản lý, sử dụng lâu dài. Nông dân và cộng đồng được làm chủ thực sự trên các diện tích đất được giao, họ yên tâm đầu tư vào sản xuất, được hưởng thành quả lao động chính đáng và đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước. -Luật Bảo vệ và phát triển rừng, các văn bản dưới luật chủ yếu về lâm nghiệp Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991, sửa đổi năm 2004 là cơ sở quan trọng cho phát triển LNXH tại các vùng nông thôn miền núi. Phân chia 3 loại rừng, quyền giao đất lâm nghiệp, quyền hợp đồng khoán kinh doanh rừng của các hộ nông dân và tổ chức cộng đồng có tư cách pháp nhân đã được luật pháp hoá. Nghị định số 02/CP của Chính phủ năm 1993, Nghị định số 163/CP của Chính phủ năm 1998 và các văn bản liên quan khác đã tạo điều kiện cho nhân dân nhận đất, nhận rừng để góp phần phát triển LNXH ở nước ta. 3) Những hạn chê trong quản lý tài nguyên rừng của lâm nghiệp quốc doanh cần được thay thê bằng các hình thức quản lý phù hợp với thời kỳ mới Ngành lâm nghiệp hiện đang quản lý khoảng 19 triệu ha rừng và đất rừng. Cho đến cuối thập kỷ 80, Nhà nước quản lý lâm nghiệp thông qua một hệ thống các liên hiệp xí nghiệp lâm nghiệp, lâm trường quốc doanh. Hệ thống này đã từng có trên 700 lâm trường quốc doanh với trên 10 vạn lao động là công nhân lâm nghiệp có nhiệm vụ tổ chức sản xuất kinh doanh lâm nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống Kiểm lâm có vai trò quản lý và bảo vệ rừng. Mặc dù vậy những vụ vi phạm rừng ngày càng tăng thông qua các hình thức khai thác lâm sản bất hợp pháp, đất nương làm rẫy. Hệ thống quản lý lâm nghiệp tỏ ra kém hiệu quả như: lâm trường quốc doanh kinh doanh kém hiệu quả, nhiều lâm trường thua lỗ, không có khả năng tái tạo rừng; lực lượng kiểm lâm không đủ sức ngăn chặn các vụ vi phạm rừng. Cuối thập kỷ 80 nhiều quan điểm mới trong quản lý và sử dụng tài nguyên rừng xuất hiện cùng với quá trình cải cách quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Đó là các chương trình giao đất, phát triển kinh tế hộ gia đình, xây dựng các trại rừng, các cộng đồng quản lý lâm nghiệp. LNXH được hình thành trong bối cảnh này vừa theo tính tất yếu, vừa được sự hỗ trợ của xu thế mới. 4) Trào lưu một loại hình lâm nghiệp mới -lâm nghiệp cộng đồng đang xuất hiện trong khu vực Vào cuối thập kỷ 80, các hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế về LNXH được tổ chức tại khu vực có ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam trong quá trình bắt đầu mở cửa". Sự hội nhập là một bối cảnh tết cho phát triển LNXH ở Việt Nam. Các cuộc giao lưu, học hỏi kinh nghiệm với nước ngoài đã thúc đẩy cách nhìn mới về phát triển LNXH. Các chương trình LNXH ở các nước châu Á được coi là những ảnh hưởng tích cực đến phát triển LNXH ở Việt Nam.
  11. 5) Các chương trình hỗ trợ phát triển lãm nghiệp của các tổ chức quốc tê và phi Chính phủđóng góp tích cực vào phát triển LNXH ở Việt Nam Vào đầu thập kỷ 90 nhiều chương trình hỗ trợ phát triển của các tổ chức quốc tế, Chính phủ và phi Chính phủ được thực hiện. Chương trình hợp tác Lâm nghiệp Việt Nam - Thụy Điển, các dự án của các tổ chức quốc tế như FAO, UNDP, GTZ và của các tổ chức phi Chính phủđã áp dụng cách tiếp cận mới trong phát triển lâm nghiệp. Phải khẳng định rằng, Chương trình hợp tác Lâm nghiệp Việt Nam - ThuỵĐiển có vai trò quan trọng đầu tiên về phát triển khái niệm LNXH ở Việt Nam. Những khởi đầu cho cách tiếp cận mới là các chương trình phát triển và cho đến nay các chương trình này luôn là những điểm đi đầu trong phát triển LNXH ở nước ta. Chính phủ Thuỵ S tài trợ Chương trình hỗ trợ Lâm nghiệp xã hội trong giai đoạn 1994 - 2004 nhằm vào 3 mục tiêu quan trọng, đó là: phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động LNXH; tạo kiến thức cho việc đào tạo LNXH; trao đổi thông tin về LNXH. Chương trình này đã và đang giúp cho Việt Nam phát triển giáo dục và đào tạo LNXH một cách toàn diện. 2.2. KHÁI NIỆM VÀ QUAN ĐIẾM VỀ LNXH 2.2.1. Khái niệm về LNXH Giữa thập niên 1970, những chuyển biến quan trọng trong tư tưởng về vai trò của lâm nghiệp trong phát triển nông thôn đã diễn ra, một dấu hiệu đầu tiên của tư tưởng mới này là giới thiệu thuật ngữ LNXH tại ấn Độ vào năm 1970. Trong báo cáo của ủy ban Nông nghiệp quốc gia ấn Độ, người dân nông thôn được khuyến khích tham gia bảo vệ và tái tạo tài nguyên rừng và dược cung cấp lâm sản không mất tiền. Năm 1978 Ngân hàng Thế giới đã xuất bản công trình nghiên cứu về các chính sách lâm nghiệp, báo hiệu chuyển hướng từ nền lâm nghiệp lâm sinh - công nghiệp rừng sang bảo vệ môi trường và đáp ứng nhu cầu địa phương, ủng hộ lâm nghiệp vì nhân dân địa phương và khuyến khích người dân nông thôn tham gia vào lâm nghiệp ở địa phương. Cũng năm 1978, Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc (FAO) bắt đầu chương trình lâm nghiệp mới "Lâm nghiệp vì sự phát triển cộng đồng địa phương" và ấn hành bản tổng quan về vai trò của lâm nghiệp phục vụ phát triển cộng đồng địa phương, trong đó thuật ngữ LNXH đã được nêu ra. LNXH được tiến hành thông qua hoạt động của các nông hộ riêng lẻ hoặc thông qua những hoạt động liên quan đến cộng đồng như một tổng thể (FAO, 1978). Hội nghị Lâm nghiệp lần thứ VIII năm 1978 tổ chức tại Jakarta thừa nhận xu hướng LNXH và được quảng bá rộng rãi, nhanh chóng, mạnh mẽ vì ý nghĩa nhân văn của nó. Từđó thuật ngữ LNXH được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước. Mặc dù vậy cho đến nay khái niệm LNXH vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử, văn hoá, kinh tế - xã hội và ý thức hệ của mỗi dân tộc, nên khái niệm LNXH được dịch ra theo rất nhiều cách khác nhau ở mỗi quốc gia. Điều đó dẫn tới các ý kiến tranh luận để tìm ra sự tách bạch rạch ròi giữa các nhóm thuật ngữ khác
  12. nhau, mà nguyên nhân chỉ là do cách định nghĩa không đồng nhất (Donoran và Fox,1997). Hơn nữa LNXH là một quá trình phát triển liên tục, vì vậy sau hơn 20 năm tồn tại và phát triển, hiện nay vẫn đang còn có nhiều tên gọi và khái niệm khác nhau về LNXH. Theo FAO (1978), LNXH là tất cả những hình thức hoạt động mà trong đó người dân địa phương liên kết chắc chế với hoạt động lâm nghiệp. Những hình thức này rất khác nhau từ việc trồng các đám cây gỗ (Woodlot -nguyên văn riêng Anh) ở những nơi thiếu hụt gỗ và các lâm sản khác cho nhu cầu địa phương đến các hoạt động truyền thống của các cộng đồng miền rừng như trồng cây lấy gỗ để cung cấp gỗ hàng hoá, chế biến lâm sản ở nông thôn. Người ta còn nhấn mạnh LNXH phải là một bộ phận của phát triển nông thôn và còn thừa nhận khái niệm cơ bản mà theo đó mục đích trung tâm của phát triển nông thôn là giúp đỡ người nghèo từ sự cố gắng của chính họ. Lâm nghiệp hướng tới phục vụ cho phát triển cộng đồng, do vậy, phải là một nền lâm nghiệp xuất phát từ người dân (FAO, 1978). Cho nên ngay từ buổi đầu, LNXH được thiết lập trên sự tham gia của người dân và hướng về nhu cầu của nông thôn, đặc biệt những người nghèo nhất trong số họ. Wiersum (1994) nhận xét rằng, các quan niệm về LNXH có các ý nghĩa khác nhau là do nguồn gốc của sự phát triển quan niệm này. Báo cáo của ấn Độ nêu bật vai trò của LNXH như là sựđóng góp để cải thiện quản lý rừng. Trong khi tường trình của FAO chú ý hơn đến hoàn cảnh phát triển nông thôn của LNXH cũng nhưđóng góp của nó đế cải thiện việc sử dụng đất. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới lại nhấn mạnh đến sự cần thiết phải quan tâm hơn nữa đến sự phát triển LNXH và từ sự phát triển này ảnh hưởng đến cộng đồng tại chỗ. Sau những thảo luận về khái niệm và giải thích thuật ngữ LNXH, các khái niệm về LNXH của FAO (1978); Srivastava và Phút (1979); Lantica (1982); Hoskins (1990); Wiersum (1994); Si mon (1994)... về cơ bản là đồng nhất đó là người dân nông thôn đảm đương một phần của trách nhiệm quản lý tài nguyên rừng, đáp ứng nhu cầu liên quan đến rừng của các nhóm dân cư thiệt thòi về quyền lợi thông qua những cố gắng của chính họ. Thật sự khó đưa ra một khái niệm đầy đủ và được mọi nơi chấp nhận, nhưng với mục tiêu của LNXH là phát triển nông thôn và đặt nặng sự tham gia của người dân thì có thể hiểu một cách tổng quát LNXH là sự tham gia của cộng đồng nông thôn trong quản lý tài nguyên rừng và phục vụ cho phát triển nông thôn. Các hoạt động LNXH thích hợp với mọi hình thức sở hữu đất đai, LNXH cũng loại trừ bất cứ hình thức lâm nghiệp nào mà chỉ kinh doanh bằng hình thức thuê mướn và trả công. Theo Dõi Gilmour (1997) một số tên thường được gọi hiện nay là: Lâm nghiệp cộng đồng, Lâm nghiệp cộng quản, Lâm nghiệp có sự tham gia, LNXH. Sự khác biệt này dựa trên nhiều góc độ xã hội khác nhau, quan trọng là tổ chức nào chịu trách nhiệm chủ yếu trong quản lý tài nguyên rừng, trách nhiệm quản lý rừng của cộng đồng, các nhóm của cộng đồng, nông hộ, trình độ kiểm soát, sử dụng hoặc sở hữu hiện nay của nhà quản lý rừng. Những ý nghĩa này ít nhiều đề cập đến mức độ tham gia.
  13. Từ khái niệm trên đây về LNXH, có thể nhận thấy rằng: LNXH là các hoạt động liên quan đến việc huy động mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội tham gia vào bảo vệ tài nguyên rừng cụ thể như bảo đảm được sự vững bền của sản xuất lâm nghiệp, gia tăng năng suất rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi chức năng của các lưu vực đồng thời phải đem lại công bằng xã hội,... Phát triển con người là vấn đề trung tâm của LNXH. Muốn bảo vệ được tài nguyên rừng có hiệu quả lâu dài, trước hết phải bảo vệ con người. Do vậy vấn đề quan tâm đầu tiên của LNXH là phải tìm ra các giải pháp nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống hàng ngày của người dân từ nguồn tài nguyên rừng. Giải quyết bằng được các nhu cầu này sẽ gắn lợi ích sống còn của nhân dân với tài nguyên rừng. Việc gắn lợi ích của người dân với tài nguyên rừng sẽ là động lực kích thích người dân tham gia vào bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Nâng cao đời sống của nhân dân là mục tiêu của LNXH và người dân chính là chủ thể của mọi hoạt động trong LNXH. Thông qua các hoạt động của LNXH không những chỉ bảo vệ, phát triển và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên rừng mà còn bảo vệ được môi trường sinh thái, tạo ra công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người nghèo, tạo ra công bằng xã hội, giảm bớt sự phân hoá giữa người giàu và người nghèo. Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển LNXH, ta thấy sự xuất hiện quan điểm LNXH trong thập niên 70 xuất phát từ hai nhân tố cơ bản là "Khủng hoảng năng lượng của người nghèo" và "Sa mạc hoá", người ta tập trung xây dựng những khoảnh rừng làng xã như là sở hữu công cộng cần được quản lý vì lợi ích của cộng đồng địa phương. Cách tiếp cận này không đem lại thành công như mong muốn vì sự tranh chấp quyền lợi của nhân dân địa phương và thiếu sự công bằng trong sự tham gia (FAO, 1985). Các nhà lập kế hoạch chú ý nhiều hơn đến trồng cây do các nông hộ thực hiện. Cách tiếp cận này cho những hậu quả không như mong muốn về mặt xã hội, người dân nghèo không có đất thua thiệt trong tiếp cận tài nguyên như thời gian trước. Cuối thập niên 80 người ta thừa nhận tiếp cận phục hồi rừng cần phải được mở rộng bằng việc chú ý nhiều hơn nữa đến các vấn đề quản lý rừng. Do vậy bên cạnh tham gia vào tạo rừng mới, người dân còn tham gia vào quản lý tài nguyên rừng. 2.2.2. Quan điểm về LNXH Trong quá trình phát triển, chiến lược của LNXH rất đa dạng, mỗi một chiến lược có những đặc điểm, thế mạnh và giới hạn cụ thể với các mục tiêu quản lý rừng và phát triển nông thôn khác nhau. Do vậy, có nhiều cách nhìn nhận về LNXH tùy bối cảnh kinh tế xã hội có những quan điểm khác nhau về LNXH, đó là: một phương thức tiếp cận có sự tham gia; một lĩnh vực quản lý tài nguyên; một phương thức quản lý tài nguyên.
  14. 2.2.2.1. LNXH được coi như là một phương thức tiếp cận có sự tham gia Trong LNTT việc quản lý tài nguyên rừng chủ yếu là do lực lượng nhà nước đảm nhận với mục tiêu là theo đuổi lợi ích kinh tế của nhà nước. Với mục tiêu đó việc lập kế hoạch là theo kiểu từ trên xuống, nghĩa là đưa ra một số chỉ tiêu kế hoạch cần đạt được cho từng bộ phận, tiếp theo đó là bằng mọi cách để thực hiện bằng được các chỉ tiêu đó. Với việc lập kế hoạch như vậy các hoạt động lâm nghiệp chủ yếu chú trọng tới lợi ích kinh tế mà ít quan tâm tới môi trường và không hoặc rất ít chú ý tới nhu cầu và mối quan tâm của người dân. Người dân địa phương lúc này chỉ là Người ngoài cuộc, họ hầu như không tham gia hoặc tham gia một cách thụ động vào từng công đoạn của việc quản lý bảo vệ và phát triển rừng với tư cách là người làm thuê. Tiêu điểm chủ yếu của LNXH là sự tham gia của các chủ thể địa phương vào việc quản lý tài nguyên rừng. Các chủ thểđó bao gồm: người dân địa phương.(ởđây bao gồm các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng và các tổ chức địa phương) và các tổ chức phát triển khác Mục tiêu của LNXH là quản lý tài nguyên rừng để gia tăng năng suất rừng, sản xuất bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường, đồng thời để nâng cao đời sống của người dân địa phương và phát triển cộng đồng địa phương, đem lại công bằng xã hội. Sự tham gia của người dân địa phương được thể hiện rõ ràng nhất thông qua quyết định của họ trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược LNXH, cụ thể là: Tiếp cận có sự tham gia được thể hiện thông qua các hoạt động được làm bởi nhân dân địa phương hoặc từ cá nhân, nông hộ và các tổ chức địa phương. Trong các hoạt động này vai trò của người dân địa phương được đưa lên hàng đầu, người dân là chủ thể của tất cả các hoạt động. Vai trò của các nhà lâm nghiệp chỉ là hỗ trợ thúc đẩy người dân để họ tự đưa được quyết định của chính họ. Có nghĩa là người dân địa phương tham gia một cách chủ động vào tất cả các hoạt động liên quan đến phát triển lâm nghiệp từ xác định vấn đề, quyết định chiến lược, quản lý thực hiện, giám sát, đánh giá. Thông qua đó vai trò của người dân ngày càng được đề cao, nhu cầu cuộc sống hàng ngày của họ dần dần được đáp ứng, người dân ngày càng thấy rõ lợi ích của rừng đối với cuộc sống hàng ngày của họ. Do đó người dân sẽ tham gia tích cực hơn vào quản lý bảo vệ và phát triển rừng, khi tặng được bảo vệ và phát triển thì môi trường sinh thái sẽ được cải thiện, đời sống của người dân sẽ ngày càng được cải thiện và nâng cao. -Tiếp cận có sự tham gia sẽ được sử dụng xuyên suất tất cả các giai đoạn của một chương trình hay dự án, bao gồm: nhận biết vấn đề, lựa chọn và quyết định chiến lược, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, giám sát và đánh giá. Như trong chính sách giao đất khoán rừng, các điều quy định mang ý nghĩa tiếp cận mới được thể hiện: việc nhận đất dựa trên yêu cầu và tính tự nguyện của người dân, việc giao đất của các cơ quan chức năng dựa trên cơ sở thông qua các cuộc họp với chính quyền và họp dân, trong quá trình giao đất đều có sự tham gia của người dân,... Trước khi nhận đất người dân đã chấp nhận sử dụng đúng mục tiêu theo hợp đồng, sau khi nhận đất họ có quyền quyết định toàn bộ những hoạt động sản xuất trên đất được giao.
  15. -Tiếp cận có tham gia được thể hiện qua những hoạt động của những nhà hoạt động lâm nghiệp chuyên nghiệp hoặc các tổ chức phát triển nhằm khuyến khích những hoạt động quản lý rừng được đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân địa phương, hoặc làm thích ứng việc quản lý ở các khu rừng của nhà nước nhằm trực tiếp cải thiện phúc lợi của các cộng đồng nông thôn địa phương. Như vậy, LNXH được xem như là chiến lược của các nhà lâm nghiệp chuyên nghiệp, các tổ chức phát triển với mục đích khuyến khích sự tham gia tích cực của nhân dân địa phương. Đa dạng hoá quản lý rừng như là phương tiện cải thiện điều kiện sống của cộng đồng, cũng có thể được xem như hoạt động quản lý rừng do nhân dân thực hiện như là một phần trong sinh kế của họ. 2.2.2.2. LNXH được coi như một lĩnh vực quản lý tài nguyên rừng LNXH được coi như là một lĩnh vực quản lý tài nguyên có nghĩa là LNXH là một lĩnh vực chuyên môn tách biệt nhằm mục đích giải quyết các vấn đề mà lâm nghiệp truyền thống không thể tháo gỡ được. Đó là, thứ nhất, nạn phá rừng ngày càng gia tăng ở tất các nước đặc biệt là các nước đang phát triển; thứ hai, tài nguyên rừng bị suy thoái có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái trên toàn cầu (hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm nước và không khí,...); thứ ba, đời sống của người dân sống ở miền núi và trung du không những không được cải thiện mà ngày càng giảm sút; thứ tư, sự phân hoá giữa người giàu và người nghèo ngày càng cao, tỷ lệ người nghèo sống ở vùng núi và trung du ngày càng nhiều; thứ năm, không huy động được mọi lực lượng tham gia vào việc quản lý bảo vệ và phát triển rừng, đặt biệt là lực lượng lao động nông thôn miền núi. Khi LNXH được coi như là một lĩnh vực quản lý tài nguyên có nghĩa là nó có mục tiêu riêng, đối tượng tác động riêng, phương thức quản lý riêng và nó tồn tại một cách độc lập tương đối trong không gian và thời gian. Theo quan điểm này thì LNXH tồn tại song song với Lâm nghiệp thương mại, Lâm nghiệp bảo tồn, thậm chí song song với Lâm nghiệp và Nông nghiệp. Mục tiêu của LNXH là nâng cao đời sống của người dân địa phương, tăng cường và phát triển năng lực cộng đồng dựa trên nguồn tài nguyên của địa phương, bằng cách tạo điều kiện cho người dân địa phương, đặc biệt là người nghèo tham gia vào quản lý bảo vệ và phát triển rừng, nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của họ như chất đất, lương thực thực phẩm, thức ăn gia súc, thuốc chữa bệnh, cảnh quan du lịch,... Do vậy mọi hoạt động liên quán đến LNXH đều quan tâm đến nhu cầu và nguyện vọng của người dân, gắn lợi ích của người dân với tài nguyên rừng. Khi nhu cầu và nguyện vọng của người dân được đáp ứng thì người dân sẽ tham gia chủ động và tích cực hơn vào quản lý bảo vệ và phát triển rừng, thông qua đó tài nguyên rừng sẽ được quản lý bảo vệ và phát triển bền vững lâu dài. Đối tượng của LNXH là người dân và cộng đồng địa phương, do vậy LNXH không những nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương mà còn nâng cao, phát triển năng lực và vai trò của người dân.
  16. 2.2.2.3. LNXH là phương thức quản lý tài nguyên rừng Vì LNXH có mục tiêu và đối tượng khác với LNTT, nên LNXH có phương thức quản lý cũng khác với phương thức quản lý của Lâm nghiệp truyền thống. Ngoài ra LNXH còn kết hợp việc quản lý của nhà nước với các tổ chức, người dân và cộng đồng địa phương. LNXH quản lý rừng dựa vào đặc trưng của những vùng sinh thái nhân văn khác nhau, kết hợp giữa kiến thức hàn lâm và kiến thức của người dân địa phương (kiến thức bản địa) và nền văn hoá của các dân tộc khác nhau. Ví dụ: Phát triển LNXH vùng núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên và đồng bằng Nam bộ không thể giống nhau vì các vùng này có những đặc điểm sinh thái và nhân văn khác nhau (các yếu tố tự nhiên và xã hội khác nhau, nền văn hóa khác nhau, tập quán sử dụng tài nguyên khác nhau,...). Ngay trong một vùng sinh thái (hay tiểu vùng) đối với các đối tượng rừng khác nhau có mục đích sử dụng khác nhau thì các mục tiêu của hoạt động LNXH cũng khác nhau: Đối với rừng đặc dụng, hoạt động chủ yếu là huy động người dân tham gia bảo vệ rừng bằng cách nâng cao nhận thức, chú trọng nhiều hơn các hoạt động giáo dục và tuyên truyền. Đối với từng sản xuất, các hoạt động liên quan đến việc bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh và làm giàu rừng được quan tâm nhiều hơn, các hoạt động này thường chú ý đến việc chuyển giao kỹ thuật, phát triển công nghệ có sự tham gia,... người dân được hưởng một số quyền lợi trực tiếp từ rừng. LNXH được coi như là một trong những phương thức quản lý tài nguyên có nghĩa là LNXH là một phương thức quản lý tài nguyên rừng mới và dần dần thay thế cho phương thức quản lý cũđó là LNTT. LNXH là một phương thức quản lý tài nguyên rừng với hình thức tiếp cận mới trong đó sự tham gia của người dân là yếu tố cơ bản nhất đó là tiếp cận lấy người dân làm trung tâm. LNTT trước đây theo đuổi mục đích kinh tế vì vậy sản phẩm chính của lâm nghiệp là gỗ, các sản phẩm khác ít được quan tâm hoặc không được quan tâm. Việc quản lý tài nguyên rừng chỉ do một lực lượng duy nhất quản lý đó là lâm nghiệp nhà nước, kỹ thuật áp dụng chủ yếu là các biện pháp kỹ thuật lâm sinh, các qui chế trồng, chăm sóc và khai thác rừng làm sao thu được các sản phẩm gỗ nhiều nhất. Khác với LNTT, mục tiêu LNXH là đáp ứng nhu cầu của người dân và cộng đồng, do vậy sản phẩm của LNXH không phải chỉ là gỗ đơn thuần mà LNXH còn trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm khác dựa trên tiềm năng, năng lực và nhu cầu của người dân địa phương. Các sản phẩm đó bao gồm chất đất, lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, nước, cảnh quan du lịch. Vì LNXH đa dạng hoá sản phẩm nên kỹ thuật áp dụng chủ yếu là nông lâm kết hợp với nhiều ngành tham gia. Ngoài ra, LNXH còn quản lý nguồn tài nguyên rừng dựa trên từng vùng sinh thái, nhân văn, duy trì, bảo tồn và phát triển các tập tục truyền thống và bản sắc của các dân tộc, nên khi áp dụng tiến bộ khoa học vào các hoạt
  17. động người ta thường quan tâm đến phong tục tập quán, kết hợp với kiến thức và kinh nghiệm của người dân địa phương. 2.2.3. Phân biệt LNXH và LNTT Mersserschmidt D.A. (1992) nhận xét, cả LNXH và LNTT đều có tính chất xã hội. Như nhà lâm nghiệp chuyên nghiệp nổi tiếng J. Westoby (1987) chỉ rõ, lâm nghiệp không phải vì cây mà vì người và dẫu cho vì cây đi nữa thì cũng chỉ vì cây đáp ứng các nhu cầu của con người. Rừng cung cấp gỗ và lâm sản ngoài gỗđáp ứng phần lớn nhu cầu gia đình ở nông thôn miền núi thuộc các nước đang phát triển, kể cả thức ăn bổ sung cho gia súc. Ở cấp độ địa phương, khai thác gỗ tạo nên công ăn việc làm và thu nhập, chế biến lâm sản tạo ra việc làm. Điều đó có tác dụng ổn định đối với các cộng đồng nông thôn, tránh cho họ khỏi phải ly hương để tìm việc làm. Nguồn thu nhập từ bán củi, than,' các lâm sản ngoài gỗ (tinh dầu, nấm, mây, dược liệu,...) có ý nghĩa quan trọng đối với người nghèo. Rừng góp phần vào việc bảo vệ các cộng đồng nông thôn khỏi thiên tai như gió, bão, lũ lụt, hạn hán. Đất rừng là nguồn dự trữ cho mở rộng sản xuất nông nghiệp khi dân số gia tăng. Có thể nhận thấy, nhà ở với những kiến trúc đặc trưng, độc đáo ở miền núi như là dấu ấn văn hóa của rừng đối với các cộng đồng nông thôn. Ở những xã hội còn sơ khai rừng gắn với tín ngưỡng, với lòng tin của con người vào những lực lượng huyền bí, rừng còn là nhân tố cơ bản về môi trường và văn hoá của họ. Tuy nhiên, không phải lâm nghiệp nào cũng là LNXH, làm rõ các sự khác biệt giữa các loại lâm nghiệp là bước đầu nhận thức về LNXH. Các công nghệ của LNTT hướng đến việc giải quyết những tương tác giữa rừng và môi trường để đạt những mục tiêu kinh tế (sản xuất gỗ), có nhấn mạnh đến yêu cầu sinh thái (bảo vệ môi trường). Quan điểm của L IT cho rằng chức năng chủ yếu của lâm nghiệp là sản xi.ất gỗ. Đặc trưng của LNTT là độc canh, sản xuất gỗ với quy cách nghiêm ngặt, quá trình sản xuất dài, đầu tư ban đầu cao, thường do nhà nước hay công ty đầu tư với quy mô lớn, do các nhà lâm nghiệp chuyên nghiệp điều hành với cách quản lý tập trung và theo quy định của luật pháp, hoạt động trên diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng rộng lớn. Trong LNTT việc qui định những chỉ tiêu khai thác gỗ hàng hoá từ rừng mà không quan tâm đến quyền lợi của các cộng đồng nông thôn sống trong rừng và gần rùng. LNTT tiến hành quản lý rừng.bằng các chiến lược, chương trình của nhà nước vạch ra mà không có phần đóng góp của dân. LNTT sử dụng dân như là người làm công ăn lương. LNXH lại quan tâm đến mối quan hệ giữa con người, rừng và cây gỗ. Do vậy những hoạt động của nó đều có liên quan với những mục tiêu xã hội, quản lý rừng sao cho có lợi trực tiếp cho các cộng đồng nông thôn.
  18. Nhiều nhà khoa học trong đó có Wiersum ( 1 994) đã đưa ra những đặc trưng phân biệt LNXH và LNTT. Người ta không thể không nhấn mạnh đến một đặc trưng cơ bản nhất là sự tham gia của người dân trong các hoạt động LNXH. Thật không thể tưởng tượng được, thực hiện LNXH mà lại thiếu sự tham gia của người dân địa phương trong những quyết định đầy đủ về quản lý tài nguyên rừng và cây gỗ. Trong LNXH, sự chuyển quyền quản lý rừng và cây gỗ cho cộng đồng nông thôn địa phương là một biểu hiện của phân quyền, huy động mọi nguồn lực của xã hội tham gia vào việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng trên cơ sở luật pháp và chính sách đồng thời thông qua đó nhàm cải thiện các nhu cầu sống của người dân, đặc biệt là người nghèo ở nông thôn. Đây cũng là một cách thức làm giảm những tác động tiêu cực của con người đến tài nguyên rừng. Những đặc trưng chủ yếu phân biệt giữa LNXH và LNTr ở các nước nhiệt đới được Wiersum (1994) đưa ra dựa trên vai trò của người quản lý, những đặc trưng kỹ thuật và tổ chức được trình bày trong Bảng 2.2. Bảng 2.2. Những đặc trưng chủ yếu của LNXH và LNTT ở các nước nhiệt đới
  19. (Nguồn: Wiersum, 1994) 2.3. HỆ THỐNG LUẬT PHÁP VÀ CHÍNH SÁCH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN LNXH 2.3.1. Các luật và chính sách liên quan đến quản lý và phát triển TNR 2.3.1.1. Luật Đất đai Luật Đất đai được Quốc hội thông qua năm 1988, sửa đổi và bổ sung vào các năm 1993, 1998 và 2004. Nội dung cơ bản của Luật Đất đai liên quan đến tiến trình thực hiện LNXH như sau: Điều 5. Sở hữu đất đai -Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau: + Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; + Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất; + Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; + Định giá đất. -Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau: Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; + Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại. -Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức
  20. giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Điều 9. Người sử dụng đất Người sử dụng đất quy định trong Luật này bao gồm: -Các tổ chức trong nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị : xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức sự nghiệp công, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của Chính phủ được Nhà nước giao đất cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; tổ chức kinh tế nhận chuyển quyền sử dụng đất; Hộ gia đình, cá nhân trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất; Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phẩm, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; -Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc giao đất; -Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên Chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên Chính phủ được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất; -Người Việt Nam định cưở nước ngoài về đầu tư, hoạt động văn hoá, hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở; -Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo phép luật về đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Điều 10. Những bảo đảm cho người sử dụng đất -Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối có đất để sản xuất; đồng thời có chính sách ưu đãi đầu tưđào tạo nghề, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho lao động ở nông
nguon tai.lieu . vn