Xem mẫu

  1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC Chương này sẽ trình bày các bước tiến hành nghiên cứu xã hội học, sau đó giới thiệu một số phương pháp nghiên cứu cơ bản có thể giúp những người mới nghiên cứu có thể tiến hành được một nghiên cứu xã hội học như phỏng vấn sâu, phỏng bằng bảng hỏi, phỏng vấn nhóm và phát vấn bằng bảng hỏi. Chương này kết thúc bằng việc giới thiệu cách thức xây dựng bảng hỏi trong nghiên cứu xã hội học. 9.1. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC Trong nghiên cứu khoa học nói chung và xã hội học nói riêng, trong quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu đều phải trải qua các giai đoạn nhất định để đạt đến đích của nghiên cứu. Đối với nghiên cứu xã hội học, các bước tiến hành được xác định như sau: 9.1.1. Chuẩn bị a. Xác định vấn đề nghiên cứu
  2. Với bất cứ một công trình nghiên cứu nào, để bắt đầu, người nhiên cứu phải xác định được vấn đề nghiên cứu. Trong xã hội học, vấn đề nghiên cứu là các câu hỏi của người nghiên cứu về các hiện tượng, quá trình xã hội. Nói cách khác, thông qua vấn đề nghiên cứu người ta sẽ biết được khi nghiên cứu kết thúc nó sẽ trả lời cho câu hỏi nào.Cụ thể hơn, vấn đề nghiên cứu cho biết người nghiên cứu sẽ nghiên cứu cái gì. Vấn đề nghiên cứu không phải là lĩnh vực hay chủ đề nghiên cứu. Việc xác định vấn đề nghiên cứu một cách rõ ràng có vai trò rất quan trọng trong quá trình thực hiện nghiên cứu, nó quyết định sự thành công của nghiên cứu xã hội học. Theo Quyết & Thanh (2001), vấn đề nghiên cứu được sử dụng như kim chỉ nam của nghiên cứu. Xác định được vấn đề nghiên cứu giúp cho người nghiên cứu định hướng được nghiên cứu. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu nó cũng có thể được điều chỉnh cho phù hợp với nội dung nghiên cứu. Vấn đề nghiê cứu có thể được xác định dựa vào các yếu tố như sau: o Các tranh luận khoa học: là những tranh cãi của các nhà khoa học về những chủ đề nghiên cứu nào đó. Trên thực tế, đối với mỗi chủ để nghiên cứu, các nhà xã hội học có những cách tiếp cận và lập luận khác nhau. Họ có thể đồng ý hay không đồng ý lẫn nhau. Đây là một căn cứ tốt để người nghiên cứu có thể bày tỏ lập luận của mình về chủ đề nghiên cứu đó, có thể ủng hộ, bác bỏ hay đưa ra lập luận hoặc tranh cãi hoàn toàn mới tùy thuộc vào hướng nghiên cứu của người nghiên cứu
  3. o Những lỗ hổng của những nghiên cứu trước đó. Với mỗi chủ đề nghiên cứu, thông thường, có rất nhiều khía cạnh khác nhau. Mặc dù, có thể chủ đề nghiên cứu không có gì mới nhưng chưa chắc đã bao quan hết được các khía cạnh. Việc người nghiên cứu nào đó tìm ra được những khía cạnh hay những mặt mà các nhà nghiên cứu trước đó chưa nghiên cứu sẽ là cơ hội tốt để phát triển nghiên cứu của mình. o Những thành công và thất bại từ các hiện tượng, vấn đề xã hội trong thực tiễn: theo cách này, người nghiên cứu có thể quan sát các hiện tượng thực tiễn trong xã hội, thông qua đó đặt câu hỏi cho các hiện tượng. Ví dụ, trong cùng một địa bàn, có một nhóm dân cư giải quyết tốt vấn đề tệ nạn xã hội, một nhóm khác thì thất bại. Khi đó người nghiên cứu có thể xác định vấn đề nghiên cứu của mình bằng việc đặt câu hỏi tại sao. Như vậy, để xác định được vấn đề nghiên cứu, người nghiên cứu có thể dựa vào quan sát, kinh nghiệm cá nhân hoặc dựa vào những nguồn tài liệu đã xuất bản (sách, báo, báo cáo dự án...). Tuy nhiên, trong quá trình xác định vấn đề nghiên cứu, để tăng tính thuyết phục người nghiên cứu cần trả lời câu hỏi tại sao vấn đề đó là vấn đề nghiên cứu; tại sao vấn đề nghiên cứu đó cần được nghiên cứu chứ không phải nghiên cứu vấn đề khác. Bên cạnh đó, người nghiên cứu cũng cần xem xét tính khả thi của vấn đề nghiên cứu trước khi thực hiện nghiên cứu. Nó phải hội tụ đủ các điều kiện khách quan và chủ quan cho việc thực hiện nghiên cứu, từ kinh phí nghiên cứu đến đối tượng nghiên cứu và cách thức thu thập thông tin (Baker, 1995)
  4. b. Xác định mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu là những nội dung nghiên cứu cần đạt được, là cái đích mà nghiên cứu cần làm rõ. Mục tiêu nghiên cứu, về cơ bản, khác với mục đích nghiên cứu. Cụ thể, nếu mục tiêu nghiên cứu trả lời câu hỏi cần phải làm cái gì hay nghiên cứu cái gì để làm rõ vấn đề nghiên cứu thì mục đích nghiên cứu trả lời câu hỏi nghiên cứu để làm gì. Việc xác định mục tiêu nghiên cứu cần căn cứ vào các vấn đề do chính yêu cầu của công trình nghiên cứu đặt ra. Nói cách khác, nó phụ thuộc vào những vấn đề mà tác giả nghiên cứu muốn làm sáng tỏ. Thông thường mục tiêu nghiên cứu bao gồm mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể. Mục tiêu tổng quát là mục tiêu hướng đến giải quyết vấn đề trung tâm xuyên suốt đề tài. Các mục tiêu cụ thể được phát triển dựa trên mục tiêu tổng quát đó. Việc giải quyết các mục tiêu cụ thể sẽ giúp làm rõ mục tiêu tổng quát. Như vậy, mục tiêu cụ thể là tập hợp các công việc cụ thể được coi như thành phần cấu thành nên mục tiêu tổng quát. Trong một đề tài nghiên cứu, số lượng mục tiêu cụ thể tùy thuộc vào nội dung cũng như tính phức tạp của công trình nghiên cứu đó. c. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết nghiên cứu là những kết luận hay giả định của người nghiên cứu đối với vấn đề nghiên cứu nhằm xem xét, phân tích, kiểm chứng nó trong toàn bộ quá
  5. trình nghiên cứu. Nó là những dự đoán của người nghiên cứu về những cái mà họ hy vọng và chờ đợi từ nghiên cứu. Như vậy, trong một nghiên cứu khoa học, bên cạnh mục tiêu nghiên cứu, giải thuyết nghiên cứu có vài trò định hướng nghiên cứu. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu được coi như là một bước nhận thức sơ bộ về vấn đề nghiên cứu. Khi tiến hành xây dựng giả thuyết nghiên cứu, cần chú ý đến tính khả thi của giả thuyết (có thể kiểm định được hay không). Một nghiên cứu có thể có nhiều giả thuyết nghiên cứu, tuy nhiên, mỗi giả thuyết nghiên cứu thường gắn liền với một mục tiêu nghiên cứu cụ thể. Giả thuyết có thể đi ngược lại những kết luận của các nghiên cứu trước, song, trường hợp này được sử dụng khi người nghiên cứu có đủ bằng chứng để chứng minh. Giả thuyết nghiên cứu phải được khẳng định lại trong kết luận của đề tài nghiên cứu. Sự phù hợp hay không phù hợp của giả thuyết sau khi được kết luận/kiểm chứng đều có ý nghĩa. Căn cứ vào nội dung diễn đạt trong giả thuyết, người ta chia giả thuyết nghiên cứu thành ba loại: Giả thuyết mô tả, giả thuyết giải thích và giả thuyết xu hướng.Giả thuyết mô tả chỉ ra những nét đặc tr ưng, thực trạng của đối tượng nghiên cứu. Giả thuyết mô tả không cho biết nguyên nhân của các sự kiện, tình huống. Giả thuyết giải thích: chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng xã hội. Giả thuyết xu hướng: Chỉ ra xu hướng sẽ diễn ra trong tương lai của vấn đề nghiên cứu) d. Xác định khung khung phân tích
  6. Khung phân tích là hệ thống các khái niệm liên quan đễn lĩnh vực nghiên cứu (Ngọ et al., 1997). Khung phân tích có thể xuất hiện với tên gọi khác như: khung lý thuyết; mô hình lí luận; mô hình lý thuyết. Xác định khung phân tích là điều không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Khung phân tích cho biết vấn đề nghiên cứu sẽ được tiếp cận theo cách nào hay được phân tích như thế nào trong quá trình nghiên cứu. Khung phân tích có thể dựa vào một hay một vài mô hình lý thuyết hiện có hoặc được người nghiên cứu xây dựng trong quá trình nghiên cứu. Ví dụ khi nghiên cứu về sinh kế của hộ gia đình, người nghiên cứu có thể nhìn dưới dạng năm nguồn vốn: vật chất, tài chính, tự nhiên, con người và xã hội. e. Thao tác hóa khái niệm và xây dựng các chỉ báo Trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu xã hội học nói riêng người nghiên cứu luôn phải sử dụng các những khái niệm để mô tả, đánh giá hay để gi ải thích những tình huống, những trường hợp riêng biệt nào đó. Những khái niệm này đôi khi mang hàm ý quá rộng hoặc có thể làm cho những người tham gia hiểu theo các cách khác nhau. Quá trình biến các khái niệm trừu tượng, phức tạp thành các khái niệm đơn giản hơn được gọi là thao tác hóa khái niệm. Kèm theo quá trình thao tác hóa khái niệm là việc xây dựng các chỉ báo. Chỉ báo là đặc tính của đối tượng nghiên cứu cho phép người nghiên cứu có thể quan sát, đo lường (Quyết & Thanh, 2001). Ví dụ khi nghiên cứu về địa vị xã hội các chỉ
  7. báo có thể là vị trí trong hệ thống tổ chức quản lý, thu nhập. Đối với mỗi khái niệm có thể có nhiều chỉ báo ở các cấp độ khác nhau. Tuy nhi ên, cấp độ chỉ báo cuối cùng là chỉ báo thực nghiệm. Trên thực tế, trong các nghiên cứu xã hội học, chỉ báo thực nghiệm thường được đặc trung bởi hành vi của người thực hiện nghiên cứu được biểu hiện bằng lời nói hay bằng hành động. Theo Quyết & Thanh (2001), mỗi chỉ báo thực nghiệm có thể là một hoặc một vài câu hỏi trong bảng hỏi nhằm thu thập thông tin thực nghiệm. Khái niệm lý luận Chỉ báo Thao tác hóa Tính tích cực xã hội Tính tích cực kinh tế Tính tích cực chính trị Tính tích cực văn hóa - Số giờ đọc sách - Số giờ tham gia văn hóa nghệ thuật - Số tác phẩm sáng tác ...... Nguồn: (Ngọ et al., 1997) f. Xác định phương pháp thu thập thông tin
  8. Phương pháp thu thập thông tin là toàn bộ những cách thức mà người nghiên cứu sử dụng để có được những thông tin phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. Trong nghiên cứu xã hội học, phương pháp thu thập thông tin bao gồm: tổng quan/nghiên cứu tài liệu; quan sát; phỏng vấn; phát vấn. Các phương pháp thu thập thông tin chỉ được tiến hành sau khi người nghiên cứu thiết lập được các chỉ báo. Mỗi phương pháp thu thập thông tin cần được gắn với nội dung cụ thể. Thông tin nào? lấy ở đâu? Ai có thể cung cấp? g. Chuẩn bị bảng hỏi và điều tra thử Sau khi xác định phương pháp thu thập thông tin hợp lý, nếu trong quá trình thu thập chỉ báo cần thống kê ví dụ như bình quân thu nhập của các hộ hoặc có bao nhiêu người đồng ý hay không đồng ý về một vấn đề nào đó thì người nghiên cứu cần chuẩn bị bảng hỏi. Nội dung nay sẽ được đề cập chi tiết trong phần sau, tuy nhiên, để sử dụng bảng hỏi, người nghiên cứu phải thực hiện điều tra thử tại hiện trường nghiên cứu trước khi tiến hành thực hiện chính thức vì luôn có sự khác biệt giữa thực tế và việc thiết kế bảng câu hỏi trên bàn giấy. e. Lập phương án xử lý thông tin Công đoạn cuối cùng của chuẩn bị là lên phương án dự kiến xử lý thông tin. Đây là dự kiến của người nghiên cứu trong việc lựa chọn cách thức, mô hình xử lý thông tin đã được thu thập. Ví dụ, đối với các thông tin mang tính định lượng,
  9. người nghiên cứu cần xác định nhập số liệu như thế nào, dùng phầm mền gì để xử lý... 9.1.2. Thu thập thông tin cá biệt Để thu thập thông tin cá biệt được hiệu quả, ngoài công tác chuẩn bị chung cho quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu cũng cần phải có công tác chuẩn bị riêng. Thứ nhất, cần chọn thời điểm thích hợp để thu thập thông tin, đặc biệt l à thu thập thông tin tại hiện trường. Ví dụ, trong phỏng vấn nông hộ nếu thiết kế đợt thu thập thông tin vào thời điểm mùa vụ thì người nghiên cứu sẽ gặp khó khăn trong tiếp cận đối tượng phỏng vấn. Bên cạnh đó, người nghiên cứu cần phải tiếp cận hiện trường trước khi đợt thu thập thông tin chính thức bắt đầu. Việc này nhằm thống nhất kế hoặc và tranh thủ sự giúp đỡ của địa phương nơi tiến hành nghiên cứu. Ngoài ra, việc nắm địa bàn thu thập số liệu sẽ giúp cho người nghiên cứu lập được kế hoạch chi tiết cho việc thu thập thông tin. Tiếp theo trong chuẩn bị thu thập thông tin cá biệt là công tác tập huấn. Bước này đặc biệt quan trọng khi việc thu thập thông tin cần có sự tham gia của nhiều người (phỏng vẫn bằng bảng hỏi với số lượng lớn hay phỏng vấn nhóm). Việc tập huấn cho những người cùng tham gia nhằm thống nhất cách thức và nội dung thu thập thông tin. Cuối cùng, để cho việc thu thập thông tin được thành công là công tác chuẩn bị về kinh phí. Trong quá trình thu thập thông tin cá biệt, đặc biệt tại hiện trường, sẽ có những can thiệp không mong muốn vào quá trình thu thập thông tin của người nghiên
  10. cứu làm ảnh hưởng đến mức độ chân thực của thông tin. Sự can thiệp không mong muốn này có thể xuất hiện trong quá trình chọn mẫu hoặc quá trình thu thập thông tin tại hiện trường 9.1.3. Xử lý và phân tích thông tin Xử lý thông tin là quá trình chuyển các thông tin cá biệt thu thập được thành thông tin tổng hợp đặc trưng cho tổng thể nghiên cứu (Dong et al., 2001). Đây là giai đoạn hình thành kết quả cuộc nghiên cứu. Trọng tâm của xử lý thông tin là hình thành được các chỉ báo, các dẫn chứng minh họa cho các kết luận nghiên cứu. Việc xử lý thông tin luôn đi kèm với phân tích thông tin với công cụ và cách thức tiến hành như sau: a. Công cụ phân tích Việc lựa chọn các công cụ phân tích thông t in tùy thuộc vào loại thông tin thu thập được. Đối với những thông tin định tính, công cụ phân tích có thể l à các bản tóm tắt hay những tổng hợp từ nhật ký thực địa theo từng nội dung hay vấn đề thu thập được. Bên cạnh đó người nghiên cứu có thể dùng nhật ký thực địa. Đây là những ghi chép của người nghiên cứu trong quá trình thực địa. Nhật ký thực địa thường bao gồm những nội dung như: gặp ai? ở đâu? Thu thập thông tin gì? Trong nhật ký thực địa cũng ghi chép lại thái độ của người được phỏng vấn về vấn được hỏi. Đối với những thông tin định l ượng việc phân tích có thể dựa vào các phần mềm máy tính (software)
  11. b. Cách thức Tương tự như các công cụ phân tích thông tin, cách thức phân tích thông tin cũng được chia thành phân tích định tính và phân tích định lượng. Tùy vào thông tin thu thập được, cách thức phân tích có thể được tiến hành như sau: - Phân tích định tính o Viết những bình luận, nhận xét ra lề hoặc đánh dấu một số thông tin nổi bật của ghi chép thực địa o Viết lại những ghi nhớ, những nhận xét từ quan sát. o Tóm tắt ghi chép thực địa o Sử dụng những suy luận ẩn dụ (metaphor), xem xét những tương đồng, tương phản, so sánh o Sử dụng bảng, đồ thị, hình vẽ o Tạo chuỗi các sự kiện, bằng chứng một cách lô gic o So sánh những phát hiện, kết luận của nghiên cứu với khung lý thuyết hoặc cùng vấn đề nghiên cứu đó được thực hiện tại các điểm nghiên cứu khác nhau - Phân tích định lượng: có thể sử dụng các phần mềm máy tính để thực hiện các phân tích như:
  12. o Quan sát tần suất o Xem xét tương quan, hồi quy o Kiểm định theo các phân phối o Sử dụng các mô hình có tính chất toán học
nguon tai.lieu . vn