Xem mẫu
- Câu hỏi: phương hướng, quan điểm giải quyết việc làm cho nông dân không di c ư ở
Việt Nam giai đoạn tới.
Trả lời:
1. Nguyên nhân
Tình trạng nông dân phải di cư không có gì là mới mẻ ở Vi ệt Nam. Ngay t ừ nh ững năm
trước năm 1945 người dân trong nước đã có sự di cư đến các vùng khác nhau trong và
ngoài nước do tác động của chiến tranh. Tuy nhiên ngày nay, không phải chịu tác động của
chiến tranh xong tình trạng di dân vẫn tiếp diễn, đặc biệt là ở nông thôn.S ự di dân c ủa các
nông dân lên thành thị là vấn đề cấp bách đáng được quan tâm hàng đầu.Vậy vì sao lại có
sự di dân từ nông thôn lên thành thị?Theo tìm hiểu có thể thấy một số nguyên nhân sau:
a, Tác động của tự nhiên
Do nước ta là nước nông nghiệp với khí hậu nhiệt đới gió mùa, địa hình đa d ạng và ph ức
tạp nên chịu tác động rất lớn từ thiên nhiên. Đặc biệt là nông nghiệp, đi ều đó đ ược th ể
hiện ở các điểm sau:
Một là,do sự biến đổi khí hậu dẫn tới thời tiết khắc nghi ệt.ngày càng có nhi ều tác đ ộng
không tốt từ thiên nhiên như:lũ lụt, hạn hán, bão, thủy triều xâm nhập…làm ảnh h ưởng
tới nông nghiệp. Bão kéo theo lũ lụt làm thủy triều dâng lên tràn vào các diện tích đ ất canh
- tác làm cho đất bị nhiễm mặn khiến cho chất lượng đất gi ảm, điều đó đ ồng nghĩa v ới
chất lượng cũng như năng suất của cây trồng cũng giảm. Và trên th ực t ế, đ ể tr ồng đ ược
cây như ban đầu thì cũng phải mất khá nhiều thời gian và công sức m ới có th ể c ải t ạo l ại
đất đã bị nhiễm mặn ,mà nếu có cải thiện được thì năng suất cây trồng chưa ch ắc đã đ ạt
được như mong muốn. Bởi lẽ với cách thức làm thủ công của người nông dân thì khó có
thể cải tạo được những vùng đất này, chính vì vậy nên người ta ch ấp nh ận b ỏ l ại đ ể đi
tìm một công việc mới cũng là điều dễ hiểu.
Hai là, cũng vì sự tác động của thời tiết, của môi trường như th ế mà các d ịch b ệnh cũng
xuất hiện ngày càng nhiều trên cây trồng cũng như v ật nuôi như: cúm H1N1, H5N1 ( ở gia
cầm); tai xanh (ở lợn); nở mồn long móng(ở trâu bò) và các lo ại b ệnh lạ ở th ủy s ản nuôi
trồng, cây trồng… Tất cả đều có ảnh hưởng rất lớn tới người nông dân. Khi mà các d ịch
bệnh xuất hiện hầu hết các sản phẩm này đều bị tẩy chay, bị ép giá, thậm chí không đ ược
phép bán ra thị trường.chính điều này khiến nông dân lâm vào c ảnh “đã nghèo nay còn
nghèo hơn”. Như những nơi trồng mía hay nuôi cá Tra,cá Pasa trong đ ến v ụ thu ho ạch r ồi
những không có người mua khiến nông dân vô cùng kh ốn cùng: ti ền đ ầu t ư vào không
được thu về mà công bỏ ra thì cũng mất.vì lý do ấy cũng không ít ng ười b ỏ ngh ề đi tìm
công việc khác.
Ba là, do địa hình nước ta bị chia cắt nên sự phân biệt khí hậu gi ữa các vùng mi ền là rõ
rệt, dẫn tới các cách thức cũng như nông sản ở các n ơi cũng khác nhau theo vùng mi ền.
Đặc biệt sự khó khăn về cơ sở hạ tầng theo các vùng miền khác nhau như gi ữa mi ền núi
và đồng bằng,giữa hai đảo và đất liền. sự đi lại cũng như đi ều ki ện ở đ ồng b ằng h ơn
miền núi, đất liền hơn hải đảo nên có sự di dân cũng là điều tất yếu.
b, Tác động của KT-XH
Một là, do người dân nông thôn không muốn làm nông dân, vì h ọ luôn mang trong mình
tâm lý ra thành thị sẽ có nhiều cơ hội việc làm và thu nhập sẽ cao hơn để từ đó sẽ có thêm
khoản dư nào đó để trang trải cuộc sống. Theo Báo cáo Phát triển con người 2009 đã ước
tính, tổng số tiền mà người Việt Nam di cư trong nước và quốc tế gửi v ề trong năm 2007
là 5,5 tỷ USD. Trong đó, tính theo tổng lượng ti ền gửi v ề thì Vi ệt Nam đ ứng th ứ 19/182
quốc gia và vùng lãnh thổ, còn tính lượng tiền gửi v ề theo đ ầu người (trung bình là 63
USD/người) thì Việt Nam đứng thứ 88. Con số này đã chứng t ỏ đ ược l ợi ích kinh t ế c ủa
việc di cư mang lại cho người nông dân
Mặt khác, một bộ phận người nông thôn muốn ra thành thị để ti ếp c ận v ới n ền văn hóa
mới, hiện đại hơn…Có người không ngần ngại nói rằng: “do lợi nhu ận t ừ làm lúa không
đủ để trang trải cuộc sống. Với người già, nhu cầu thường không cao nên c ố co kéo thì
- cũng tạm đủ. Nhưng với người trẻ thì khác, họ rất nhạy cảm trước những thi ệt thòi do
chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị. Đi tìm m ột cu ộc m ưu sinh t ốt đ ẹp h ơn
đó là tâm lý rất đời thường”.
Hai là,sự phát triển của các khu công nghiệp đã tạo ra không ít khó khăn cho nông dân: khi
KCN được mở rộng tức là đất nông nghiệp đã bị thu hẹp lại, đi ều đó cũng đ ồng nghĩa v ới
việc nông dân mất đất canh tác trong khi các KCN lại thi ếu công nhân. Chính vì th ế xu
hướng di chuyển tới những nơi có KCN là tất yếu.
Ba là, do những biến động của thị trường trong và ngoài nước không ổn đ ịnh khi ến ng ười
doanh nghiệp cũng như nông dân gặp rất nhiều khó khăn. Đặc bi ệt là trong nh ững năm
gần đây, do sự nhập lậu các sản phẩm làm từ nông sản c ủa các doanh nghi ệp đã khi ến
cho giá nông sản trong nước bị ép xuống rất thấp, thậm chí còn không có người mua,
khiến nông dân gặp nhiều khó khăn, nhiều người đã quyết định bỏ nghề nông để ra thành
phố với ý định cơ may tìm được việc gì đó cứu vãn tình thế.
Bốn là, do các cây trồng hay vật nuôi trong nông nghiệp có sự thay đổi theo mùa hay có
tính mùa vụ và các công nghệ được áp dụng trong nông nghiệp còn thấp, trình độ nông dân
cũng chưa cao dẫn tới khó để tự phát triển một nghề mới có tính chất ổn đ ịnh trong lúc
nông nhàn như lúa chủ yếu là 2 vụ chính và mỗi vụ kéo dài kho ảng 3 tháng, t ức là m ột
năm người trồng lúa chỉ mất 6 tháng cho vi ệc này, 6 tháng còn l ại s ẽ là th ời kỳ nông nhàn.
Trong lúc như thế, không có việc làm nhưng các chi tiêu và m ọi chi phí cho sinh ho ạt hang
ngày vẫn không hề giảm. những lúc như thế, người dân nông thôn đã chọn cách lên thành
phố để tìm một công việc mới để có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống.
hậu quả của việc di dân: Qua thực trạng trên, vậy chúng ta có thể đánh giá được gì
về tình trạng di dân tự do. Di dân có mặt tác động tích cực của nó, nhưng mặt khác nó
cũng đặt ra những vấn đề khó khăn và phức tạp trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Những tác động tích cực của nó, chúng ta có thể thấy: ở mức độ nhất định, di dân từ n ơi
này tớ nơi khác góp phần thúc đẩy sự phát trỉên đa dạng của các lĩnh v ực và các ngành
nghề, dịch vụ và có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng kinh tế c ủa quá trình đô th ị hóa và công
nghiệp hóa. Chính những người di cư tới n ơi để tìm kiếm việc làm đã góp ph ần b ổ sung
nguồn lực lao động cho thành phố, đặc bi ệt là thúc đ ẩy phát tri ển ngành kinh t ế d ịch v ụ,
ngoài ra họ tham gia vào phát triển khu vực phi kết cấu góp phần thỏa mãn nhu c ầu về các
- ngành nghề như: mộc, nề, rèn, …Cung cấp các m ặt hàng l ương th ực và th ực ph ẩm…H ơn
nữa, họ cũng tham gia vào lĩnh vực hoạt động lao động phổ thông mà nhà n ước ch ưa bao
quát được trong quá trình đô thị hóa như: xích lô, v ận chuyển hàng hóa, chuyên ch ở hành
khách và nhiều hình thức hoạt động lao động khác. Nhìn chung, tác đ ộng tích c ực c ủa di
dân tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội tuy không đo đếm được chính xác, nh ưng rõ
ràng vai trò của nó là không thể phủ nhận. Người dân di c ư t ới thành ph ố v ới m ục đích
tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập. Do vậy tính năng động trong vi ệc tìm ki ếm vi ệc làm
của họ rất cao, tùy thuộc vào trình độ chuyên môn, sức khỏe, khả năng c ủa m ỗi ng ười mà
họ sẫn sàng tham gia vào các lĩnh vực khác nhau. Do đó, những người lao đ ộng này đã bù
đắp cho nguồn lực lao động ở thành phố khi tham gia vào nh ững công vi ệc mang tính ch ất
lao động giản đơn, hoặc lao động nặng nhọc nhưng rất cần thi ết cho đ ời sống kinh t ế xã
hội. Một số lượng lớn lao động nông thôn làm vi ệc có tính ch ất th ời v ụ vào thành ph ố tìm
việc, họ có thể làm bất cứ công việc gì mà lao động ở thành phố không mu ốn làm, nh ững
công việc nặng nhọc phải dùng sức cơ bắp mặc dù thu nhập c ủa họ không cao l ắm song
vẫn hơn hẳn mức thu nhập ở nông thôn.
Bên cạnh những mặt tích cực, di dân còn để lại những vấn đề tiêu cực, tình trạng di dân
tự do tới thành phố tìm việc làm cũng đang đặt ra những vấn đ ề c ấp bách trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội ở thành phố. Có thể đưa ra những vấn đề cấp bách nổi bật sau:
thứ nhất, là vấn để gia tăng sức ép về việc làm cho thành phố. Tình trạng thiếu việc làm,
thất nghiệp ở thành phố thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình tr ạng di dân
ngoại thành vào thành phố, điều đó làm cho số người có nhu c ầu gi ải quyết vi ệc làm m ỗi
năm tăng nhanh, gây nên sức ép về việc làm tại thành ph ố ngày càng tăng. Đ ồng th ời đây
cũng là nguyên nhân dẫn tới những mặt tiêu c ực khác phát sinh, t ạo ra gánh n ặng v ề m ặt
kinh tế xã hội cho thành phố.
Thứ hai, là gây quá tải về sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở: Những năm trở lại đây,
ở các thành phố tuy đã được Nhà nước chú ý đầu tư về cơ sở hạ tầng, về điều ki ện nhà ở
nhưng vẫn thiếu và không đồng bộ. Thực tế quỹ nhà ở, công trình công c ộng m ới xây
dựng mặc dù tăng nhanh nhưng không đáp ứng được nhu cầu đô thị hóa (trường học, chăm
sóc sức khỏe, cấp thoát nước, điện sinh hoạt và vệ sinh môi trường đô thị). Các vấn đề
này càng trở nên trầm trọng hơn khi thêm vào đó khối lượng lớn người di cư ngoại tỉnh tới
thành phố.
- Về nhà ở, trong những năm gần đây, tại các thành phố đã xây d ựng m ới hàng tri ệu m 2 nhà
để phục vụ nhu cầu của nhân dân. Song dân số đô thị tăng nhanh đã làm giảm di ện tích
bình quân nhà ở. Bên cạnh đó, hiện nay nhiều khu nhà hư hỏng và xuống c ấp, không an
toàn hoặc đã hết hạn sử dụng. Người di dân tự do vào thành phố thì vấn đ ề nhà ở là vấn
đề lo ngại nhất, một số người di dân mùa vụ do m ục đích c ủa h ọ là ki ếm vi ệc lúc nông
nhàn, cùng với trình độ chuyên môn tay nghề thấp, họ không đủ tiền thuê nhà. H ọ th ường
tập trung ở các vỉa hè hoặc ở các khu nhà trọ rẻ tiền, điều ki ện ăn ở rất khó khăn. Trong
khi đó ở nông thôn tình trạng có nhà nhưng không có nguời ở cũng khá phổ biến.
Về môi trường, quá trình đô thị hóa diến ra nhanh và điều đó cũng tất yếu d ẫn t ới mâu
thuẫn giữa môi trường và sự gia tăng dân số. Những mâu thuẫn đó đã tác đ ộng không t ốt
tới đời sống của người dân thành phố, ví dụ như:
- Chất thải sinh hoạt, mức gia tăng dân số quá nhanh hi ện nay luôn gắn v ới vi ệc ô nhi ễm
môi trường và gây bất lợi cho hệ sinh thái. Hà N ội m ỗi ngày có kho ảng g ần 2.000 m 3 rác
thải, trong khi chỉ giải quyết được khoảng 50% số rác đó. Như vậy, dân số đông v ới t ốc
độ tăng quá nhanh, trong khi khả năng xử lý rác thải chưa đáp ứng đ ược đang đ ặt ra m ột
vấn đề lớn về tình trạng ô nhiễm vệ sinh môi trường của thành phố.
- Nước sinh hoạt, mặc dù có những cải thiện về hệ thống c ấp n ước, nh ưng l ượng n ước
sạch bình quân đầu người của thành phố vẫn không tăng vì dân số tăng nhanh. Hi ện nay,
một số mạch nước ngầm của thành phố cũng bị ô nhiễm do khai thác quá t ải và không
tuân thủ quy trình công nghệ khai thác.
- Không khí và tiếng ồn, cùng với quá trình đô th ị hóa, v ới s ự phát tri ển c ủa công nghi ệp
và giao thông vận tải đã làm tăng các loại khí gây độc hại trong thành ph ố. S ự ô nhi ễm
trong các khu vực gần nhà máy và các trục giao thông chính v ượt quá gi ới h ạn cho phép,
bụi vượt quá tiêu chuẩn từ 4-10 lần, khí CO 2, NO2 từ 2-4 lần, khí SO2 vượt từ 3-5 lần. Sự
phát triển của dân số và các phương tiện giao thông vân tải kéo theo sự gia tăng ti ếng ồn.
Các khu công nghiệp và khu dân cư đông đúc bị chịu ti ếng ồn đã v ượt quá m ức đ ộ cho
phép.
2.Phương hướng, quan điểm giải quyết viêc làm cho nông dân trong giai đoạn tới
Trước tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn trong khi các doanh nghi ệp luôn thi ếu lao
động, nhiều ban ngành đã đề ra các giải pháp nhằm tháo gỡ ngh ịch lý này. V ấn đ ề là, đ ể
- đạt được hiệu quả, rất cần sự liên kết, phối hợp giữa các ngành liên quan, gi ữa thành th ị
và nông thôn giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp d ưới sự qu ản lý,h ỗ tr ợ và tác
động của Nhà nuớc để góp phần hỗ trợ nông dân.
TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát tri ển nông nghi ệp,
nông thôn cho rằng, để giải quyết tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn, thi ếu lao đ ộng
ở các khu công nghiệp - khu chế xuất, chúng ta cần phải có những giải pháp dài hạn. Theo
đó, có 3 mảng quan trọng mà đúng ra chúng ta phải làm từ lâu, bây gi ờ càng c ần ph ải làm
tốt hơn.
Thứ nhất, phát triển nông nghiệp bền vững và mạnh mẽ, tức là sản xuất nông nghiệp
phải có khả năng cạnh tranh cao trong bất kỳ tình huống nào. Thời gian qua, chúng ta c ạnh
tranh bằng giá rẻ, sản phẩm thô với khối lượng nhi ều. Tuy nông s ản xu ất kh ẩu nhi ều
nhưng so với công sức bỏ ra thì không tương xứng. Nếu nền nông nghiệp tăng trưởng theo
chiều sâu, sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, khối lượng ổn
định thì ngay trong những thời điểm khó khăn nhất vẫn có thể bán được hàng. Nông
nghiệp phải chuyển sang nông nghiệp hiện đại, khuyến khích tích t ụ ru ộng đ ất thành
trang trại, gia trại để sản xuất lớn. Giờ đây, làm nông nghiệp không còn là m ồ hôi và đất
mà là vấn đề của khoa học công nghệ.
Thứ hai, phát triển công nghiệp gắn với nông nghiệp . Chiến lược phát triển công
nghiệp thời gian qua luôn thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao, nên ch ủ y ếu c ạnh
tranh bằng lao động giá rẻ. Lao động Việt Nam ở khâu cuối cùng c ủa l ực l ượng lao đ ộng
- thấp, vì thế khi khó khăn, cần cắt giảm lao động, người ta sẵn sàng c ắt gi ảm l ực l ượng
này như trong ngành dệt may, da giày, xây dựng, ...
Thứ ba, kinh tế nông thôn vẫn phát triển rất èo uột. Gi ữa nông thôn và thành th ị
không có sự kết nối tốt . Chẳng hạn, toàn bộ khối làng nghề, vùng nguyên liệu với đô thị
hầu như không có sự liên hệ nào trong sản xuất. Nhà máy c ần đ ược đ ưa v ề nông thôn,
hiện 70% nhà máy lớn, khu công nghiệp bám vào đô thị. Đi ều này không nh ững gây áp l ực
cho khu vực đô thị trong việc phải tiếp nhận lượng dân di c ư l ớn mà còn kéo theo nhi ều
hệ lụy xã hội, khó có thể đảm bảo chất lượng cuộc sống của người dân.
Tất cả những việc này cần có sự chung tay góp sức phần lớn là c ủa Đ ảng và Nhà n ước.
Trong Hội nghị Trung ương VII (6/2008) Đảng đã nghiên cứu và cho th ấy các m ặt t ồn t ại
ở nông thôn từ đó dưa ra các biện pháp như sau:
- Phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách. Một là đưa lao động
ra khỏi khu vực nông thôn về các khu công nghi ệp, đưa đi xu ất khẩu lao đ ộng, đ ưa v ề
thành phố. Hai là đưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn, phát tri ển làng ngh ề... M ặc dù
đây là vấn đề rất lớn để giảm thiểu sự bất bình đẳng hiện nay, nhưng Việt Nam ch ưa
quan tâm nhiều tới vấn đề này, trong khi đây là xu thế tất yếu.
- Tăng đầu tư của Nhà nước về nông thôn. Hiện nay, đầu tư c ủa Nhà n ước về nông thôn
còn hạn chế (chiếm 14% tổng đầu tư) và đầu tư trực ti ếp n ước ngoài (FDI) vào lĩnh v ực
này không đáng kể (3% tổng đầu tư FDI cả n ước). Các chuyên gia cho rằng, Vi ệt Nam
cần đẩy mạnh đầu tư cho khoa học công nghệ (hiện chi ếm 0,13% GDP nông nghi ệp,
trong khi các nước tương tự là 4%). Tất nhiên, vấn đề này cũng không d ễ dàng b ởi nông
dân rất khó tiếp cận và làm chủ KHCN.
- Thiết lập hệ thống khuyến nông tốt. Có thể thuê khuyến nông tư nhân làm mà không cần
phải dựa hoàn toàn vào Nhà nước. Ngoài ra, phải có các c ơ chế tài chính phù h ợp thu hút
các tổ chức quốc tế, phi chính phủ làm việc này và tăng cường các mô hình giáo d ục, đào
tạo ở địa phương để người dân có thể tiếp cận được". Song song đó là đầu t ư cho các
dịch vụ công khác và đẩy mạnh cải cách thể chế.
- Nhà nước cần đầu tư đào tạo nghề cho nông dân để đối phó với sự d ịch chuyển trong
nông nghiệp.
- - Tận dụng nhiều hơn những ưu đãi cho nông nghi ệp. Khi gia nh ập WTO, ph ải xóa b ỏ
chính sách trợ giá, nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà WTO cho phép (kho ảng 10%
GDP của nông nghiệp) như thủy lợi, hệ thống tưới tiêu, c ải tạo đ ất đai, nghiên c ứu áp
dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp.
- Có chính sách hỗ trợ cho an ninh lương thực. Nhà n ước c ần có chính sách h ỗ tr ợ cho lĩnh
vực này. Muốn đảm bảo an ninh lương thực, duy trì di ện tích và sản l ượng lúa ở đ ồng
bằng Sông Cửu Long thì phải có chính sách để bảo đ ảm thu nhập cho ng ười dân và cho
phát triển vùng này. Hiện nay, những tỉnh có tỉ trọng nông nghiệp cao trong GDP là nh ững
tỉnh nghèo, kém phát triển. Nên xem vấn đề an ninh lương thực dưới góc độ cung c ấp d ịch
vụ cơ bản.
*** Từ các phuơng huớng trên , dưới góc độ là những nhà qu ản lý , chúng tôi đ ưa ra
những mô hình nhằm giải quyết việc làm cho nông dân trong giai đoạn tới như sau:
Mô hình cho nông dân chuyển đổi nghề tại địa phương:
Đa dạng hóa các
địa phương không
loại hình sản xuấtdạng hóa các
Đa ở
mất đi nguồn lực
địa phương loại hình sản xuất ở
địa phương
mục đích
chuyển dịch cơ
tạo thu nhập và
cấu ở địa phương
việc làm ổn định
Đào tạo
Nôn
Nhân
g
công
dân
Xây
Khôi phục các làng hướng nghiệp
Hướng dựng
nghề truyền thống
giải quyết khu công
nghiệp đầu vào Nông
sản sản
xuất phẩm
truyền Khoa học Phát triển các loại
nghề kĩ thuật hình văn hóa-du lịch
thị
Chính
và dịch vụ
trường
sách
- Du lịch giải trí
Tham quan các di
tích lịch sử, thắng tại nông thôn
cảnh
_xây dựng các khu công ghiệp tại địa phương sẽ là hướng gi ải quyết chính, lâu dài cho
vấn đề di dân tại nông thôn hiện nay. Khi KCN xuất hiện sẽ đồng th ời t ạo vi ệc làm cho
nông dân
muốn chuyển đổi nghề, lại vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm nông sản c ủa nông dân. Đi ều đó
sẽ giữ chân nông dân ở lại nông thôn, tạo nguồn lực cho địa phương phát tri ển và ngăn
chặn các mặt tiêu cực của vấn đề di dân. Nhưng n ếu muốn thu hút nhà đ ầu t ư thì chính
quyền địa phương phải có những chính sách thu hút thích h ợp, m ở các l ớp đào t ạo ngh ề,
hướng nghiệp cho nông dân phù hợp với mục đích sản xuất của KCN
_phát triển các loại hình văn hóa du lịch và dịch vụ: có thể tổ chức các lo ại hình du l ịch
giải trí tại nông thôn như các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… đã làm. Mô hình này
vừa giúp người nông dân kiếm thêm thu nhập (cho thuê phòng ở, bán sản ph ẩm nông s ản
cho du khách) lại vừa phục vụ nhu cầu vui chơi gi ải trí c ủa c ộng đ ồng (du khách mu ốn
tìm hiểu các hoạt động nông nghiệp hay muốn tìm 1 không gian đ ể nghĩ d ưỡng…). Đ ịa
phương cũng có thể đẩy mạnh việc tu sửa, khám phá và quảng bá các đ ịa danh l ịch s ử hay
thắng cảnh nổi tiếng của địa phương để từ đó thu hút khách du lịch, nông dân ki ếm đ ược
lợi nhuận từ việc cung cấp dịch vụ cho du khách
_khôi phục các làng nghề truyền thống: hiện nay nghề truyền thống tại các đ ịa ph ương
chủ yếu được truyền dạy bằng hình thức cha truyền con nối, người đi tr ước d ạy cho
người sau nên đội ngũ lao động làng nghề chưa đồng đều về chất lượng, ch ưa đáp ứng
được nhu cầu hàng hóa xuất khẩu. Vì vậy đia phương phải tập trung những ngh ệ nhân
làng nghề, mở lớp dạy, đưa nghề truyền thống trở thành nghề chính của nông dân, giúp
họ thoát ly hẳn khỏi nông nghiệp và tự đảm bảo kinh tế khi tham gia làng ngh ề, cần phải
thực hiện các hoạt động cụ thể như kêu gọi sự tham gia c ủa người dân cũng nh ư các t ổ
chức kinh tế xã hội nhằm thúc đẩy quá trình phát triển c ủa các làng nghề; m ở các khóa
đào tạo về kỹ năng, các hội thảo chia sẻ, tiếp thu kinh nghiệm; th ường xuyên theo dõi,
giám sát, đánh giá kết quả các dự ứng dụng: chọn lựa lĩnh v ực phù h ợp đ ể ứng d ụng;
chuyển giao KHCN cho người dân; tăng cường công tác kiểm tra, bảo v ệ môi tr ường;
khuyến khích các làng nghề, cơ sở sản xuất xây dựng hệ thống xử lý n ước th ải… tr ước
- khi thải ra môi trường; quy hoạch các khu, cụm làng ngh ề; đ ưa các c ơ s ở s ản xu ất gây ô
nhiễm ra khỏi khu dân cư… Đồng thời việc phát triển làng nghề có thể phát triển thêm
loại hình du lịch làng nghề như: làng dệt lụa Vạn Phúc, làng tranh Đông Hồ,…Ngoài ra địa
phương cũng cần phải chú trọng đầu ra cho sản phẩm, đ ảm bảo nông dân có th ể s ống
được với nghề. Một số làng nghề tiêu biểu như: gốm Bát tràng (Hà N ội), chi ếu Nga S ơn
(Thanh Hóa)…
Mô hình cho nông dân không di cư:
tạo thu nhập nông nghiệp
bằng hoặc lớn hơn thu
giảm thời gian
nhập dotạo thu n đập nghề nghiệp
chuyể nh ổi nông
nông nhàn
bằng hoặc lớn hơn thu
nhập do chuyển đổi nghề
mục đích
Nâng cao năng suất tạo động lực cho việc
phát triển nguồn lực
lao động
KT-XH địa phương
Áp dụng khoa học Chăn nuôi nhằm
Hướng giải
kĩ thuật nhằm tăng tận dụng các sản
quyết
vụ, cải thiện giống phẩm nông sản
lúa thừa
trồng xen canh cây
ngắn ngày với lúa
- _chăn nuôi: các sở ban ngành địa phương đẩy m ạnh công tác nghiên c ứu, l ựa ch ọn con
giống phù hợp với địa phương để đạt lợi ích kinh tế cao, đồng th ời h ướng d ẫn chăn nuôi,
cử các đoàn bác sĩ thú y về địa phương tiêm phòng cho gia súc, đ ền bù thi ệt h ại cho nông
dân khi xảy ra dịch bệnh lớn, hỗ trợ bao tiêu sản phẩm…Chăn nuôi giúp bà con có thêm
thu nhập, đồng thời tận dụng các sản phẩm nông sản thừa của việc sản xuất nông nghiệp
_trồng xen canh: người nông dân 1 năm chỉ 2 vụ lúa v ới t ổng th ời gian là 6 tháng. Trong
thời gian 6 tháng còn lại nông dân có thể tận dụng đất bỏ không để trồng xen canh các cây
công nghiệp ngắn ngày như: lạc, khoai, sắn…vừa thêm thu nhập lại không đ ể đ ất nhàn
rỗi
_áp dụng thành quả khoa học: các thành tựu c ủa cuộc cách m ạng công nghi ệp c ần đ ược
đẩy mạnh áp dụng vào nông nghiệp như sử dụng các máy móc trong vi ệc thu ho ạch, gieo
trồng, dùng các giống lúa mới nhằm tăng năng suất chất lượng rút ngắn th ời gian gieo
trồng, tiến tới sản xuất 3 vụ trong năm
Mô hình cho nông dân không di cư muốn thực hi ện được phải có sự k ết h ợp đ ồng b ộ c ủa
nhà nước, doanh nghiệp, người nông dân để hạn chế các khó khăn khi nông dân ti ếp t ục
sản xuất nông nghiệp. Trong đó nhà nước sẽ đóng vai trò chỉ đạo, đi ều phối các ho ạt
động sản xuất nông nghiệp, là cầu nối giữa doanh nghiệp và người nông dân. Doanh
nghiệp sẽ có vai trò là nơi tiêu thụ sản phẩm nông sản, đảm bảo đầu ra cho sản xuất nông
nghiệp. Người nông dân là chủ thể của quá trình sản xuất.
Nhà
nước
Nông dân
Doanh
nghiệp
Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp giống, phân bón… cùng với các kĩ s ư nông nghi ệp
cho bà con nông dân, đảm bảo về giá và sản lượng thu mua nông s ản. Ng ười nông dân
cam kết thực hiện theo các khâu của quy trình sản xuất lúa do bên doanh nghi ệp đ ề ra.
Còn nhà nước đóng vai trò tìm tiếng nói chung giữa doanh nghiệp và người nông dân, t ạo
sự phát triển của mối liên kết này theo một phương thức sản xu ất, kinh doanh m ới. N ếu
- đảm bảo thực hiện được mô hình này tại các vùng đồng b ằng thì theo ước tính ng ười
nông dân sẽ thu lãi được từ 38-40 triệu đồng/ha (vụ đông xuân) và 21 đ ến 22 tri ệu
đồng/ha (vụ hè thu). Mô hình này đã được thí đi ểm thành công t ại An Giang trong mô hình
“cánh đồng mẫu lớn” và tại 1 số tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là hướng phát
triển giúp người nông dân làm chủ hạt lúa của mình, đồng thời giúp người nông dân bám
đất bám ruộng
Với các mô hình như thế này thì tất c ả m ọi người dân nông đ ều có c ơ h ội ti ếp c ận nh ư
nhau về mặt tri thức ,kiến thức về các ngành nghề,có c ơ hội tìm được viêc làm nh ư nhau.
Ngoài ra còn tạo cơ hôi cho các doanh nghiệp tìm ra được nguồn nhân l ực cho mình. N ạn
thất nghiệp cũng từng bước được đẩy lùi,các vấn đề an sinh xã hội cũng ổn định…tất cả
hướng tới chủ chương dân giàu nước mạnh và một nước công nghi ệp m ới trong t ương lai
gần.
nguon tai.lieu . vn