Xem mẫu

  1. Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng (phần 1)
  2. Mục đích của nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ là làm sáng tỏ những nét tương đồng và không tương đồng hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét không tương đồng của hai hay nhiều ngôn ngữ. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu của đối chiếu ngôn ngữ là nguyên tắc đồng đại. Dẫn Nhập Trong quá trình sử dụng ngoại ngữ và dịch thuật, văn bản là công cụ không thể thiếu. Hiện nay, các thể loại văn bản tiếng Việt và tiếng Anh đang được sử dụng nhiều nhất trong giao tiếp. Ngữ pháp văn bản tiếng Việt và tiếng Anh là mục tiêu và đối tượng cần chú ý nhất trong quá trình dạy và học tiếng Anh, cũng như dịch thuật Anh - Việt và Việt - Anh. Theo các nghiên cứu ban đầu của chúng tôi, cần thiết phải có các tài liệu ngữ pháp đối với các văn bản mang đặc tính chuyên ngành dưới dạng đối chiếu giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ được học hoặc nghiên cứu nhằm giúp người học hoặc nghiên cứu tiếp nhận một cách nhanh chóng các kiến thức tiên tiến bằng ngoại ngữ. Hơn thế nữa, trên cơ sở ngữ pháp được học, người học có thể nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình và làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.
  3. Thực tế lịch sử phát triển của tri thức khoa học thể hiện một quá trình liên tục và có tính kế thừa. Nội dung của các thuật ngữ về nghiên cứu đối chiếu cũng được xác định trong quá trình phát triển biện chứng lịch sử đó. Thuật ngữ "đối chiếu" thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ. Mục đích của nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ là làm sáng tỏ những nét tương đồng và không tương đồng
  4. hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét không tương đồng của hai hay nhiều ngôn ngữ. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu của đối chiếu ngôn ngữ là nguyên tắc đồng đại. Trong các tài liệu bằng tiếng Nga, thuật ngữ "đối chiếu ngôn ngữ" (phương pháp đối chiếu, ngôn ngữ học đối chiếu) được đưa vào sử dụng khá sớm bởi các nhà ngôn ngữ học như E.D.Polivanov (1933), V.D.Arakin (1946), V.H.Jaxeva (1960), V.G.Gak (1961), N.P.Fedorov (1961), O.C.Akanova (1966) và v.v. Từ 1970 đến nay, trong ngôn ngữ học hiện đại, thuật ngữ được sử dụng nhiều hơn cả là "ngôn ngữ học đối chiếu" (contrastive linguistics. Trong các tài liệu bằng tiếng Anh, lúc đầu được phổ biến là thuật ngữ "so sánh" (comparative) với nội dung đối chiếu. Từ năm 1960 trở về đây, thuật ngữ "ngôn ngữ học đối chiếu" (contrastive linguistics) bắt đầu được sử dụng phổ biến, dần dần thay thế cho thuật ngữ "so sánh" (comparative). Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học Anh, các thuật ngữ truyền thống được dùng tương đối lâu dài. Ví du, trong các công trình của Haliday, Mackintơn, Tơrevưn và một số tác giả khác, thuật ngữ "so sánh" (comparative) vẫn được sử dụng đến năm 1961, còn Elie đã dùng thuật ngữ "comparative" với nghĩa đối chiếu cho đến năm 1966.
  5. Theo từ điển nhiều tập Oxford (1933), tính từ "comparative" được định nghĩa căn cứ vào cách dùng của từ này khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nội dung nghĩa thường nhấn mạnh đối chiếu những điểm khác nhau giữa hai hoặc hơn hai đối tượng được khảo sát, theo thời gian, thuật ngữ "đối chiếu" được sử dụng với nghĩa mở rộng để chỉ đúng hiện thực nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ. Trong các tài liệu bằng tiếng Pháp, việc sử dụng thuật ngữ "đối chiếu" cũng diễn ra tương tự: thời kì đầu sử dụng thuật ngữ "comparée" và các từ phái sinh của nó. Sau đó, thuật ngữ "contrastive" được thay thế cho "comparative" mang nghĩa đối chiếu và ngày càng được sử dụng rộng rãi (Potie 1971, Duboa 1973, Gato 1974, Pioro 1977 và v.v.). Hiện nay, trong các tài liệu bằng tiếng Pháp thường sử dụng phổ biến thuật ngữ "linguistique contrastive" (hoặc differentielle). Tương ứng với thuật ngữ này, trong các tài liệu tiếng Nga thường sử dụng "контративная лингвистика" của các tác giả V.G.Gak và A.B.Fedorov. Đối chiếu các ngôn ngữ Đối chiếu các ngôn ngữ cho khả năng xác định không chỉ các dữ kiện và hiện tượng có các chức năng tương tự trong các ngôn ngữ được đối chiếu, mà còn xác định vị trí của chúng trong các hệ thống theo chức năng. Ví dụ:
  6. khi đề cập đến hệ thống các phương tiện mang nghĩa chỉ hành động, có thể nói rằng trong tiếng Anh tiếp tố -er chắc chắn là hạt nhân của hệ thống chức năng các phương tiện tạo ra danh từ chỉ vật mang hành động, hơn nữa, tiếp tố này có khả năng to lớn trong việc tạo lập các danh từ trên cơ sở một động từ bất kì. Trong tiếng Việt, nhân tố được dùng để tạo từ chỉ người hành động thường là từ riêng biệt và được gọi là từ tố, ví dụ "viên" trong các từ nhân viên, sinh viên, viên chức và v.v. Nghiên cứu đối chiếu ngữ pháp trong văn bản khoa học giải quyết các quan hệ tương đồng và không tương đồng về cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ khoa học. Trong phân tích đối chiếu ngôn ngữ, các hiện tượng ngôn ngữ càng giống nhau thì càng có nhiều tương đồng về cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ được đối chiếu. Ví dụ: khi đối chiếu tiếng Việt với tiếng Hán hoặc với tiếng Thái thì mức độ giống nhau nhiều hơn là đối chiếu tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng Nga hoặc tiếng Bun. Trong trường hợp đối chiếu các ngôn ngữ rất khác nhau về loại hình thì sẽ tìm thấy nhiều điểm khác nhau về cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ. Sự khác nhau này có tính hệ thống, khái quát (thanh điệu trong tiếng Việt, cách trong tiếng Nga v.v.).
  7. Nếu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Anh thì sẽ tìm thấy nhiều điểm giống nhau hơn trong ngôn ngữ (cùng là các ngôn ngữ phân tích tính, trật tự câu rõ ràng v.v.). Trong các ngôn ngữ khi đối chiếu luôn tồn tại sự không tương đồng về ngữ pháp, ngữ nghĩa hoặc tuyến dẫn xuất nghĩa phái sinh. Ví dụ, từ loại tiếng Việt và tiếng Anh có sự không tương đồng về số lượng và loại hình. Sự không tương đồng về nghĩa thể hiện cả ở khái niệm ngữ nghĩa của từ, ví dụ, các sắc thái về mầu sắc là không như nhau trong cả hai ngôn ngữ Anh và Việt: từ blue tiếng Anh được chuyển dịch sang tiếng Việt với hai nghĩa xanh lơ và xanh nước biển. Mầu sắc trong tiếng Việt được thể hiện bằng các từ theo mô hình hợp nghĩa, phụ nghĩa và láy lại để tạo ra hàng loạt đơn vị ngôn ngữ với sắc thái chi tiết hơn so với từ chỉ mầu sắc trong tiếng Anh, ví dụ: xanh - xanh xanh, xanh nhạt, xanh thắm, xanh da trời, xanh nõn chuối, xanh nước biển, xanh biếc (biêng biếc), xanh lè, xanh lục, xanh thổ cẩm, xanh cẩm thạch, xanh rêu... Trong hệ thống ngữ pháp tiếng Anh hiện đại không tồn tại phạm trù cách và giống, không có khái niệm hai động từ đối lập nhau: chưa hoàn thành thể / hoàn thành thể, ví dụ như trong tiếng Nga. Phần lớn các cụm từ tiếng Anh được thể hiện ở dạng cụm từ chính phụ, chính xác hơn, ở dạng cụm từ cố định hoặc thành ngữ (phrases).
  8. Các cụm từ này được tạo thành trên cơ sở liên kết phụ thuộc, bao gồm hai thành tố: thành tố chính (hạt nhân) - kernel và thành tố phụ (bổ sung từ) - adjunct. Cũng như tiếng Việt, trật tự các thành phần của cụm từ tiếng Anh có ý nghĩa chủ yếu: một danh từ bất kì đứng trước một danh từ khác đều thực hiện chức năng định ngữ. Ví dụ: An air-flow meter - khí cụ đo lưu lượng không khí Anticorrosive paint - sơn chống gỉ Liên kết chính phụ không chỉ được thể hiện ở cụm danh từ, mà còn ở cụm động từ (to work hard, to fly a plane, to decide to stay, to begin singing, to wait for news...), cụm tính từ (very difficult, proud of his son,...). Có thể thấy rõ rằng trong tiếng Việt và trong tiếng Anh cấu trúc câu cùng tuân thủ một trật tự là C - P - O. Thành phần chính của cấu trúc câu trong cả hai ngôn ngữ Việt và Anh là chủ ngữ S và vị ngữ V, hạt nhân của cấu trúc câu là vị ngữ V. Vị ngữ là thành phần thiết yếu, không thể thiếu trong cấu trúc một câu bất kì, bởi vì nếu thiếu vị ngữ thì không tồn tại tính vị ngữ của cấu trúc câu, nghĩa là không tồn tại sự biểu thị các quan hệ thông báo đối với hiện thực. Chủ ngữ cũng là thành phần cần thiết trong phần lớn các cấu trúc câu, bởi vì nó chỉ nghĩa sự vật của lời nói hoặc văn bản tạo nên cơ sở nội dung trần thuật, và do đó, tạo nên nội dung giao tiếp. Câu có cấu trúc gồm cả chủ ngữ và vị ngữ thì được gọi là câu hai thành phần.
  9. Trong tiếng Việt và tiếng Anh, vị trí các thành phần của câu đều có vai trò quan trọng trong cấu trúc câu. Việc thay đổi vị trí của vị ngữ (vật mang thông tin chủ yếu của câu) đối với chủ ngữ, nghĩa là thay đổi trật tự từ trong cấu trúc câu thường dẫn đến việc nội dung thông báo của câu bị thay đổi, hơn nữa, có thể dẫn đến sự thay đổi cả hình thức cấu trúc câu và sắc thái của nó. Vị trí của vị ngữ đối với chủ ngữ có thể rất đa dạng ở các ngôn ngữ khác nhau. Phần đối chiếu này không hạn chế trong phạm vi hai ngôn ngữ Việt - Anh. Nghiên cứu có thể được mở rộng hơn đối với các ngôn ngữ khác để trên cơ sở này người học có thể phát triển nghiên cứu đối chiếu không chỉ hai ngôn ngữ Việt - Anh, mà còn đối với các ngôn ngữ khác. Phạm vi đối chiếu có thể được phân định theo các nguyên tắc sau: - Làm sáng tỏ đặc điểm thể hiện các phạm trù ở ngôn ngữ được nghiên cứu như thời, thể, xác định, không xác định, phạm trù giống, số, cách, đa nghĩa, đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa v.v. - Đối chiếu các đặc điểm cấu tạo âm vị, hình vị, từ loại, cú pháp v.v. - Đối chiếu các đặc điểm hoạt động, hành chức của các hiện tượng, phạm trù ngôn ngữ trong giới hạn các cấp độ.
  10. - Đối chiếu các phong cách chức năng. - Đối chiếu tiến trình phát triển nhằm làm sáng tỏ các quy luật phát triển và quá trình biến đổi xảy ra trong nội bộ các ngôn ngữ được nghiên cứu. (còn tiếp)
nguon tai.lieu . vn