Xem mẫu

  1. PHẠM TRÙ Ý THỨC 1. Vấn đề nguồn gốc của ý thức Theo quan điểm chủ nghĩa Mác thì ý thức của con người được bắt nguồn từ 2 nguồn gốc: Tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong đó nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần còn nguồn gốc xã hội mới là điều kiện đủ cho sự hình thành ý thức. a) Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: - Ý thức của con người là sản phẩm tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên cho nên nó có nguồn góc tự nhiên cụ thể là: Thứ nhất: Ý thức của con người là do bộ óc người sinh ra, bộ óc người là một dạng vật chất phức tạp, là sản phẩm tiến hoá cao nhất của tự nhiên, chính là nơi sản sinh ra ý thức. Bộ óc người phải thông qua hoạt động sinh lý thần kinh Thứ hai: Bộ có người cũng không tự sinh ra được ý thức, để ý thức được sinh ra thì cần phải có sự tác động của thế giới khách quan lên các cơ quan cảm giác của con người, cho nên ý thức còn có nguồn gốc từ thế giới khách quan. Thứ ba: Ý thức của con người chỉ là một hình thức phản ánh đặc biệt của thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người, bộ óc người chỉ là một cơ quan phản ánh đặc bịêt cho nên ý thức của con người là kết quả tiến hoá từ thuộc tính phản ánh chung của vật chất. Phản ánh là thuộc tính của một hệ vật chất, có thể tái tạo lại những đặc điểm nào đó cua một hệ vật chất khác khi có sự tác động của 1 hệ vật chất thứ 2 lên nó. Trong quá trình tiến hoá củavật chất năng lực phản anh cũng có sự tiến hoá dần dần từ thấp đến cao, từ phản ánh vật lý thông thường tiến hoá thành phản ánh sinh vật với 2 dạng tính kích thích của động vật và tính cảm ứng thông qua phản xạ tự nhiên của động vật. Từ cảm ứng
  2. động vật sau đó tiến hoá thành tâm lý động vật dựa trên phản xạ có điều kiện và từ tâm lý động vật mới tiến hoá thành ý thức của con người. b) Nguồn gốc xã hội của ý thức: Ý thức của con người chỉ hình thành được trong môi trường xã hội cho nên nó là một sản phẩm mang tính xã hội. Theo Angghen lao động và ngôn ngữ chính là 2 sức kích thích chủ yếu cho sự hình thành và phát triển ý thức của con người. Thứ nhất là vai trò của lao đông: Lao động là 1 hoạt động có ý thức của con người, tác động lên tự nhiên để cải biến tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu lợi ích của con người, nhờ lao động mà cơ thể của con người dần dần hoàn thiện như có dáng đi thẳng, đôi tay linh động, bộ óc phát triển. Trong lao động con người giao tiếp với nhau, và tác động lên tự nhiên, để cải tạo tự nhiên làm cho tự nhiên phải bộc lộ ra những thuộc tính, những mối liên hệ của nó nhờ đó con người nhận thức tự nhiên, làm hình thành lên ý thức về thế giới tự nhiên. Thông qua quá trình giao tiếp mà dần dần hình thành nhu cầu về ngôn ngữ, từ đó tiếng nói xuất hiện Thứ hai: Về vai trò của ngôn ngữ: Ngôn ngữ (tiếng nói) là một hệ truyền tin thứ 2 của con người, hệ truyền tin gián tiếp. Sau khi tiếng nói xuất hiện thì nó lập tức trở thành cái vỏ vật chất của ý thức hay nói như Mác ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy, bởi vì tư duy hay ý thức chỉ có thể tồn tại và biểu hiện được thông qua ngôn ngữ khi suy nghĩ (tư duy) người ta sử dụng hệ ngôn ngữ bên trong, và khi diễn đạt ý nghĩ thì người ta sử dụng ngôn ngữ bên ngoài. Phải có đủ 2 điều kiện trên thì mới tồn tại ý thức của con người. 2. Bản chất của ý thức Ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo của hiện thực khách quan vào bộ óc của con người, được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của họ. Bản chất ý thức được thể hiện ở 3 mặt sau:
  3. a) Mặt phản ánh của ý thức: Ý thức của con người là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người do đó nó là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan. Vì vậy nếu ta xét ý thức theo phương thức tồn tại thì nó là chủ quan bởi nó chỉ tồn tại một cách chủ quan trong đầu óc con người. Nhưng nếu ta xét ý thức teo nội dung phản ánh thì nó là khách quan vì nó mang nội dung về hiện thực khách quan, vì vậy Lênin khẳng định phản ánh bao giờ cũng là phản ánh của tồn tại khách quan. b) Mặt sáng tạo của ý thức: Ý thức không phản ánh thụ động thế giới khách quan mà phản ánh một cách chủ động, tích cực và sáng tạo thế giới, tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ở các phương diện sau: Một là: Thông qua quá trình trao đổi thông tin 1 cách có chọn lọc giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể giữ vao trò chủ động. Hai là: Thông qua quá trình mã hoá các đối tượng vật chất bên ngoại thành các loại hình ảnh tinh thần tương ứng. Mác gọi đậy là hoạt động cải biến, ông nói ý thức chẳng qua chỉ là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở đó. Hoạt động này có thể dẫn đến thứ nhất là sự phản ánh sai lệch, xuyên tạc hiện thực , làm hình thành lên những hình ảnh không có thật. Thứ 2: Làm hình thành lên những loại hình ảnh đúng đắn phản ánh bản chất hiện thực khách quan như là khái niệm, phạm trù, quy luật, học thuyết… Ba là: Ý thức sau khi được hình thành có thể chỉ là hoạt động thực tiễn của con người, để chuyển hoá các ý tưởng trong đầu óc con người thành hiện thực vật chất tương ứng đây được gọi là hoạt động đối tượng hoá. c) Mặt xã hội của ý thức: Ý thức tuy phải tồn tại thông qua đầu óc cá nhân của mỗi người nhưng con người luôn luôn sống trong một mối trường xã hội nhất định và toàn bộ ý thức tư duy của họ chịu sự chi phối của môi trường xã hội ấy , do đó con người ta sống trong những thời đại lịch sử khác nhau thì ý thức
  4. của họ cũng khác nhau. Vì vậy xét cả về nguồn gốc lẫn phương thức thực hiện thì ý thức của con người đều mang tính xã hội, nó có nguồn gốc từ xã hội và nó tồn tại trong xã hội như là 1 sản phẩm chung của mọi người. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC Quan hệ giữa vật chất và ý thức được xem xét trên 2 phương diện: Một là: Trong khuôn khổ vấn đề cơ bản của triết học thì ý thức và vật chất được đặt đối lập nhau. Theo Lê nin sự đối lập trên chỉ là trương đối
nguon tai.lieu . vn