Xem mẫu

  1. NHỮNG KIẾN THỨC, KỸ NĂNG CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN 1
  2. Phần I NHỮNG KIẾN THỨC, KỸ NĂNG CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Chuyên đề 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN 1. Đặc điểm của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo định hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp và nông thôn, xây dựng nông thôn mới giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa. Thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là quá trình phát triển nông thôn theo hướng tiến bộ kinh tế - xã hội của một nước công nghiệp. Điều đó có nghĩa là không chỉ phát triển công nghiệp nông thôn mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và đời sống văn hóa, tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả nước nói chung. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây: 2
  3. - Thứ nhất, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biến đổi về chất,... của các tác nhân tham gia quá trình. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn diện quá trình công nghiệp, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Ở các nước chậm phát triển, sự đóng góp của nông nghiệp vào GDP là rất lớn. Ở Việt Nam, lao động nông nghiệp chiếm 70% lực lượng lao động xã hội. Nếu như nền kinh tế không có vốn nước ngoài, chiến lược phát triển nông nghiệp ở các nước này trong giai đoạn đầu tất nhiên phải dựa vào tích lũy nông nghiệp. Hơn nữa, nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân tăng cao mới thấy được vai trò quan trọng của nông nghiệp trong việc tích lũy cho giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế. Do vậy, đối với Việt Nam và các nước chậm phát triển, để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước thì Đảng và Nhà nước phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động của nông dân, tạo điều kiện khai thác tốt nhất tiềm năng dồi dào về lao động. Nguồn lao động dồi dào là một lợi thế tương đối quan trọng để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Ngược lại, khi quá trình đó diễn ra, nó lại giải phóng sức lao động ở nông thôn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Hơn nữa, nông nghiệp, nông thôn có nguồn tài nguyên đất đai vô cùng phong phú. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn có thể khai thác tốt nhất tiềm năng đất đai để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. - Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong phát triển đất nước. Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp. Đó là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật của 3
  4. giống cây trồng và vật nuôi để tạo ra sản phẩm như lương thực, thực phẩm để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Như vậy sản xuất nông nghiệp là nền sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, là ngành sản xuất mà việc ứng dụng khoa học, công nghệ còn gặp nhiều khó khăn. Nông nghiệp có vai trò chủ yếu trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội, cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ, cung cấp một phần vốn để công nghiệp hóa. Để công nghiệp hóa thành công đất nước phải giải quyết rất nhiều vấn đề và phải có vốn đầu tư cho nông nghiệp thông qua quá trình xuất khẩu nông sản phẩm, có thể góp phần giải quyết tốt nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. - Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, việc nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh với hàng hóa các nước là rất cần thiết. Nhà nước có chính sách hỗ trợ nông dân bằng các hình thức phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) như: xây dựng kết cấu hạ tầng và đề án phát triển đa dạng ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn; đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo việc làm phi nông nghiệp, tăng thời gian lao động và cơ cấu lại nguồn lao động ở nông thôn; phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp trong bảo vệ quyền lợi của nông dân. - Thứ tư, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải đi tắt, đón đầu và có thể được rút ngắn. Đây là điều kiện khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu. Bối cảnh mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm: đạt và duy trì mô hình tăng trưởng liên tục cao hơn so với các nước đi trước; lựa chọn và áp dụng một phương thức công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho phép bỏ qua một số bước đi vốn bắt buộc theo kiểu phải tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn. 4
  5. - Thứ năm, ở nước ta quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức trong thời gian qua. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải nắm bắt các tri thức công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp. 2. Quan điểm, chủ trương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ một nước nông nghiệp với 80% dân cư sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm trên 70% lao động xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương tất yếu đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng ta ngày càng hoàn thiện các quan điểm xây dựng Chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện thực tế và xu thế vận động của thời đại. Trên cơ sở quan điểm phát triển chung, các ngành, các cấp vận dụng cho phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành mình. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần quán triệt các quan điểm sau: - Coi trọng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp, nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn. Đây là nhiệm vụ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị xã hội, củng cố liên minh công nông với đội ngũ trí thức, giúp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn phải tạo ra một nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng mạnh về xuất khẩu. - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn phải ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhằm khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động và yêu cầu ít vốn, chú trọng phát triển các cơ sở có quy mô vừa và nhỏ kể cả quy mô hộ gia đình. 5
  6. - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn phải đảm bảo cho công nghiệp nông thôn có trình độ công nghệ tiên tiến kết hợp với công nghệ truyền thống để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ để phát triển hàng hóa đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm với nhiều thành phần kinh tế. - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn phải gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế đô thị và các khu công nghiệp, trong đó cần khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động hiện đang tập trung ở đô thị vào phát triển ở nông thôn. - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn phải dựa trên cơ sở sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên đất, nước, rừng; đảm bảo những yêu cầu về cải tạo môi trường sinh thái ở nông thôn. II. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN 1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Mục tiêu tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp; hệ thống đê điều được xung yếu và củng cố vững chắc, hệ thống thủy nông phát triển, xóa đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh, hiện đại. 2. Nội dung và giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 2.1. Nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 6
  7. Sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nông thôn ở nước ta phụ thuộc rất lớn vào xác định đúng đắn nội dung và hướng đi cho nông nghiệp trong giai đoạn trước mắt. Cần thực hiện tốt những nội dung sau: - Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất trên quy mô lớn và từng bước hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn như: công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản; công nghiệp dệt may, giày dép, thủy tinh, sành sứ, cơ khí sửa chữa; các ngành nghề truyền thống tại các địa phương. Phát triển các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn như: dịch vụ thủy nông, dịch vụ thú y, dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm. - Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn bao gồm thủy lợi hóa, cơ khí hóa, tự động hóa, tin học hóa, hóa học hóa trong các ngành nghề nông, lâm, thủy sản. Coi trọng việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ sinh hóa vào nông nghiệp. Khoa học công nghệ là một khâu quan trọng trong quá trình cải tiến và nâng cao các giá trị sản phẩm nông nghiệp. - Tiến hành đồng thời với từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải từng bước chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp. Trong những năm trước mắt, ở nước ta phải dựa vào thế mạnh từng vùng để từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế vừa đáp ứng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa khai thác tốt tiềm năng để tăng trưởng kinh tế nhanh. - Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống giao thông, thông tin liên lạc. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn hiện nay. Cơ sở hạ tầng được phát triển sẽ tạo điều kiện để mở rộng giao lưu kinh tế, xã hội giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng kinh tế với nhau; kích thích kinh tế hàng hóa phát triển đồng đều; mở rộng thị trường trong nước. 7
  8. - Xây dựng nông thôn mới sạch về môi trường, giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh. - Ưu tiên đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, miền núi. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thì một trong những vấn đề cơ bản là phải có vốn. Điều này thúc đẩy nước ta phải tạo vốn và đầu tư mạnh từ nhiều phía: nhà nước, các khoản viện trợ và từ chính người nông dân để có thu hút tối đa những nguồn vốn hiện có và tiềm ẩn trong nền kinh tế quốc dân đưa vào phát triển nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. - Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp và trình độ dân trí trong dân cư nông thôn, đặc biệt là lực lượng lao động nông nghiệp. Phát triển hệ thống truyền thanh, truyền hình, thư viện, nhà văn hóa nông thôn... Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đòi hỏi đội ngũ lao động nông nghiệp và nông dân phải có trình độ dân trí, kiến thức khoa học, kỹ thuật cao mới có thể tiếp nhận được những kỹ thuật mới về sản xuất nông nghiệp. 2.2. Giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 2.2.1. Hiện đại hóa nền nông nghiệp - Gia tăng nhanh quá trình hiện đại hóa nền nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên, sinh thái của từng vùng và từng loại sản phẩm. Như vậy mới rút được lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp mà vẫn bảo đảm nông nghiệp đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ngày càng gia tăng. - Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp. + Điều chỉnh quy hoạch phù hợp và ổn định các vùng sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, tăng năng suất lao động đi đôi với nâng cao chất lượng. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa hàng hóa; tận dụng điều kiện thích hợp trên các địa bàn khác để sản xuất lương thực có hiệu quả. Có chính sách bảo đảm lợi ích của người sản xuất lương thực. 8
  9. + Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các cây công nghiệp như cà phê, chè, dừa, bông, mía, lạc...hình thành các vùng rau quả có giá trị cao gắn với phát triển các cơ sở bảo quản, chế biến. + Phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm, áp dụng rộng rãi phương pháp chăn nuôi gắn với chế biến sản phẩm, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp. + Phát huy lợi thế của các ngành thủy sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển mạnh nuôi trồng thủy, hải sản theo phương thức tiến bộ và bền vững môi trường; nâng cao năng lực và hiệu quả đánh bắt hải sản xa bờ. + Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài, kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp để định canh, định cư ổn định và cải thiện đời sống người dân miền núi. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế và ngăn chặn nạn đốt phá rừng, tạo nguồn gỗ, nguyên liệu cho công nghiệp bột giấy, chế biến đồ gỗ gia dụng và mỹ nghệ xuất khẩu. 2.2.2. Phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn - Phát triển các làng nghề truyền thống để khai thác các tiềm năng kinh tế của các địa phương và phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn với những chính sách ưu đãi như: đất đai, thuế, tín dụng... - Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác; từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp; mở rộng quy mô sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn. - Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế nông thôn phải đặt trong điều kiện của kinh tế thị trường, tránh chủ quan duy ý chí; chú ý tới các yếu tố khách quan như khả năng về vốn, tổ chức quản lý, công nghệ và điều kiện thị trường. 2.2.3. Giảm bớt tỷ trọng lao động làm nông nghiệp Đây là một tiêu chí quan trọng nhất để thực hiện và đánh giá kết qủa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, cơ 9
  10. cấu lao động nông nghiệp và nông thôn đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Theo số liệu đưa ra tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, cơ cấu lao động trong nông nghiệp từ 57,1% (năm 2005) giảm xuống còn 48,2% ( năm 2010). Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong những năm qua đã có một bước tiến đáng kể. Với thực tiễn này, chương trình Chiến lược phát triển nông thôn bền vững ở Việt Nam đã đề ra mục tiêu đến năm 2015 tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm 40-41% lao động xã hội, đến năm 2020 còn khoảng 25-30% lao động xã hội. Để đạt được những mục tiêu đó, phải có thêm nhiều việc làm phi nông nghiệp được tạo ra ngay tại khu vực nông thôn và những đô thị vừa và nhỏ nằm rải rác trên khắp các vùng ngay sát với các làng xóm nông thôn. 2.2.4. Phát triển nông nghiệp và nông thôn nhìn theo giác độ vùng - Đối với các vùng đồng bằng: Địa hình đồng bằng có đặc điểm là đất ít, người đông, bình quân đầu người chỉ được 434m2 đất nông nghiệp; nông sản chủ yếu hiện nay vẫn là lúa, chăn nuôi và trồng cây ăn quả. Phương hướng phát triển chung và dài hạn ở các vùng nông thôn đồng bằng ngoài việc tiếp tục gia tăng lúa gạo còn phải chú trọng đến việc nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, phải đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu sang sản xuất các cây thực phẩm như: rau, đậu, khoai tây, cà chua, hoa tươi,... chăn nuôi lợn nhiều thịt nạc và gia cầm, thủy sản nước ngọt. Phát triển nhiều loại làng thủ công nghiệp và nhiều điểm công nghiệp chế biến nông sản. Lao động nông nghiệp phải chuyển sang phi nông nghiệp (khoảng 20%). Các vấn đề về tổ chức sản xuất theo kinh tế hộ tiến dần lên có sự tích tụ và tập trung ruộng đất cho từng hộ lớn hơn và sự liên kết các hộ thành kiểu tổ chức hợp tác thích hợp sẽ tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa quy mô lớn và kỹ thuật hiện đại. Mặt khác, các vùng đồng bằng có địa hình nhiều châu thổ sông ngòi và có mùa ngập lũ cho nên việc phát triển kết cấu hạ tầng phải thích nghi để xử 10
  11. lý hợp lí, khai thác thuận lợi về giao thông đường thủy, khắc phục khó khăn hạn chế về phát triển đường bộ và các điểm dân cư, đô thị, mạng điện, cấp thoát nước, nước sạch cho dân cư... 2.2.5. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ trong nông nghiệp và nông thôn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải trang bị kỹ thuật cho các ngành của nền kinh tế theo hướng hiện đại. Do đó phát triển kinh tế nông thôn trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải đẩy mạnh ứng dụng của tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Ngoài những việc về thủy lợi hóa, sử dụng giống mới đã có phương thức, quy hoạch thực hiện tốt, trên nhiều lĩnh vực còn có chưa có phương thức, cách làm có hiệu quả như cơ giới hóa, sinh học hóa, đưa tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất... rất cần có những mô hình được xây dựng từ thực tiễn, thích hợp với từng địa bàn sinh thái và tính chất của từng hoạt động sản xuất. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi trồng và chế biến thực phẩm, hạn chế việc sử dụng hóa chất độc hại trong nông nghiệp, tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật viên bám sát đồng ruộng, huấn luyện về kỹ năng cho người nông dân. 2.2.6. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp Kinh tế hộ nông dân là hình thức kinh tế phổ biến ở nông thôn trong các làng nghề, trong hoạt động dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ trang trại phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Đối với kinh tế tư nhân cần có chính sách hỗ trợ hướng dẫn tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này phát triển vì đây là lực lượng quan trọng và năng động trong cơ chế thị trường, có khả năng về vốn, tổ chức quản lý và kinh nghiệm sản xuất. 11
  12. 2.2.7. Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn Nguồn nhân lực ở nông thôn có đặc điểm là trình độ học vấn thấp và phần lớn không qua đào tạo. Đây là một cản trở lớn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Do vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn phải có chính sách giáo dục đào tạo phù hợp, không chỉ tính đến trình độ đầu vào, ưu đãi về tài chính cho khu vực nông nghiệp mà còn phải tính đến nhu cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động được đào tạo trong hiện tại và tương lai. 2.2.8. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn bao gồm: hệ thống đường xá, thông tin, thủy lợi, trạm biến thế, trạm giống, trường học, nhà văn hóa rất cần thiết cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn. Cần quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nguồn nước, vốn, rừng, gắn với bảo vệ môi trường. Quy hoạch các khu dân cư phát triển các thị trấn, thị tứ, các điểm văn hóa ở làng, xã; nâng cao đời sống vật chất văn hóa tinh thần, xây dựng cuộc sống dân chủ, công bằng, văn minh ở nông thôn. 3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở xã Quan điểm chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được thể hiện trước hết tại các Nghị quyết của cấp ủy Đảng ở xã nhằm cụ thể hoá các nội dung tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn với các nội dung sau: - Đẩy mạnh phát triển nền sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo bước chuyển biến mạnh hơn trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. - Quan tâm tới đào tạo nghề cho nông dân, bảo đảm việc làm cho nông dân nhằm tạo ra nguồn lao động có chất lượng cao trong nông nghiệp; đẩy mạnh chương trình xuất khẩu lao động ở nông thôn. - Tiếp tục quy hoạch và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ: điện, đường, trường, trạm, phù hợp với sản xuất nông nghiệp, ưu tiên đầu tư nâng cấp 12
  13. các công trình đầu mối, nạo vét kênh mương, bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững. - Đẩy mạnh việc hình thành các vùng chuyên canh có hiệu quả kinh tế cao; Đẩy mạnh phát triển các cụm công nghiệp tại các vùng nông thôn, đẩy mạnh quá trình đô thị hoá nông thôn, xây dựng đời sống nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở xã là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội trong nông nghiệp và nông thôn ở xã, từ lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện sản xuất và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động trong nông nghiệp ngày càng cao, làm thay đổi diện mạo của xã, nâng cao đời sống của người dân. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tác động mạnh mẽ và làm thay đổi nhiều mặt đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở xã: Thứ nhất, là làm thay đổi, biến dạng và chia nhỏ các đơn vị sản xuất nông nghiệp, các ngành công nghiệp khởi động và nhanh chóng chiếm chỗ các dư địa của sản xuất nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông nghiệp sẽ giảm sút, ngày càng nhỏ đi một cách tương đối. Thứ hai, sự phi nông hóa của người làm nông nghiệp, số lượng lao động trong các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng lên. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ đã thu hút một lượng khá lớn lao động nông thôn. Thứ ba, quá trình đô thị hóa với tốc tộ nhanh làm cho bộ mặt nông thôn chuyển biến nhanh chóng. Đời sống người dân ở xã đã có nhiều thay đổi. Với việc đầu tư cụ thể về điện, đường, trường, trạm y tế, chợ nông thôn, hệ thống thủy lợi…kết cấu hạ tầng nông thôn được củng cố và tăng cường. 13
  14. CÂU HỎI THẢO LUẬN Câu 1: Anh, chị có sáng kiến gì để khắc phục nguy cơ ô nhiễm môi trường nông thôn do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mang lại? Câu 2: Theo anh, chị thành tựu nào là quan trọng nhất do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đem lại ? Vì sao? TÀI LIỆU THAM KHẢO - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI - Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2001- 2010. - Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông thôn, nông dân. - Quyết định số 491/2009/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. - Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/6/2010 về phê duyệt chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. - Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn hướng dẫn thi hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài liệu về tập huấn xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020, 2008. 14
  15. Chuyên đề 2: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở XÃ I. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM 1. Khái niệm về hệ thống chính trị Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, đoàn thể xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa các lực lượng đó, chi phối sự tồn tại và phát triển đời sống chính trị của một quốc gia, thể hiện bản chất của chế độ chính trị của quốc gia, con đường phát triển của xã hội. Cấu trúc của hệ thống chính trị không chỉ là hệ thống các tổ chức và các quan hệ về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn theo hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống. Có các cấp độ của từng tổ chức (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể) qui định vị trí, vai trò, chức trách, thẩm quyền của các cấp, của cấp trên với cấp dưới trong phạm vi một tổ chức với sự tác động của bộ máy tương ứng với từng cấp. Hệ thống chính trị được cấu thành bởi các tổ chức nêu trên cũng có các cấp độ này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung ương với địa phương và cơ sở. Giữa các tổ chức lại hình thành quan hệ tác động lẫn nhau trong hệ thống và trong từng cấp độ. Cụ thể, ở cấp trung ương là quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể. Ở cấp tỉnh là quan hệ giữa Đảng bộ tỉnh với chính quyền tỉnh, Mặt trận với các đoàn thể cấp tỉnh. Ở cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là quan hệ giữa Đảng bộ xã với chính quyền và Mặt trận cùng các đoàn thể trong xã. Ở đây ta đang xem xét khái niệm cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở trên quan điểm xã hội học chính trị và quản lý xã hội. Đây là những khái niệm xuất 15
  16. phát, những khái niệm công cụ để nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cải cách hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Cơ sở được lấy làm đối tượng nghiên cứu ở đây không phải là một đơn vị cơ sở bất kỳ (gia đình, cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp hay viện nghiên cứu…) mà là cơ sở với tư cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước bốn cấp hiện hành. Cơ sở đó chính là xã - phường - thị trấn, là cấp cơ sở của quản lý nhà nước. Phường, thị trấn là cấp cơ sở ở đô thị, được đặc trưng bởi quản lý đô thị. Xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn, đây là cả một địa bàn rộng lớn, chiếm đa số trong tổng số đơn vị cơ sở nước ta. Vì thế, nói tới hệ thống chính trị ở xã chính là nói tới hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Như vậy, hệ thống chính trị ở xã (cơ sở ở nông thôn) cũng bao gồm 3 bộ phận cấu thành: Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở xã. Mỗi bộ phận tồn tại với vai trò, chức năng riêng và có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành hệ thống, quản lý và điều hành mọi hoạt động ở xã về các lĩnh vực của đời sống. Nói tới cơ sở là nói tới xã – phường – thị trấn, trong đó xã là chủ yếu, chiếm tới 85% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở. Cơ sở và hệ thống chính trị ở xã là khâu trung tâm cần phải đột phá trong chỉnh đốn và đổi mới hệ thống chính trị cơ sở. Giải quyết khâu đột phá này, lẽ dĩ nhiên không thể không bàn tới quan hệ giữa xã và thôn, tới vai trò của Đảng bộ hoặc chi bộ xã, của Mặt trận Tổ quốc ở xã và các đoàn thể, các tổ chức quần chúng cấu thành thống chính trị ở xã, các phương thức tổ chức, hoạt động cùng các mối quan hệ giữa chúng. Nhận thức về xã chúng ta nhấn mạnh tới mấy điểm dưới đây: - Xã là nơi chính quyền trong lòng dân như Đảng ta đã xác định. Xã là cấp thấp nhất trong các cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền nhà nước nhưng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội. - Xã là nơi diễn ra cuộc sống của dân, nơi chính quyền và các đoàn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để nhân dân 16
  17. thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình. Nếu dân chủ là dân làm chủ như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, thì xã là nơi thể hiện rõ nhất và trực tiếp nhất ý thức và năng lực dân chủ của dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Chế độ ủy quyền và những phương tiện, những điều kiện nhằm thực hiện và đảm bảo cho sự ủy quyền đó phải được bắt đầu từ xã mà nhân dân là chủ thể. Bao nhiêu quyền hành đều là của dân, bao nhiêu lợi ích cũng thuộc về dân. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Dân có quyền làm chủ, đồng thời có nghĩa vụ của người chủ. Do ở xã là nơi làm việc và sinh hoạt hàng ngày của dân chúng, là nơi thể chế được dân trực tiếp tổ chức nên và dân thường xuyên tiếp xúc, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với những người đại diện cho mình, đồng thời dân cũng có điều kiện biết rõ sự hoạt động của thể chế, của con người và tổ chức bộ máy, mặt hay cũng như mặt dở, mặt tốt cũng như mặt xấu với những khuyết tật của nó… nên quan hệ và thái độ của dân đối với thể chế ở xã cho thấy rõ nhất hiện trạng của thể chế nói chung. Động lực, nội lực của sự phát triển hay vật cản kìm hãm, sự trì trệ và suy thoái được nhận thấy rõ nhất ngay ở xã. Những yếu kém diễn ra trong thể chế ở xã làm tổn hại đến uy tín và ảnh hưởng xã hội của thể chế nói chung. Những phản ứng, bất bình của dân đối với cán bộ xã là khởi đầu cho những mất ổn định, thậm chí trở thành tình huống, thành điểm nóng gây hại tới sự bình yên của chế độ. Do vậy, mấu chốt của xã là chất lượng cán bộ, là hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị sao cho giữ được dân, làm cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, sinh sống, liên kết cộng đồng, quan tâm và bảo vệ thể chế, phát triển xã hội, phát triển sức dân. - Xã là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ mô phải tác động tới. Xã là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết định, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước phải tìm đến. Đường lối, nghị quyết có đi vào cuộc sống thực sự hay không, dân có được tổ chức hành động trong phong trào rộng khắp để biến khả năng thành hiện thực hay không; đường lối, chính sách có tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng sai ra sao 17
  18. được chứng thực bởi cuộc sống, tâm trạng, thái độ, niềm tin và hành động thực tế của dân chúng. Vì vậy, xã tuy là cấp thấp nhất trong hệ thống quản lý nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn, thành bại của chế độ. Xã là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm nhất của đời sống xã hội, không được xao nhãng mà cần đặc biệt quan tâm, chỉ đạo thường xuyên. Thực chất của mất xã là mất dân, mà khởi đầu của sự mất dân là xa dân của cán bộ xã, sự rệu rã của tổ chức bộ máy và sự hoành hành của nạn quan liêu, tham nhũng làm cho dân đói khổ, bần cùng. - Xã không phải là cấp hoạch định đường lối, chính sách…xã là cấp hành động, tổ chức hành động, đưa đường lối, nghị quyết, chính sách vào cuộc sống. Là cấp hành động, tổ chức thực hiện nên cán bộ xã phải gần dân, hiểu dân, sát dân và năng lực của cán bộ xã là năng lực thực thi, tổ chức công việc và thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng. Tổ chức bộ máy xã phải thực sự gọn nhẹ, “thà ít mà tốt”, năng động, nhạy bén, cán bộ xã phải thực sự nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, sáng tạo một cách thiết thực, biết rõ phương hướng hành động, có bản lĩnh dám chịu trách nhiệm, có phương pháp và phong cách dân vận “óc nghĩ, mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, chân đi, tay làm” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra (Hồ Chí Minh toàn tập Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.5, tr.699). Biết làm cho dân tin, dân ủng hộ; biết tập hợp dân thành lực lượng và hoạt động trong phong trào; phục vụ dân, làm lợi cho dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, đó là tất cả những gì cán bộ xã cần có. 2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Về mặt tổ chức, hệ thống chính trị ở xã bao gồm ba bộ phận cấu thành là tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận bao gồm Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh. * Tổ chức cơ sở đảng ở xã Tổ chức cơ sở đảng ở xã là nền tảng của đảng ở xã. Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội X của Đảng thông qua (được Đại hội XI sửa 18
  19. đổi, bổ sung) đã qui định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Ðảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Như vậy tổ chức cơ sở đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Điều này bắt nguồn trực tiếp từ học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về vai trò của giai cấp công nhân - lực lượng chủ yếu của cách mạng vô sản và là người lãnh đạo xã hội trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tổ chức cơ sở đảng ở xã có vai trò hạt nhân trong lãnh đạo chính trị, lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được cụ thể hóa và được thực hiện thắng lợi. Tổ chức đảng ở xã có vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động trong xã, lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Tổ chức cơ sở đảng ở xã là nơi giáo dục, rèn luyện đảng viên và phát triển Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi giáo dục lý tưởng cách mạng, rèn luyện ý chí, trau dồi quan điểm, lập trường cách mạng cho đảng viên ở nông thôn, động viên đảng viên tham gia các phong trào giữ gìn an ninh, trật tự, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; là nơi vận động và bồi dưỡng những người ưu tú, xuất sắc trong phong trào quần chúng, kết nạp họ vào Đảng nhằm xây dựng, phát triển, tăng cường số lượng và sức chiến đấu của Đảng. Tổ chức cơ sở đảng ở xã là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng và là chỗ dựa đáng tin cậy của quần chúng nhân dân ở cơ sở. Bằng việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống ở xã, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối chủ trương, của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước; phát triển lực lượng đảng viên mới trong quần chúng, các tổ chức Đảng ở xã thực sự là “một đơn vị chiến đấu cơ bản” của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị và là chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân ở cơ sở. * Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Theo Hiến pháp 1992, hệ thống chính quyền nhà nước ta bao gồm bốn cấp từ Trung ương đến cơ sở, trong đó, chính quyền cấp cơ sở ở xã có vị trí rất 19
  20. quan trọng. Đây là đơn vị thực hiện, đồng thời cũng là nơi kiểm tra, đánh giá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là nơi trực tiếp và có ưu thế trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khai thác tiềm năng tại chỗ ở địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, tạo điều kiện cho nhân dân địa phương xây dựng một cuộc sống ổn định. Chính quyền cơ sở ở xã, bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, được bầu ra theo Hiến pháp và pháp luật. - Hội đồng nhân dân Theo Hiến pháp 1992, Hội đồng nhân dân xã được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Thông qua Hội đồng nhân dân xã, nhân dân ở cơ sở thực hiện quyền làm chủ của mình. Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước cơ quan cấp trên và trước nhân dân địa phương. Về mặt tổ chức, Hội đồng nhân dân xã có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Hội đồng nhân dân xã có Thường trực Hội đồng nhân dân nhưng không có các ban chuyên môn như Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là 5 năm. - Ủy ban nhân dân Theo Nghị định số 107/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/4/2004 (được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 27/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/3/2009), Uỷ ban nhân dân xã miền núi, hải đảo có dân số từ 5.000 người trở lên; xã đồng bằng, trung du có dân số từ 8.000 người trở lên và xã biên giới có 05 thành viên gồm có 01 Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch, 02 Ủy viên. Uỷ ban nhân dân xã không thuộc diện trên thì có 03 thành viên gồm có 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch và 01 Ủy viên. Trong đó Chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội xã. Các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phụ trách khối kinh tế - tài chính, xây dựng, giao thông, nhà đất và tài 20
nguon tai.lieu . vn