Xem mẫu

  1. Bộ Nông nghiệp và Chương trình Phát triển Phát triển nông thôn Liên hợp quốc ______________________________________________________ Dự án Hỗ trợ Chương trình Cải cách hành chính tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn VIE 02/016 PHÂN TÍCH GIỚI TẠI BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH Các ý kiến, suy nghĩ, vấn đề và nhu cầu của công chức, viên chức thuộc Bộ NN & PTNT về bình đẳng giới và hòa nhập giới Astrid Tripodi Tạ Ngọc Sính Tháng 9 năm 2004 1
  2. Mục lục 5 Giới thiệu ...……………………………………………………..…………………………. 6 A. Phương pháp nghiên cứu ………..………………..…………………………….…….. 6 I. Phỏng vấn trực tiếp các công chức, viên chức …………………………….…………………... 1. Phương pháp phỏng vấn …………………………………………………………..…………... 6 2. Thông tin tóm tắt về các cán bộ, viên chức được phỏng vấn .………..………………………….. 6 3. Chuẩn bị cho các phỏng vấn viên ……………………………………………………………. 7 7 II. Thảo luận nhóm mục tiêu …………….…………………………………..……….…………… 8 III. Chuẩn bị và kinh nghiệm với các cuộc phỏng vấn ….………………………………………. 9 B. Kết quả ………………………………………….……………………………………… I. Tổ chức cán bộ ………………………………………………….………………………………. 10 1. Thu thập số liệu …………………………………………..…………………………………….. 10 2. Tuyển dụng ………………………………………………...…………………...............……….. 10 3. Đề cương nhiệm vụ …………………………………………………………………… ...…….. 11 4. Thăng tiến và đề bạt ……………………………………………………………………………. 11 4.1. Khó khăn đối với vấn đề đề bạt ………………………………………………...…………… 11 4.2. Qui hoạch cán bộ …………………………………………………..…………………... 12 5. Tập huấn về chuyên môn ……………………………………………………………………… 14 6. Lương ………………………………………………………………...………………………….. 15 15 II. Phúc lợi xã hội …………………………………………………………………...….………….. 1. Chăm sóc sức khoẻ ……………………………………………………………………………... 15 2. Nghỉ đẻ và chăm sóc con khi ốm …………………………………………………..…………. 15 3. Nghỉ hưu ……………………………………………………………...……………….………… 15 16 III. Gia đình và công việc ……………....................................................................................……. 16 IV. Môi trường làm việc …………………………………………………………..………………. 17 V. Cơ cấu tổ chức …………………...............................................................……...……………… 17 VI. Nhận thức và tập huấn về giới ..………………………………………………………………. 1. Nâng cao nhận thức về giới ………………………………………………..…………….…….. 17 2. Tập huấn về giới ………………………………………………………………………………... 18 2.1 Phương pháp tập huấn ………………………………………………….……………………... 19 2.2. Tài liệu tập huấn ……………………………………………………………………………… 19 2.3. Nội dung tập huấn ……………………………………………………………………………. 19 2.4. Học viên ……………………………………………………………………............………….. 20 2.5. Công tác chuẩn bị và tổ chức tập huấn …...……………………………………………. 21 3. Hòa nhập giới vào các trường của Bộ NN & PTNT ……………………………...…………. 22 3.1. Chương trình giảng dạy .…………………………………………………..…………………. 22 3.2. Cán bộ giảng dạy ...………………………………………………….................................…... 23 23 VII. Các chính sách về giới ...……………………………………………………………………… 1. Thông tin ...………………………………...……………………………………………………. 23 2. Cam kết …………………………………………………………………………….……………. 24 3. Xây dựng và thực hiện các chính sách về giới……………………………………………….. 24 4. Giám sát và đánh giá ...…………………………………………………………………………. 26 2
  3. 27 VIII. Các tổ chức liên quan đến giới ……………………………………………………………… 1. Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ ……………………………………….………………………… 27 1.1. Vai trò của Ban VSTBPN ………………………………………………………………….... 27 1.2. Thẩm quyền của Ban VSTBPN ………………………………………...…………………… 28 1.3. Các Tiểu ban VSTBPN ………………………………………...…………………….......…... 28 1.4. Các thành viên của Ban VSTBPN …………………...……………………………………… 29 2. Công đoàn và Ban Nữ công .…………………………………….........……………………….. 31 3. Tổ Công tác giới …………………………………………………………...…………………… 31 31 IX. Các Công ty ……………………………………………………………………….…………… 32 C. Đề xuất ……………………………………………………………...…………………... 32 I. Các đề xuất với Dự án CCHC ……………………………………...…………………………… 34 II. Đề xuất với Bộ NN & PTNT……………………………………………………………………. 34 III. Các đề xuất khác ………………………………………………………….………………...…. 35 Đánh giá chung …………….……………………………………………………………… 36 Các phụ lục …………….……………………………………………………………….…. Phụ lục 1: Hướng dẫn phỏng vấn Nghiên cứu định tính về giới ………………………...………….. 36 Phụ lục 2: Thông tin tóm tắt về các cán bộ, viên chức được phỏng vấn trực tiếp ..………………… 44 Phụ lục 3: Danh sách các đơn vị tham gia thảo luận nhóm …………………………………………. 51 Phụ lục 4: Danh sách các cán bộ tham gia nghiên cứu ……………………………………………... 52 3
  4. Danh mục các từ viết tắt CFAW Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ (Ban VSTBPN) DARD Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Sở NN & PTNT) DOP Vụ Tổ chức Cán bộ MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) MoHA Bộ Nội vụ NCFAW Uỷ ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ PAR Cải cách hành chính công POA Kế hoạch Hành động ToT Đào tạo giáo viên WTC Ban Nữ công 4
  5. Giới thiệu Chiến lược Giới đến năm 2010 và Kế hoạch hành động Giới đến năm 2005 cho ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông qua vào tháng 11 năm 2003. Ngay đầu giai đoạn 2 (2003-2006) của Dự án Hỗ trợ Chương trình Cải cách hành chính tại Bộ NN & PTNT (Dự án CCHC), các mối quan tâm về giới đã được lồng ghép vào các tài liệu lập kế hoạch của Dự án. Tổ Công tác giới đã được thành lập để thúc đẩy và hỗ trợ việc lồng ghép giới vào các hoạt động của Dự án. Tổ này bao gồm các thành viên đại diện cho nhiều đơn vị khác nhau trong Bộ NN & PTNT. Để hiểu được những nhu cầu còn tồn tại và nắm được những lựa chọn cho tương lai về vấn đề hòa nhập giới vào trong các đơn vị khác nhau của Bộ và cũng là để định hướng cho các hoạt động về giới trong Dự án CCHC, bản phân tích về giới dưới đây được tiến hành dưới dạng một công trình nghiên cứu định tính. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm thu thập các ý kiến, suy nghĩ, các vấn đề và nhu cầu khác nhau của công chức, viên chức về vấn đề giới và hòa nhập giới để đưa ra những khuyến nghị về các hoạt động liên quan đến giới cho Dự án CCHC và cho Bộ NN & PTNT. Công trình nghiên cứu này được một nhóm bao gồm một Chuyên gia tư vấn quốc tế, một Chuyên gia tư vấn trong nước và 4 phỏng vấn viên thực hiện từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2004. 5
  6. A. Phương pháp nghiên cứu Công trình nghiên cứu này được thực hiện tại Hà Nội, Hà Tây và thành phố Hồ Chí Minh với các cục, vụ, viện, các trường cán bộ quản lý, trường kỹ thuật, các công ty và các cơ quan trực thuộc Bộ. Nhằm thu thập được những ý kiến khác nhau, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp các công chức, viên chức của Bộ và đã tổ chức 3 cuộc thảo luận nhóm mục tiêu. Địa điểm phỏng vấn được liệt kê trong phụ lục 2. I. Phỏng vấn trực tiếp các công chức, viên chức 1. Phương pháp phỏng vấn Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp riêng với 202 công chức, viên chức của 60 đơn vị khác nhau trực thuộc Bộ NN & PTNT. Các cuộc phỏng vấn được ghi âm, sau đó tiến hành giải băng và phân tích. Các cuộc phỏng vấn được tiến hành theo phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc, sử dụng nhiều câu hỏi mở nhằm thu thập được nhiều ý kiến khác nhau. Các câu hỏi đóng cũng được sử dụng nhằm hướng người trả lời phỏng vấn vào một vấn đề cụ thể. Chuyên gia trong nước và quốc tế đã chuẩn bị trước một bản hướng dẫn phỏng vấn bán cấu trúc để làm công cụ hỗ trợ cho các phỏng vấn viên. Nó đã được đưa ra thảo luận, thử nghiệm và điều chỉnh, có bổ sung các ý kiến đóng góp của các thành viên Tổ công tác giới, đại diện Công đoàn, Ban Nữ công, Đoàn thanh niên và Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ (Ban VSTBPN) Bộ NN & PTNT. Bản hướng dẫn phỏng vấn này không được sử dụng như là một bộ các câu hỏi định sẵn chỉ việc đưa ra phỏng vấn mà nó được sử dụng như một công cụ trợ giúp cho các phỏng vấn viên về phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc, với những câu hỏi mang tính định hướng về những vấn đề cần phải tập trung khi tiến hành phỏng vấn. 2. Thông tin tóm tắt về các công chức, viên chức được phỏng vấn Các đơn vị khác nhau trong Bộ NN & PTNT đã được yêu cầu cung cấp các cán bộ với năng lực và trình độ khác nhau để trả lời phỏng vấn theo những tiêu chí lựa chọn sau đây: Mục tiêu là phỏng vấn nam và nữ công chức, viên chức với tỉ lệ Giới tính: 1:1. Trên thực tế, nhóm phỏng vấn đã tiến hành phỏng vấn 93 nữ và 109 nam. • Vị trí lãnh đạo (phần lớn các lãnh đạo đều là nam, trường hợp có Chức vụ: lãnh đạo là nữ thì sẽ ưu tiên để phỏng vấn). • Các cán bộ kỹ thuật/ kinh doanh/ giảng dạy/ nghiên cứu bao gồm cả các trưởng phòng/ bộ phận. 6
  7. Hai nhóm tuổi được lựa chọn theo giới tính: Độ tuổi: • Nam: < 45 và ≥ 45 tuổi • Nữ: < 40 và ≥ 40 tuổi Việc phân nhóm tuổi như trên để phù hợp với vấn đề đề bạt, đào tạo nâng cao, kinh nghiệm công tác và tham vọng nghề nghiệp. Sau đại học Trình độ học vấn: • Đại học • Trung cấp, công nhân kỹ thuật • Thông tin tóm tắt về các công chức, viên chức đã phỏng vấn được liệt kê trong phụ lục 2. 3. Chuẩn bị cho các phỏng vấn viên Bốn phỏng vấn viên trong nước đã được tuyển chọn dựa trên kinh nghiệm về phương pháp nghiên cứu định tính và mức độ hiểu biết của họ về vấn đề giới. Dự án đã tổ chức một khoá tập huấn 3 ngày cho các phỏng vấn viên, nội dung tập trung vào phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc, những vấn đề và câu hỏi quan trọng cần hỏi, cách sử dụng máy ghi âm và cách giải băng. Ngoài ra, các phỏng vấn viên còn được giới thiệu một số vấn đề về giới, hòa nhập giới, các chính sách về giới (Chiến lược giới, Kế hoạch Hành động giới) và các tổ chức có liên quan đến vấn đề giới (Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ, Ban Nữ công, Tổ Công tác giới…). Bản hướng dẫn phỏng vấn sau khi thảo luận, thử nghiệm và điều chỉnh đã được phát cho các phỏng vấn viên sử dụng trong quá trình phỏng vấn (xem phụ lục 1). II. Thảo luận nhóm mục tiêu Nhóm nghiên cứu đã tiến hành một thảo luận nhóm với 8 cán bộ lãnh đạo tại Hà Nội và 2 thảo luận nhóm khác với 23 công chức, viên chức (gồm các cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu, giảng dạy và kinh doanh) tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Có 24 đơn vị đã tham gia các cuộc thảo luận này, danh sách được liệt kê ở phụ lục 3. Các cuộc thảo luận đều được ghi âm và sau đó giải băng. Cuộc thảo luận với các cán bộ lãnh đạo chủ yếu tập trung vào các ý kiến và nhu cầu đối với các chính sách về giới và quá trình hòa nhập giới, trong khi các cuộc thảo luận với các cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ lại thiên về vấn đề giới trong công việc hàng ngày. Các cán bộ nam và nữ được tách nhóm riêng khi thảo luận về những khó khăn, tồn tại nhằm tránh những ý kiến mang tính thành kiến. Sau khi kết quả thảo luận của mỗi nhóm được trình bày trước cả hội nghị, từng nhóm được yêu cầu thảo luận tiếp để tìm ra giải pháp cho những khó khăn, tồn tại mà nhóm kia đã nêu ra. Mọi người đều tham gia rất tích cực, hứng thú và đánh giá cao phương pháp thảo luận có sự tham gia này. 7
  8. III. Công tác chuẩn bị và kinh nghiệm đối với các cuộc phỏng vấn Các đơn vị khác nhau trong Bộ được yêu cầu tham gia vào công trình nghiên cứu và phải cung cấp một số cán bộ nhất định để tham gia phỏng vấn vào một ngày nhất định theo các tiêu chí lựa chọn như đã mô tả (xem phần trên). Các phỏng vấn viên có nhiệm vụ liên lạc trực tiếp với các cán bộ sẽ được phỏng vấn để bổ trí thời gian. Trong một vài trường hợp, việc bố trí thời gian cũng gặp khó khăn do cán bộ được phỏng vấn mắc bận công tác đột xuất, đặc biệt là các công chức, viên chức ở vị trí lãnh đạo. Do vậy không thể tiến hành theo thời gian biểu một cách cứng nhắc mà các phỏng vấn viên phải linh hoạt, có thể hoãn cuộc phỏng vấn và bố trí vào một thời gian khác. Tính linh hoạt của các phỏng vấn viên cũng như hiểu biết của họ về vấn đề cần nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu có tầm quan trọng rất lớn đối với kết quả của công trình nghiên cứu này. Trừ một vài trường hợp cá biệt, nhìn chung các cán bộ được phỏng vấn đều chấp nhận cho ghi âm. Một số cán bộ tỏ ra khá miễn cưỡng khi nói về một số vấn đề nhạy cảm giới và một vài người khác không bộc lộ quan điểm của riêng họ mà lại nói theo quan điểm chính trị. 8
  9. B. Kết quả Các vấn đề, nhu cầu và ý kiến trong phần này được mô tả theo kết quả thu được từ các cuộc phỏng vấn chứ không chứa bất kỳ một nhận xét nào của nhóm Chuyên gia tư vấn. 9
  10. I. Tổ chức cán bộ Theo quan điểm của các cán bộ được phỏng vấn, khi hòa nhập giới vào công tác tổ chức cán bộ có 4 điểm chính quan trọng sau đây: qui định một tỷ lệ cán bộ nữ cho từng đơn vị, đảm bảo đủ lương và thưởng cho tất cả các cán bộ, hỗ trợ cán bộ nữ để họ được đề bạt vào những vị trí cao hơn và phải đảm bảo rằng tất cả cán bộ nam và nữ đều có cơ hội tiếp cận tới các phúc lợi xã hội như nhau. 1. Thu thập số liệu Thiếu các số liệu về công chức, viên chức nữ của Bộ NN & PTNT liên quan đến số lượng, chất lượng, việc đào tạo, tập huấn, kiến thức chuyên môn và năng lực làm việc của họ. Hiện tại, mới chỉ có số liệu về các cán bộ nữ đang nắm giữ những vị trí lãnh đạo. Không có số liệu về khối kinh doanh trực thuộc Bộ và các khó khăn nảy sinh do quá trình cổ phần hoá các công ty. Cần tiến hành một nghiên cứu định tính để tìm hiểu thực tế và sử dụng những thông tin đó giúp nâng cao cho công tác quản lý nguồn nhân lực. 2. Tuyển dụng Thường thì các đơn vị thích tuyển nam hơn. Vấn đề ưu tiên cho người thân trong quá trình tuyển dụng đã đôi lần được nhắc đến. Ban tuyển dụng không nên chỉ gói gọn trong các cán bộ của bộ phận nhân sự và lãnh đạo mà nên thuê các chuyên gia bên ngoài để đánh giá năng lực của ứng viên đối với một lĩnh vực kỹ thuật cụ thể nào đó. Một số chỉ tiêu trong Kế hoạch hành động Giới về tuyển dụng các cán bộ nữ1 không sát thực tế và điều này làm cho các đơn vị trong Bộ không muốn thực hiện. Một số người có thể đã hiểu về vấn đề bình đẳng giới và công bằng giới nhưng trên thực tế họ lại không được xem xét trong quá trình tuyển dụng. Nhằm thúc đẩy việc tuyển dụng cán bộ nữ, một cán bộ trả lời phỏng vấn gợi ý nên cộng từ 0,5 đến 1 điểm vào kết quả thi tuyển công chức cho các ứng viên nữ. Nhưng một số người khác lại cho rằng tiêu chí tuyển dụng nên công bằng cho cả nam và nữ. Không nên ưu tiên phụ nữ chỉ vì giới tính của họ mà tiêu chí lựa chọn đầu tiên phải là kỹ năng và năng lực làm việc. Tuy nhiên, để đẩy nhanh quá trình bình đẳng giới thì nên thống nhất một tỉ lệ biên chế nữ nhất định đối với trường hợp cụ thể của từng đơn vị hay bộ phận. Nên ban hành các hướng dẫn và qui chế khuyến khích ban tuyển dụng tuyển các ứng viên nữ. Cần xây dựng các qui chế mới về thi tuyển công chức. Nên tổ chức thi công chức mỗi năm một lần hay 2 năm một lần để thay thế những vị trí còn thiếu/ trống được dự tính trước. Nên có nhiều thông tin công khai hơn và chi tiết hơn về các vị trí còn thiếu/ trống sắp tới để tránh trường hợp nhiều ứng viên quan tâm hy vọng và chờ đợi nhiều năm liền hay chờ đợi vô vọng để được chấp nhận là công chức, viên chức. 1 20-30% cán bộ mới được bổ nhiệm tại tất cả các cấp từ năm 2004 trở đi là nữ 10
  11. 3. Đề cương nhiệm vụ Cần phải đánh giá và tổ chức lại các công chức, viên chức tại tất cả các đơn vị bằng cách xây dựng và thể chế hoá một hệ thống đánh giá cán bộ nhằm tìm ra những kỹ năng còn thiếu để bổ sung. Các công chức, viên chức cần phải chịu trách nhiệm về kết quả công việc của mình. Phương pháp tự đánh giá quá trình công tác hàng năm hiện nay không dựa vào những tiêu chí khách quan. Đánh giá cán bộ nên dựa vào đề cương nhiệm vụ chính xác và những cán bộ không thoả mãn tiêu chí cần được đào tạo lại, chuyển sang làm công việc khác hay khuyến khích cho nghỉ hưu sớm. Cần có những biện pháp khuyến khích các công chức, viên chức đạt kết quả học tập tốt và khuyến khích việc nâng cao kỹ năng chuyên môn. Nhìn chung, các cán bộ lãnh đạo luôn cố gắng giao trách nhiệm cho nhân viên của họ theo đúng năng lực và kiến thức nhưng một số người trả lời phỏng vấn vẫn nhấn mạnh rằng “Phải có bản mô tả công việc cho từng vị trí một, trên cơ sở mô tả đó mới chọn người, phải từ việc để chọn người chứ không phải là từ người để chọn việc” (nam, 34 tuổi, Trưởng ban, Tổng công ty). Đề cương nhiệm vụ cho tất cả các vị trí tại các đơn vị thuộc Bộ đều chưa được chi tiết và cần phải thiết kế các bản chức danh công việc thật rõ ràng về vị trí công tác, nhiệm vụ, yêu cầu về kỹ năng, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm, địa điểm và thời gian làm việc. Dự án CCHC tại Bộ nên tổ chức các khoá tập huấn về quản lý nhân sự và về thiết kế các các bản chức danh công việc thoả mãn về giới cho cán bộ của Vụ Tổ chức cán bộ. Cần luân chuyển các vị trí cán bộ hành chính hai năm một lần để cán bộ có kiến thức toàn diện về hệ thống văn phòng và có thể thay thế đồng nghiệp trong những trường hợp phải nghỉ ốm hay nghỉ đẻ. 4. Thăng tiến và đề bạt 4.1. Khó khăn đối với vấn đề đề bạt Các cán bộ trả lời phỏng vấn đã nêu ra một số hạn chế khi đề bạt các cán bộ nữ: • Lãnh đạo thường không tin tưởng vào năng lực và khả năng sắp xếp thời gian của cán bộ nữ để hoàn thành nhiệm vụ được giao khi đề bạt họ vào những vị trí cao hơn. Nam giới thường được ưu tiên hơn nữ thậm chí ngay cả khi họ có trình độ và kỹ năng như nhau. Có một thực tế là một phần công việc của các vị lãnh đạo là phải tham gia vào các bữa tiệc, các sự kiện xã hội ngoài giờ hành chính và điều này được coi là không phù hợp đối với phụ nữ. • Phụ nữ thường thiếu động cơ làm việc và có tính tính tự ti: “Nhiều chị em cứ tự ti, nói là thôi để em phấn đấu một thời gian nữa, thế là các anh ấy có lý do để nói là: 'Tôi đã gặp trực tiếp rồi nhưng chị ấy nói là chưa có kinh nghiệm', thế là các anh ấy gạt ra luôn” (nữ, 54 tuổi, Trưởng Tiểu ban VSTBPN, Tổng công ty). Sự kỳ vọng đối với những phụ nữ giữ chức vụ lãnh đạo thường khá cao và điều này làm cho họ cảm thấy bị áp lực và nhiều người cho rằng phụ nữ cần phải làm việc tích cực gấp 2 lần nam giới thì mới được thừa nhận: “Chị em phụ nữ ở đây cũng không muốn làm lãnh đạo lắm bởi vì có nhiều ràng buộc và rất nhiều áp lực công việc. Chị em thấy họ làm lãnh đạo từ cấp 11
  12. khoa trở xuống là phù hợp. Nếu không mong muốn làm lãnh đạo mà lại được đề bạt lên thì hiệu quả công việc cũng sẽ không cao... và nếu ở vị trí cao hơn thì căng thẳng và áp lực công việc càng nhiều hơn. Nhiều chị em về chuyên môn cũng rất giỏi, lãnh đạo có ý đề bạt vào các vị trí mà họ có thể làm được nhưng bản thân họ không ham muốn, không thích thú lắm thành ra nhiệt tình sẽ giảm đi” (nữ, 47 tuổi, Trưởng khoa, trường Trung học). • Thái độ của người chồng: Nhiều phụ nữ không muốn được đề bạt vào vị trí cao hơn trưởng phòng vì điều đó có thể nảy sinh những mâu thuẫn với chồng và nhiều vấn đề khác trong cuộc sống gia đình: “Sau khi đi học về, nhiều phụ nữ hy sinh toàn bộ cuộc sống gia đình để phấn đấu vì sự nghiệp dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia đình” (nam, 34 tuổi, Trưởng Ban, Tổng công ty). • Tuổi đề bạt đối với nữ bị giới hạn ở 502 và nghỉ hưu của nữ ở tuổi 55 là sớm. “Bị hạn chế về tuổi là trở ngại lớn nhất cho việc thăng tiến của chị em” (thảo luận nhóm tại thành phố Hồ Chí Minh). Ở độ tuổi này phụ nữ có thể có đủ kinh nghiệm làm việc để được đề bạt vào một vị trí lãnh đạo và họ thường ít gặp những khó khăn về gia đình vì con cái họ đã trưởng thành. • Điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho công chức, viên chức tương đối kém. Theo chế độ hiện hành, cứ 3 năm tăng lương một lần. Sau một số năm công tác và đã đạt đến một bậc lương nhất định và ít nhất phải có bằng Thạc sĩ, các công chức, viên chức có thể được cử tham dự kỳ thi nâng ngạch công chức sau khi đã tham gia một khoá bồi dưỡng về kiến thức về kinh tế - kỹ thuật (dưới sự giám sát của Bộ Nội vụ). Nhìn chung, để đạt được mức lương này thì thường phải trải qua một quá trình công tác khá dài và đây là một thiệt thòi đối với phụ nữ bởi vì họ chỉ được nâng ngạch ở độ tuổi mà cơ hội được đề bạt vào các vị trí lãnh đạo cao hơn còn rất hạn chế. Hiện tại, điều kiện để công chức, viên chức được tham dự kỳ thi nâng ngạch là phải có bằng Thạc sĩ và có hệ số lương từ 2,82 trở lên. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng bởi thời gian làm việc ở ngạch công chức mới của phụ nữ chỉ còn ít so với nam giới do họ phải về hưu trước 5 năm. Ngoài ra, mức lương hưu lại căn cứ trên mức lương những năm cuối của quá trình công tác và do vậy lương của phụ nữ bị thấp hơn. Do vậy, các cán bộ trả lời phỏng vấn gợi ý rằng nên giảm yêu cầu về thời gian làm việc để được thi nâng ngạch công chức cho nữ giới. 4.2. Qui hoạch cán bộ Việc phân tích kết quả ghi âm các cuộc phỏng vấn cho thấy nhiều công chức, viên chức vẫn chưa hiểu rõ thuật ngữ “qui hoạch cán bộ” trong khi một số người cho rằng việc qui hoạch cán bộ sẽ dẫn đến sự ghen tị của đồng nghiệp và tạo áp lực đối với người được lựa chọn để qui hoạch. Theo nhiều người được phỏng vấn thì việc qui hoạch cán bộ nên bắt đầu ngay từ việc tuyển dụng công chức và cần phải thực hiện theo quan điểm lâu dài để chuẩn bị dần cho 2 Giới hạn tuổi đề bạt: nữ 50/ nam 55, tuổi nghỉ hưu: nữ 55/ nam 60 12
  13. họ, đặc biệt là cán bộ nữ cho các vị trí lãnh đạo. Cần quan tâm tới các cán bộ nữ ngay từ khi họ mới bắt đầu công tác để tìm hiểu nguyện vọng, động cơ, khả năng làm việc của họ và dần dần hỗ trợ họ, tạo cho họ các cơ hội nâng cao kiến thức chuyên môn. Việc qui hoạch cán bộ phải bao gồm cả việc chuẩn bị, tập huấn cho phụ nữ về kỹ năng quản lý và lý luận chính trị để có thể đề bạt họ vào những vị trí lãnh đạo tương lai. Tiêu chí lựa chọn đề bạt không nên thiên vị về giới tính mà phải bình đẳng cho cả nam và nữ: “Việc ấn định tỉ lệ phần trăm đề bạt cán bộ nữ cần phải xem xét lại bởi vì mục đích để làm gì? Nếu mục đích để chọn lãnh đạo thì phải chọn những người đủ tiêu chuẩn A, B, C... Chúng ta phải lấy mục đích chính, nếu ai đạt được chỉ tiêu đó người đó sẽ được lựa chọn, không nhất thiết đó là nam hay nữ... Cái gì mang tính hình thức thì không nên làm” (nam, 49 tuổi, Trưởng phòng, Cục). Việc đề bạt phải được lập kế hoạch chu đáo bởi một số đơn vị đã đề bạt các cán bộ nữ vào những vị trí lãnh đạo trong khi họ chưa thật sự đủ năng lực. Vụ Tổ chức Cán bộ chịu tránh nhiệm quản lý nguồn nhân lực phải trực tiếp lưu tâm tới mối quan tâm này: “Nguyện vọng của tôi là bộ phận đó phải được Vụ Tổ chức Cán bộ lưu tâm vì Vụ Tổ chức Cán bộ là cơ quan quản lý về nguồn lực nên phải đánh giá, kiểm tra trên cơ sở đó rút kinh nghiệm” (nam, 59 tuổi, lãnh đạo, một tổ chức quần chúng). Cán công chức, viên chức cả nam và nữ trước hết phải được đánh giá, rồi được đào tạo, kiểm tra, bổ nhiệm, giám sát và đánh giá dựa trên yêu cầu của từng cơ quan. Các cán bộ nữ nên bày tỏ quan điểm của họ với lãnh đạo và làm cho lãnh đạo hiểu rằng họ cần được hỗ trợ phù hợp. Hiện tại, phần lớn các vị trí lãnh đạo đều do nam giới đảm nhận tại hầu hết các đơn vị và không có thứ trưởng nữ. Cần nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo nữ của Bộ để tiến tới ít nhất phải bổ nhiệm được một Thứ trưởng là nữ. Cần có nhiều phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo hơn để có đủ quyền lực để hỗ trợ vấn đề bình đẳng giới. Một cán bộ được phỏng vấn thậm chí còn nói thẳng: “Phải qui định mỗi Bộ phải có một nữ Thứ trưởng. Nhà nước tiếc gì mà không bổ nhiệm một đồng chí nữ Thứ trưởng làm Trưởng ban VSTBPN?” (nam, 48 tuổi, chuyên viên, Vụ). Các mục tiêu nêu trong Chiến lược Giới về việc đề bạt các cán bộ nữ không sát với thực tế bởi vì hầu hết các vị trí lãnh đạo đã đủ và chưa có thay đổi trong cơ cấu biên chế trong thời gian tới. Khi xây dựng Chiến lược Giới và Kế hoạch hành động Giới đã chưa xem xét kỹ tới các chính sách về nhân sự và công tác tổ chức cán bộ nên các mục tiêu đề ra không thực hiện được. Việc qui hoạch cán bộ lãnh đạo nữ phải phù hợp với qui hoạch cán bộ của đơn vị. Nhiều đơn vị không có đủ cán bộ nữ hoặc các cán bộ nữ không đủ tiêu chí để đảm đương các vị trí lãnh đạo: “Tôi cho rằng Kế hoạch hành động Giới là không khả thi. Quy định tỉ lệ cán bộ lãnh đạo nữ trong Bộ nhưng nguồn ở đâu?” (nam, 50 tuổi, lãnh đạo, Vụ). Các mục tiêu và các chỉ tiêu trong vấn đề nhân sự nêu trong Kế hoạch hành động cần phải được đánh giá cẩn thận và chính xác và nhiều chỗ cần được làm rõ hơn, ví dụ nêu chi tiết về các vị trí cần được đảm đương bởi một tỉ lệ nữ nhất định. 13
  14. Nhiều cán bộ nữ có đủ kỹ năng và năng lực để đảm đương các vị trí lãnh đạo nhưng lại quá già3. Để đưa nữ vào qui hoạch, năng lực của các công chức, viên chức nữ tại mỗi đơn vị cần được quyết định và nâng cao theo nhu cầu. Một phần trong chính sách cán bộ cần giúp các cán bộ nữ tự tin hơn và giao trách nhiệm cho họ theo năng lực. 5. Tập huấn chuyên môn • Việc đào tạo cán bộ là một quá trình lâu dài và cần được bắt đầu ngay từ khi cán bộ mới bắt tay vào công việc và cần được thực hiện thường xuyên nhằm dần tăng cường năng lực cho họ. Nhiều người trả lời phỏng vấn nhấn mạnh rằng việc lựa chọn cán bộ để bồi dưỡng chuyên môn không phụ thuộc vào giới tính mà phụ thuộc vào những yêu cầu của từng vị trí. Các cán bộ nữ không nên phụ thuộc vào một tỉ lệ cố định để có cơ hội được đào tạo mà phải cố gắng “thể hiện mình”. • Khó khăn lớn đối với nhiều cán bộ nữ trong việc tiếp cận với những cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn là bổn phận gia đình, chồng con họ và địa điểm tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn. Nhiều người trả lời phỏng vấn gợi ý nên tạo cơ hội cho các cán bộ nữ tham gia các khoá tập huấn bồi dưỡng chuyên môn và các lớp ngoại ngữ trong giờ hành chính nếu họ vẫn hoàn thành nhiệm vụ. Cần có một số biện pháp khuyến khích các cán bộ nữ tham gia các khoá bồi dưỡng chuyên môn buổi tối nhằm giúp họ nâng cao kỹ năng. Lãnh đạo nên tạo động cơ cho nhân viên nâng cao kỹ năng và nên có các biện pháp khuyến khích cán bộ học sau đại học. Ví dụ, Trường Đại học Lâm nghiệp yêu cầu tất cả cán bộ giảng dạy phải học cao học sau 2 năm công tác và phải học ngoại ngữ. Đội ngũ cán bộ hành chính, cán bộ phục vụ của các trường, các viện ít có cơ hội được đào tạo, bồi dưỡng nên cần hỗ trợ họ tham gia các khoá đào tạo, tập huấn và đưa họ vào trong kế hoạch đào tạo của cơ quan. • Để giúp các cán bộ nữ tự tin hơn, các khoá tập huấn về chuyên môn nên tổ chức làm việc theo nhóm thảo luận có trọng tâm và tổ chức thuyết trình trước cả lớp. • Một số cán bộ nữ làm công tác nghiên cứu cho biết rất khó đạt được các chức danh học hàm bởi vì họ không thể đáp ứng được các tiêu chí đề ra (ví dụ số giờ giảng) do những trở ngại về công việc và trách nhiệm gia đình. • Tỉ lệ nữ nông dân tham gia các khoá tập huấn khuyến nông rất thấp bởi các cán bộ không quan tâm và cam kết ấn định một tỉ lệ tối thiểu nữ tham gia. Mục tiêu, tiêu chí bắt buộc về sự tham gia của nữ trong các khoá tập huấn khuyến nông cần được xác định tuỳ theo tình hình địa phương và nội dung khoá học. Lãnh đạo chịu trách nhiệm trực tiếp cần đưa ra những hướng dẫn cụ thể, đảm bảo tinh thần trách nhiệm của nhân viên và thường xuyên kiểm soát việc thực hiện. 3 Độ tuổi đề bạt tối đa với nữ là 50 và với nam là 55. 14
  15. 6. Lương Lương nên trả theo chức vụ, trách nhiệm và năng lực chứ không nên dựa theo thâm niên công tác. Các đơn vị trong Bộ có thể đưa ra những chính sách riêng để điều chỉnh mức lương theo từng vị trí. II. Phúc lợi xã hội Các câu hỏi về phúc lợi xã hội không được hỏi sâu bởi đó không phải là trọng tâm của nghiên cứu này. Tuy nhiên, các phỏng vấn viên đã thu thập được một số ý kiến sau: Các khoản phúc lợi thường do phái nam soạn thảo và không thỏa mãn được những yêu cầu của phái nữ. Cần đảm bảo sự tham gia của phái nữ khi đưa ra các quyết định về phúc lợi xã hội nhằm đạt được sự bình đẳng về giới. 1. Chăm sóc sức khoẻ Hiện tại, việc tổ chức kiểm tra sức khoẻ cho các cán bộ nữ ở cơ quan Bộ làm không được thường xuyên. Vì vậy nên tổ chức kiểm tra sức khoẻ hàng năm cho các cán bộ nữ và phải đảm bảo chất lượng. 2. Nghỉ đẻ và chăm sóc con khi ốm Bổn phận xã hội của phụ nữ là phải sinh nở và chính điều này lại dẫn đến những thiệt thòi trong công tác của họ về vấn đề tiền thưởng: việc nghỉ đẻ 4 tháng ảnh hưởng tiêu cực đến việc bình xét thi đua cuối năm và làm cho các cán bộ nữ nghỉ đẻ không được nhận tiền thưởng như những cán bộ khác. Trường hợp nghỉ ốm cũng tương tự như vậy và cần phải được đưa ra thảo luận và cải tiến. • Nghỉ chăm sóc con cái chỉ dành cho phái nữ: “Tại sao chỉ có con ốm - mẹ nghỉ mà không có con ốm - bố nghỉ?” (nữ, 52 tuổi, lãnh đạo, một tổ chức quần chúng). • Các cán bộ nữ trong khối kinh doanh trực thuộc Bộ cho rằng hiệu quả công việc của những người làm thay họ trong thời gian họ phải nghỉ đẻ thường kém hơn vì không quen việc. Và điều này sẽ dẫn đến tình trạng cán bộ nữ đó phải làm nhiều việc hơn sau kỳ nghỉ đẻ. Cần bố trí những cán bộ có đủ kỹ năng để thay thế họ. 3. Nghỉ hưu Các cán bộ trả lời phỏng vấn đã bày tỏ nhiều quan điểm khác nhau về độ tuổi nghỉ hưu: • Độ tuổi nghỉ hưu của nam và nữ nên bằng nhau. • Tuổi nghỉ hưu nên là 60 cho cả nam và nữ nhưng nữ được phép nghỉ sớm hơn. • Các cán bộ nữ có năng lực và kỹ năng chuyên môn giỏi không nên nghỉ ở tuổi 55. Tuổi nghỉ hưu nên cố định nhưng có thể kéo dài quá trình công tác của họ như những chuyên gia tư vấn. 15
  16. • Các cán bộ khối kinh doanh nên được nghỉ hưu trước tuổi 55 vì sức khoẻ của họ thường bị sa sút. • Tuổi nghỉ hưu hiện nay là 55 đối với nữ và 60 đối với nam nhưng thời gian phải đóng bảo hiểm xã hội lại bằng nhau (30 năm) vì vậy nên giảm cho phái nữ. III. Gia đình và công việc • Phụ nữ phải đảm đương một lượng công việc lớn hơn vì ngoài công việc cơ quan họ còn bổn phận với chồng con và gia đình. Mặc dù hiện đã có nhiều chính sách cho phụ nữ, nhưng lối tư duy kiểu cũ và thói quen gia trưởng vẫn còn rất nặng nề. Những phụ nữ trí thức làm việc trong ngành kỹ thuật thường muốn thể hiện hình ảnh của một người phụ nữ hiện đại trong xã hội và thường không dám nói về những khó khăn họ gặp phải đối với lối tư duy kiểu cũ và gánh nặng công việc mà họ phải đảm đương. • Ý tưởng xây dựng nhà trẻ tại các nông trường vùng sâu, vùng xa thuộc khối kinh doanh, nơi có nhiều nữ công nhân mà họ rất khó khăn trong việc tiếp cận tới các cơ sở chăm sóc trẻ khác đã được nêu ra. Ví dụ một nông trường trực thuộc Tổng công ty Rau quả, nông sản Việt Nam đã thực hiện rất thành công vấn đề này. Bộ NN & PTNT cùng với ngành giáo dục địa phương nên hỗ trợ xây dựng những nhà trẻ như vậy. Một số trường trực thuộc Bộ có nhiều cán bộ nữ cũng đã xây dựng nhà trẻ, tuy nhiên cần phải cải tiến thêm. Có thể thực hiện bằng cách cho tư nhân đầu tư hoặc Công đoàn đứng ra rồi tiến hành thu phí hàng tháng. Bộ NN & PTNT nên ủng hộ sáng kiến này. • Các trường cũng đã có những thay đổi tuy nhỏ nhưng khá hiệu quả khi đưa ra một số quy định về mặt tổ chức nhân sự, ví dụ bố trí một thời gian biểu phù hợp hơn cho các giáo viên nữ có con nhỏ nhằm giúp họ dung hoà được giữa nhiệm vụ lên lớp với việc chăm sóc con cái. Cần phải nâng cao nhận thức của các vị lãnh đạo trong Bộ, làm cho họ hiểu và hỗ trợ các cán bộ công chức trong cuộc sống gia đình: “Em nghĩ nhận thức về giới phải được phổ biến xuống từng gia đình, phải bổ sung cho nam giới để các ông ấy phải biết để thông cảm với chị em ở cơ quan và vợ họ ở gia đình” (nữ, 35 tuổi, giảng viên, trường Đại học). IV. Môi trường làm việc • Cần xây dựng, kiểm tra và cải thiện điều kiện các nhà vệ sinh, phòng thay đồ cho cả nam và nữ tại những đơn vị sản xuất trực thuộc Bộ. • Nên có phòng nghỉ trưa cho phụ nữ, nhất là các cơ sở mà nơi làm việc cách xa nhà. • Việc kiểm tra chất lượng thịt tại các lò giết mổ gia súc thường khó khăn và nguy hiểm cho các nữ kiểm dịch viên do điều kiện khắc nghiệt và thái độ của những người giết 16
  17. mổ. Cần đảm bảo an ninh cho phụ nữ hoặc chỉ nên phân công nam giới đảm trách công việc này. • Các qui chế đối với phụ nữ mang thai làm việc nơi độc hại chưa đủ, cần rà soát lại và kiểm soát nghiêm ngặt việc thực hiện. V. Cơ cấu tổ chức Việc phân cấp nhiệm vụ giữa các Cục và văn phòng đại diện tại phía Nam chưa cụ thể, đang gây ra tình trạng thiếu rõ ràng về mặt nhiệm vụ, trách nhiệm và sự chỉ đạo hoạt động: “Trong cơ cấu của Cục, đối với đại diện như chúng tôi nếu có thể cắt bỏ thì nên cắt bỏ, còn nếu không thì phải đối xử với chúng tôi như thế nào?” (nam, 50 tuổi, chuyên viên, đại diện một Cục ở phía Nam). Thiếu các qui định rõ ràng về trách nhiệm của các Cục/ Vụ cũng gây khó khăn cho việc thực hiện các hoạt động liên quan đến vấn đề cán bộ và hòa nhập giới, ví dụ như trách nhiệm trong việc lập kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ mới. Năng lực lập kế hoạch của cán bộ còn yếu và việc thiếu số liệu về nguồn nhân lực tại cấp địa phương làm cho việc lập kế hoạch trở nên khó khăn hơn. Hy vọng rằng hệ thống thông tin quản lý cán bộ (PMIS) do Dự án CCHC hỗ trợ sẽ hoạt động có hiệu quả vì lợi ích của cán bộ cả nam và nữ. Bộ NN & PTNT nên xây dựng các qui chế và tăng cường hệ thống thu thập số liệu bởi số lượng thông tin phản hồi nhận được từ các đơn vị và các địa phương còn ít. VI. Nhận thức và tập huấn về giới 1. Nâng cao nhận thức về giới Việc thay đổi quan điểm của người lớn rất khó vì vậy cần nâng cao nhận thức ngay từ khi còn trẻ. “Phải tập huấn cho cả nam giới để họ hiểu rằng nữ giới làm việc như vậy là quá nhiều, vì đôi khi người ta nghĩ phụ nữ phải là như thế, phải cung phụng chồng” (nam, 35 tuổi, Phó phòng, Cục). Cần phân bổ ngân sách để tổ chức những chiến dịch nâng cao nhận thức chung trong Bộ NN & PTNT: “Đàn ông là cây cổ thụ còn phụ nữ là người phục vụ, là ngọn cỏ dưới chân thôi” (thảo luận nhóm tại thành phố Hồ Chí Minh, đại diện nhóm nữ). Lãnh đạo các cấp của Bộ NN & PTNT cần thay đổi nhận thức về Ban VSTBPN: “Nói gì thì nói, Ban VSTBPN muốn bình đẳng về giới thì phải từ các sếp. Nếu trên Bộ mà coi thường thì ở dưới ai người ta coi trọng, nên giải pháp tốt nhất là từ các thủ trưởng, các thủ trưởng mà tốt thì nhân viên sẽ tốt” (nữ, 52 tuổi, lãnh đạo, một tổ chức quần chúng). 17
  18. Để nâng cao nhận thức chung rộng khắp cả nước, nhất là với khu vực nông thôn thì hệ thống thông tin đại chúng vẫn có hiệu quả hơn so với các tài liệu, sách hay tờ rơi. Vấn đề giới cần được lồng ghép vào các hoạt động khuyến nông và tài liệu tập huấn (ví dụ như sử dụng những hình ảnh có nhiều nông dân là nữ). Dự án CCHC đã được đề xuất một số hoạt động sau: • Tổ chức một cuộc thi tìm hiểu về giới để tăng cường sự quan tâm của công chức, viên chức đối với vấn đề giới (giống như cuộc thi tìm hiểu về Cải cách hành chính mà Dự án đã làm). • Dự án CCHC có thể ra bản tin hàng tháng về giới và quá trình Cải cách hành chính hoặc thường xuyên có bài đăng trên tạp chí hiện nay của Bộ. • Sau khi hoàn thành công trình nghiên cứu này nên tổ chức một hội thảo để phản hồi lại cho ít nhất là các đơn vị đã tham gia và đưa ra một danh sách các hoạt động về giới cần được ưu tiên. 2. Tập huấn về giới Không nên tổ chức những khoá tập huấn về giới riêng biệt bởi nhiều người sẽ không muốn tham gia vì những quan điểm thành kiến. Để tăng hiệu quả, tập huấn về giới nên được lồng ghép vào kế hoạch đào tạo của các khoá tập huấn về chuyên môn (ví dụ với khoá tập huấn về chuyên môn trong 1 tuần thì có thể lồng ghép giới khoảng nửa ngày hoặc hơn). Ngoài ra, có thể lồng ghép các hoạt động về giới vào trong những chủ đề nhỏ của các cuộc hội thảo, chỉ tốn ít thời gian chứ không nên tổ chức những cuộc hội thảo lớn rất tốn kém: "Người ta nghe dần mỗi lần một ít thì hay hơn nghe cả ngày” (nữ, 53 tuổi, lãnh đạo, Tổng công ty). Đã có những gợi ý cho các lãnh đạo Bộ và các Sở NN & PTNT rằng vấn đề giới có thể được lồng ghép vào trong những buổi hội thảo với nhan đề hấp dẫn như “Tiếp thị sản phẩm nông nghiệp trong các quốc gia ASEAN”. Bằng cách lồng ghép giới vào trong các khoá tập huấn và hội thảo, các công chức, viên chức sẽ dần quen với lối tư duy mới. Đã có những ví dụ về các khoá đào tạo bồi dưỡng chuyên môn ở nước ngoài có lồng ghép giới vào các chủ đề khác nhau (ví dụ như vai trò của phụ nữ trong việc hạn chế thiên tai hay vai trò của người cao tuổi...) và hầu hết các cán bộ đã học được cách lồng ghép giới vào trong những hoạt động chuyên môn. Chỉ có một phụ nữ đưa ra ý kiến trái ngược cho rằng không nên lồng ghép giới vào trong tập huấn về chuyên môn đối với các Cục/ Vụ chỉ có toàn nam giới. Theo quan điểm của cán bộ đó thì giới chỉ liên quan đến phụ nữ và chỉ nên tổ chức tập huấn về giới cho các cán bộ nữ. Giới nên được coi như một môn học và một chủ đề thi cho tất cả các công chức, viên chức được đào tạo tại 2 Trường Cán bộ quản lý. Bộ NN & PTNT nên phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành một quyết định chính thức về vấn đề này và có kế hoạch phân bổ ngân sách cần thiết. Bằng cách lồng ghép giới vào các khoá đào tạo công chức, viên chức thì các phạm trù về giới có thể được cảm nhận là một trong những nhiệm vụ chuyên môn và chúng không chỉ hạn chế ở các hoạt động xã hội. 18
  19. 2.1. Phương pháp tập huấn Nhiều người trả lời phỏng vấn gợi ý rằng các cán bộ tập huấn về giới nên sử dụng phương pháp có sự tham gia của học viên và đòi hỏi họ phải có khả năng trình bày vấn đề một cách sinh động, hấp dẫn để làm tăng sự quan tâm của học viên. Khi tập huấn nên tổ chức nhiều hoạt động theo nhóm, chia nhóm thảo luận để khuyến khích học viên tích cực tham gia vào chương trình tập huấn. Để việc tập huấn có hiệu quả, nên giới hạn số người tham dự mỗi lớp tối đa là 30 người. Cần phải xây dựng kế hoạch tập huấn chi tiết và ngân sách tập huấn nên bao gồm cả những hoạt động hỗ trợ tiếp theo vì nếu chỉ có phần tập huấn như vậy thì chưa hiệu quả. Không nên xây dựng kế hoạch tập huấn giới kéo dài liên tục mà nên chia nhỏ thành những bài ngắn nối tiếp nhau. Làm như vậy sẽ thu hút được đông đảo học viên hơn và việc tham gia của họ cũng thuận tiện hơn. Cũng nên có những cán bộ đào tạo là nam giới để tránh tạo cảm giác rằng giới là một vấn đề chỉ liên quan đến phụ nữ. 2.2. Tài liệu tập huấn Thiếu tài liệu về giới, các tài liệu hiện có không được phân phát hoặc khó tiếp cận và thông tin về giới còn quá nghèo nàn: “Bọn em chưa có một tài liệu cụ thể nào về giới. Có chị phụ trách về vấn đề này đi họp thì chỉ có một bộ tài liệu cho chị ấy. Chị ấy nói cái gì thì bọn em biết cái đó, còn thực ra tài liệu rộng rãi thì bọn em chưa có” (nữ, 38 tuổi, chuyên viên, Vụ). Cần sửa đổi, chuẩn hoá các tài liệu tập huấn về giới hiện có và nâng cao nhận thức về giới: “Chị đã tham dự tập huấn về giới và đã đọc một tập tài liệu. Nói thực có nhiều chỗ chị không hiểu, thế thì hỏi làm sao có thể vận dụng để bình đẳng giới?” (nữ, 51 tuổi, chuyên viên, Cục). Nhìn chung, tài liệu nên ngắn gọn và có trọng tâm chứ không nên là “quyền sách dày chẳng ai muốn đọc”. Ban VSTBPN của Bộ nên có cán bộ chịu trách nhiệm thu thập các thông tin liên quan đến phạm trù giới và đăng tải trên mạng nội bộ của Bộ. 2.3. Nội dung tập huấn Đối với nhiều công chức, viên chức thì nội dung của các khoá tập huấn về giới rất khó hiểu và quá trừu tượng: “Giảng viên rất nhiệt tình, nội dung cũng phong phú nhưng chị ấy truyền đạt bị "Tây hóa", đưa ra các cụm từ người nghe không hiểu, nghe lạ nhưng không tiện hỏi, có thể do họ ngại” (nam, 59 lãnh đạo, một tổ chức quần chúng). Các chủ đề tập huấn nên thực tế hơn và nên xây dựng một mối liên kết thực tế với các hoạt động chuyên môn. Nội dung cần phải phù hợp và hấp dẫn với từng nhóm đối tượng với trình độ học vấn khác nhau. Nhiều người đã từng tham dự tập huấn cho rằng cần phải trình bày theo cách hấp dẫn hơn thì mới có hiệu quả: “Có một số người đã tham dự một lần rồi, nhưng mời đi tiếp họ không đi vì cho rằng nó rất chán” (nữ, 53 tuổi, lãnh đạo, Tổng công ty). Hơn nữa, nên có những chủ đề tập huấn khác nhau cho các đối tượng khác nhau là lãnh đạo, nhân viên và các thành viên của Ban VSTBPN. Nội dung tập huấn cho lãnh đạo nên tập trung vào cách hòa nhập giới, kỹ năng lập kế hoạch lồng ghép giới và thực hiện các 19
  20. chính sách, trong khi đối với các công chức, viên chức nên tập trung vào vấn đề giới có liên quan đến công việc hàng ngày của họ. Đối với khối kinh doanh của Bộ, nội dung các khoá tập huấn nên ngắn gọn vì họ thường bị hạn chế về thời gian. Một số cán bộ được phỏng vấn gợi ý nên tổ chức các chuyến nghiên cứu khảo sát cho cán bộ lãnh đạo để họ được tận mắt chứng kiến và học hỏi kinh nghiệm hòa nhập giới thành công của các nước khác. Dự án CCHC nên hỗ trợ xây dựng một kế hoạch đào tạo về giới. Cũng có những gợi ý nên thuê chuyên gia quốc tế để cải tiến nội dung tập huấn và đào tạo các tiểu giáo viên. Tuy nhiên, cần phải rà soát lại nội dung tập huấn giới của nước ngoài để cải biên cho phù hợp với tình hình địa phương và của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Việc tập huấn về giới nên do các tập huấn viên của Việt Nam đảm nhận vì các bài trình bày của chuyên gia nước ngoài thường quá trừu tượng. 2.4. Học viên Nhiều người trả lời phỏng vấn rất muốn được tham gia tập huấn về giới. Phụ nữ cho rằng việc tập huấn về giới là quan trọng đối với họ vì nó sẽ giúp họ cảm thấy tự tin hơn. Đặc biệt những cán bộ nữ trẻ nên được tập huấn để giúp họ giảm bớt cảm giác tự ti. Nói chung, thành phần nữ giới tham gia các khoá tập huấn về giới thường cao hơn nam vì giấy mời chủ yếu được gửi cho nữ và nam giới không quan tâm đến vấn đề đó nhiều lắm vì họ cho rằng đó là vấn đề của phụ nữ. Các cán bộ tham gia buổi thảo luận nhóm tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết nam giới không có cơ hội tham gia các khoá tập huấn về giới: “Chúng tôi chẳng nghe, chẳng được tập huấn một lần nào cả. Thậm chí khi nói về giới thì cho rằng đây là vấn đề nâng cao vai trò phụ nữ, chứ chẳng nghĩ giới là nói cả vấn đề về nam giới. Chúng tôi chưa được đào tạo và cũng không hiểu lắm về giới” (thảo luận nhóm tại thành phố Hồ Chí Minh, đại diện nhóm nam). Các vị lãnh đạo chẳng mấy khi tham gia các khoá tập huấn về giới vì họ quá bận. Họ thường cử nhân viên đi thay hay thực sự không tích cực tham gia vào khoá học: “Một ngày tôi phải xử lý mấy chục cái công văn, do vậy đã có tập huấn về giới rồi mà tôi cũng không nhớ hết” (nam, 51 tuổi, lãnh đạo, Vụ). Để hòa nhập giới có hiệu quả thì tất cả công chức, viên chức cả nam và nữ, đặc biệt là các cán bộ lãnh đạo, những người ra quyết định đều nên tham dự các khoá tập huấn về giới. “Đơn cử một cái nhỏ là cứ nói đến tập huấn về giới là các thủ trưởng lại chuyển hết cho phụ nữ, cứ "kính chuyển" thì thực sự chúng tôi rất buồn. Do vậy quan niệm của các thủ trưởng là quan trọng nhất” (thảo luận nhóm với cán bộ lãnh đạo tại Hà Nội). Hầu hết các cán bộ trả lời phỏng vấn đều cho rằng nhận thức về giới của đội ngũ cán bộ lãnh đạo là vô cùng quan trọng, để nâng cao hiệu quả hòa nhập giới thì việc tập huấn về giới là bắt buộc đối với họ: “Phải tập huấn về giới cho các đồng chí lãnh đạo trước rồi mới đến nhân viên” (nữ, 51 tuổi, Trưởng phòng, thành viên Tiểu ban VSTBPN, một đơn vị thuộc Bộ). Phải nâng cao nhận thức cho các vị lãnh đạo “từ đào tạo công chức, quản lý hành chính, các lớp cao cấp chính trị cũng phải lồng ghép vấn đề giới để người ta ngấm dần chứ đến 20
nguon tai.lieu . vn