Xem mẫu

  1. Bệnh sởi (Phần 1)
  2. Những điều cần biết về bệnh sởi Bệnh sởi là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất so với các bệnh khác trong chương trình TCMR. Sởi có thể gặp ở mọi lứa tuổi, ở trẻ nhỏ bệnh nặng hơn. Lan truyền Sởi lan truyền do dịch tiết mũi họng của người nhiễm bệnh theo không khí thoát ra khi người bệnh ho hoặc hắt hơi. Sự lan truyền từ người bệnh đến người lành có thể xảy ra khi người lành hít phải những giọt không khí có vi rút sởi sau khi người bệnh xả ra 2 tiếng đồng hồ. Người bệnh có thể lây nhiễm cho người khác trước và sau vài ngày xuất hiện triệu chứng của bệnh. Triệu chứng Giai đoạn ủ bệnh từ 7 - 18 ngày. Biểu hiện nhiễm trùng đầu tiên là sốt cao kéo dài 1 - 7 ngày. Giai đoạn này thường chảy nước mũi, ho, mắt đỏ, chảy nước mắt và xuất hiện nốt trắng nhỏ bên trong má. Sau vài ngày xuất hiện ban, bắt đầu từ mặt, lan xuống tay và chân trong khoảng 3 ngày. Ban kéo dài 5 - 6 ngày rồi biến mất. Ngoài ra người bệnh có thể chán ăn và tiêu chảy, đặc biệt là trẻ nhỏ. Thể bệnh nặng hay xảy ra ở trẻ dưới 5 tuổi và người lớn trên 20 tuổi. Người lớn có thể bị tiêu chảy nặng. Trẻ em có thể bị mất nước do tiêu chảy, có thể bị viêm tai giữa, nhiễm trùng đường hô hấp và thanh quản do vi rút sởi làm giảm hệ miễn dịch. Trẻ dưới 12 tháng tuổi nếu không tiêm phòng sởi thì rất dễ mắc. Trẻ được nuôi dưỡng kém, đặc biệt trẻ không được uống vitamin A, sống trong điều kiện đông đúc, và trẻ có hệ miễn dịch giảm do AIDS hoặc các bệnh khác thường mắc sởi nặng. Những người khỏi bệnh có miễn dịch trong suốt quãng đời còn lại. Trẻ nhỏ có mẹ đã mắc sởi thường có miễn dịch trong 6 - 8 tháng đầu sau khi sinh. Ðiều trị sởi
  3. Những trẻ thể bệnh nặng có thể qua khỏi nếu được điều trị thích hợp. Uống vitamin A có thể giúp trẻ tránh được mù lòa. Tất cả những trẻ bị sởi nặng cần được uống vitamin A càng sớm càng tốt và uống liều thứ 2 ngay ngày hôm sau. Tăng cường dinh dưỡng và điều trị mất nước bằng đường uống là cần thiết. Phòng bệnh Phải tiêm vắc xin sởi. Trẻ em cần tiêm một mũi vắc xin sởi trước khi 1 tuổi. Trẻ mắc sởi nằm viện cần được cách ly ít nhất 4 ngày sau khi ban ở da xuất hiện. Trẻ bị suy dinh dưỡng cần cách ly trong thời gian bị bệnh.
  4. Mức độ nghiêm trọng của bệnh sởi Sởi là một trong những bệnh nguy hiểm với khoảng 30% trường hợp gặp một hoặc nhiều biến chứng. Theo báo cáo tại Mỹ, tỉ lệ tử vong do sởi xấp xỉ 1 - 2/1.000 trường hợp. Các biến chứng từ sởi phổ biến ở nhóm trẻ dưới 5 tuổi và người trưởng thành trên 20 tuổi. Tiêu chảy là một trong những biến chứng phổ biến nhất của người mắc bệnh sởi, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Khoảng 7% trường hợp bị nhiễm trùng tai; 6% bị viêm phổi. Khoảng 1/1.000 trường hợp sẽ bị viêm não. Đây là biến chứng nguy hiểm co thể dẫn tới tổn thương não vĩnh viễn. Bị mắc sởi trong giai đoạn mang thai có thể làm tăng nguy cơ sinh non, sẩy thai và sinh trẻ nhẹ cân. Sởi đặc biệt khốc liệt đối với những người có hệ miễn dịch yếu. Những lưu ý về bệnh sởi Những vết đỏ khắp cơ thể làm người ta chú ý tới bệnh sởi. Nhưng thực ra đây chỉ là một trong những triệu chứng bên ngoài, những thay đổi bên trong mới nguy hiểm, có thể gây chết người. Sởi là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp do siêu vi gây ra. Từ vài chục năm nay, với thuốc chích ngừa, bệnh sởi ít xẩy ra ở những quốc gia phát triển, nhưng vẫn còn là một ám ảnh kinh hoàng cho những người dân các nước đang phát triển. Bệnh rất dễ lây và dễ dàng lan ra từ những người đi du lịch. 1. Triệu chứng:
  5. Khoảng 10 tới 12 ngày sau khi tiếp xúc với siêu vi sởi, những triệu chứng sau đây có thể xẩy ra: 1. Sốt 2. Ho khan 3. Chảy nước mũi 4. Mắt đỏ 5. Không chịu được ánh sáng 6. Những nốt nhỏ xíu với trung tâm mầu xanh trắng xuất hiện bên trong miệng nơi gò má. Những nốt này có tên là đốm Koplik. 7. Người mọc ra những đốm đỏ lớn, phẳng, chập vào nhau 2. Diễn biến bệnh Bệnh sởi thường bắt đầu với một cơn sốt khá nhẹ, kèm theo những triệu chứng như ho, chảy mũi, mắt đỏ và đau cổ họng. Khoảng 2, 3 ngày sau, đốm Koplik nổi lên, đốm này là dấu hiệu đặc biệt của bệnh. Sau đó, bệnh nhân có thể bị sốt cao lên tới 40 hay 40,5 độ C. Cùng lúc đó, những mảng đỏ nổi lên, thường là ở trên mặt, theo đường tóc và sau tai. Những vết đỏ hơi ngứa này có thể dấn lan xuống ngực, lưng và cuối cùng xuống tới đùi và bàn chân. Khoảng một tuần sau, những vết nhỏ này sẽ nhạt dần, vết nào xuất hiện trước sẽ hết trước. 3. Nguyên nhân Bệnh sởi gây ra do siêu vi sởi. Bệnh này hay lây đến nỗi 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân sẽ bị lây nếu chưa chích ngừa. Siêu vi sởi có ở mũi và cổ họng của bệnh nhân. Họ thường đã có thể lây bệnh cho người khác 4 ngày trước khi vết đỏ xuất hiện. Khi bệnh nhân ho, hắt xì, hay nói chuyện, những giọt nước nhỏ xíu chứa siêu vi sẽ bắn ra không khí và người khác có thể hít vào hoặc những giọt này có thể rơi xuống
  6. một nơi nào đó như mặt bàn, điện thoại…Khi ta sờ vào những nơi này và đưa tay lên mũi hay miệng, ta sẽ bị lây bệnh. Khi vào cơ thể, siêu vi sởi thường mọc vào trong những tế bào đằng sau cổ họng và phổi. Sau đó bệnh sẽ lan khắp cơ thể kể cả hệ hô hấp và da. Bệnh rất nặng nếu bệnh nhân bị thiếu vitamin A, một điều dễ thấy ở những nước kém phát triển, do người dân thiếu ăn. Sau khi khỏi bệnh, cơ thể chúng ta sẽ có kháng thể chống bệnh nên ta sẽ không mắc lại nữa. Nếu bạn sinh trước năm 1957, bạn thường đã có kháng thể chống bệnh dù chưa hề chủng ngừa. Đó là vì bạn đã sống qua nhiều thời kỳ mà bệnh sởi hoành hành rất nhiều và nhiều phần bạn đã có nhiễm siêu vi dù có thể không lộ ra. Do đó bạn đã có miễn nhiễm. 4. Biến chứng Bệnh sởi thường kéo dài từ 10 tới 14 ngày. Ở vài nơi trên thế giới, nó là một bệnh nặng có thể gây ra chết người. Tuy nhiên thường thì bệnh nhân có thể qua khỏi. Những biến chứng có thể xảy ra: 1 - Nhiễm trùng tai xảy ra ở 1 trong 10 trẻ bị sởi 2 - Viêm não: xảy ra ở khoảng 1 trong 1.000 người mắc Não bị nhiễm siêu vi trùng gây ra ói mửa, kinh giật, có khi hôn mê. Viêm não có thể xảy ra sau khi phát bệnh sởi hoặc có thể xảy ra rất nhiều năm sau, vào tuổi vị thành niên, do một loại siêu vi mọc chậm, nhưng trường hợp này rất hiếm. 3 - Sưng phổi: khoảng 1 trong 20 trường hợp. Có thể nguy hiểm chết người. 4 - Tiêu chảy và ói mửa: thường xẩy ra cho trẻ nhỏ. 5 - Sưng cuống phổi, sưng thanh quản. 6 - Phụ nữ có thai mắc bệnh sởi có thể hư thai, sinh sớm hay sinh trẻ nặng cân. 7 - Thiếu tiểu cầu khiến máu khó đông.
  7. 5. Ngăn ngừa sởi Văcxin ngừa sởi rất công hiệu. Trước khi có văcxin ngừa, mỗi năm riêng ở Mỹ có chừng 450.000 ca bệnh, gây ra khoảng 450 cái chết. Việc chủng ngừa rộng rãi đã giảm con số này 99%. Văcxin ngừa sởi được dùng riêng, hoặc gộp chung với văcxin ngừa quai bị và rubella (bệnh sởi Đức). Thuốc dùng cho trẻ em từ 12 tới 15 tháng và thêm liều thứ hai lúc 4, 5 tuổi. Bác sĩ Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia khuyến cáo các gia đình nên tiêm nhắc lại văcxin sởi cho con em và ngay cả người lớn (dưới 30 tuổi) nếu chưa tiêm hoặc đã tiêm lâu thì nên đi tiêm. Phân biệt sởi với rubella (bệnh sởi Đức hay ban Đức) Có hai dạng bệnh sởi, gây ra bởi hai loại virus khác nhau. Mặc dù cùng gây phát ban và sốt, song chúng thực sự là hai loại bệnh khác nhau. - Virus rubeola gây ra bệnh sởi. Mặc dù hầu bết người mắc đều qua khỏi, nhưng bệnh có thể gây biến chứng nặng là viêm phổi hoặc viêm não. - Virus rubella gây ra bệnh sởi Đức, hay bệnh rubella. Bệnh cảnh nhẹ hơn so với bệnh sởi. Tuy nhiên nó lại đặc biệt nguy hiểm với phụ nữ có thai bởi có thể khiến thai bị khuyết tật. Rubella rất dễ lây lan, chủ yếu là qua đường hô hấp. Triệu chứng của bệnh rất nhẹ nên rất khó được phát hiện, đặc biệt ở trẻ em. Bệnh khởi phát sau 10 ngày đến 15 ngày kể từ lúc tiếp xúc với người bệnh. Triệu chứng thông thường là mệt mỏi, sốt nhẹ, nhức đầu, sưng hạch kéo dài 1-7 ngày. Những nốt ban màu hồng mịn, bắt đầu từ mặt và nhanh chóng lan xuống thân, sau đó xuống cánh tay và chân trước trước khi biến mất. Ban tồn tại từ 1 đến 5 ngày, nhưng thường gặp nhất là 3 ngày. Trong khoảng thời gian từ 7 ngày trước phát ban và trong lúc phát ban là thời gian mà người bệnh có khả năng lây bệnh cao nhất. Biện pháp phòng bệnh duy nhất là tiêm chủng. Loại vắc xin đang sử dụng hiện nay là văcxin phối hợp ngừa 3 bệnh: sởi, quai bị, Rubella.
  8. Bệnh sởi (Phần 2) Cách phòng và chữa bệnh sởi
  9. Đang mùa sởi, nếu trẻ có vẻ kém vui đùa, không chịu chơi như mọi ngày thì các bà mẹ nên lưu ý xem có phải bị lên sởi hay không. Nếu thấy trán âm ấm, lại có mụn lờ mờ ở dưới da; da mắt, dái tai hơi man mát thì đó là dấu hiệu sắp mọc sởi. Sởi thường xuất hiện nhiều vào cuối năm cũ, đầu năm mới. Không chỉ gây các biến chứng như kiết lỵ ra máu mũi, tiêu chảy kéo dài, viêm phổi, sởi còn có thể là nguyên nhân gây còi xương, suy dinh dưỡng, thậm chí tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi nếu không được điều trị đúng. Cách đề phòng tốt nhất là cho trẻ đi tiêm văcxin sởi. Về cuối năm, nên mua nhiều cây mùi già có quả rắn chắc, buộc treo ở đầu nhà, hong gió cho khô giòn, vò lấy hột và lá khô cho vào lọ đậy kín. Đến thời kỳ hay có bệnh sởi thì lấy một nắm nhỏ hạt và lá mùi già cho vào 3 gáo nước đun sôi để gần nguội tắm cho trẻ. Trước khi tắm, nên cho trẻ uống một thìa nước mùi. Cứ cách nửa tháng lại tắm một lần. Cách này có thể đề phòng được bệnh sởi phát sinh, lại sạch và thơm. Nếu cẩn thận thì quần áo của các cháu cũng thỉnh thoảng cho vào nồi nước mùi già để đun sôi. Khi có bệnh sởi lan tràn, các bà mẹ nên cho trẻ cách xa nơi có bệnh. Những người thân, cha mẹ có việc cần phải đến nơi có bệnh sởi thì khi vừa về tới nhà phải thay giặt quần áo bằng nước sôi và tắm rửa sạch sẽ rồi hãy tiếp xúc với trẻ. Gia đình nào đông các cháu mà lỡ có một cháu bị lên sởi thì phải ở riêng, không cho nằm chung, chăn màn, giường chiếu phải giặt sạch. Đang mùa sởi, nếu trẻ nào có vẻ kém vui đùa, không chịu chơi như mọi ngày thì các bà mẹ nên lưu ý theo dõi ngay xem có phải bị lên sởi hay không. Nếu thấy trán âm ấm lại có mụn lờ mờ ở dưới da, da mắt, da trán, dái tai hơi man mát thì đó là dấu hiệu sắp mọc sởi. Lúc này nên kiêng nước, tránh gió và ủ cho ấm. Đồng thời, có thể dùng một trong các bài thuốc dưới đây: Hạt lá tía tô 30 g; sắn dây 25 g; kinh giới, mạch môn mỗi thứ 20 g; cam thảo 5 g. Tất cả sấy khô, tán bột mịn đóng gói 3 g. Trẻ em một tuổi uống ngày hai gói, 3 tuổi uống ngày 4 gói, 5 tuổi uống ngày 6 gói: Hãm thuốc với nước sôi lọc trong hoặc uống cả bã. Thuốc chỉ dùng trong 3 ngày, chỉ uống giai đoạn đầu, khi sởi đã mọc đều hoặc trẻ bị tiêu chảy không nên uống.
  10. Củ sắn dây một miếng to bằng hai bao diêm (gọt vỏ thái mỏng), cánh bèo cái lấy độ năm cây (vặt bỏ rễ), kinh giới 10 ngọn (khô hoặc tươi, nếu có hoa càng tốt). Cả ba thứ trên cho vào với nửa bát nước, đun sôi kỹ, gạn ra còn âm ấm cho uống rồi đắp chăn cho kín gió. Đây là liều lượng thuốc của các cháu 1-3 tuổi. Nếu trẻ lớn hơn thì tăng số lượng lên gấp hai; nếu dưới một tuổi thì chỉ cho uống một nửa số lượng trên. Mỗi ngày sắc một thang cho uống. Uống hai ngày liền, sởi mọc ra đều thì thôi. Lấy 5-6 lá cây hoa nhài, hoặc lấy một cái nấm hương, cho vào một chén nước, đun sôi kỹ, để gần nguội cho uống. Trong khi mới lên sởi một hai ngày đầu, nếu trẻ có tiêu chảy mỗi ngày 3-4 lần cũng không ngại, khi sởi mọc sẽ bớt tiêu chảy. Sởi mọc được hai, ba ngày mà các cháu ho nhiều, có khi ho khản cả tiếng thì nên lấy độ 10 lá diếp cá hoặc độ 20 lá cúc mốc, rửa sạch bằng nước muối, giã nhừ, vắt lấy nước cốt cho uống từng thìa nhỏ, uống dần dần. Những cháu có mụn sởi lờ mờ đã hai ba ngày không mọc ra được rõ, nên lấy một nắm lá mùi già, đổ vào với hai bát nước đun sôi kỹ, để cho âm ấm, rồi lấy khăn mặt sạch thấm nước đó lau cho cháu từ đầu đến chân. Hoặc lấy một nắm mùi già với một chén rượu đun sôi để nguội rồi phun từ cổ đến chân và lưng bụng (tránh đầu, mặt). Phun xong ủ ấm cho ra mồ hôi. Tiếp đó cho uống những vị thuốc đã nói trên. Chỉ nên uống độ 2-3 thang. Thấy sởi đã mọc được rồi thì thôi. Sau 3-4 ngày, sởi đã bay thì nên cho trẻ ăn các thứ dễ tiêu như: cháo đường, canh rau ngót nấu cá trê, hoặc cá rô. Không nên cho ăn nhiều thịt. Nếu ăn thịt, chỉ nên cho ăn thịt nạc, không nên cho ăn quá no. Nấu nước lá thơm gồm lá sả, lá kinh giới, lá mùi già để lau cho sạch, không phải xông. Sởi- Quai bị- Rubella-Bại liệt MMR (Measles-Mumps-Rubella) là vaccin kết hợp cho trẻ em và người lớn chống lại bệnh sởi, bệnh sởi Ðức (Rubella) và quai bị. Có thể được dùng như vaccin cho một virus riêng lẻ hay vaccin cho hai virus kết hợp. Ðối tượng nào nên được chủng vaccin MMR ? Rubella
  11. Sự nhiễm Rubella trong thời kỳ đầu thai kỳ có thể dẫn đến sẩy thai, sinh con đã chết (tử sản) và sinh con dị tật. Do đó vaccin MMR nên được chủng cho : Tất cả trẻ em dưới một tuổi, liều bổ sung được chủng khi 4-6 tuổi hay 11-12 tuổi. Tất cả phụ nữ tuổi sinh đẻ không chắc chắn đã được chủng ngừa khi nhỏ hay không có xét nghiệm thử máu đã có miễn dịch. Những nhân viên y tế có nguy cơ tiếp xúc với Rubella và phải tiếp xúc với phụ nữ có thai. Phụ nữ độ tuổi sinh đẻ nên xin ý kiến về việc chủng ngừa Rubella với bác sĩ của họ. Sởi Nhiễm sởi có thể gây nên những lây nhiễm ở phổi và não nghiêm trọng ở người lớn. Người lớn sinh trước năm 1956 thường miễn dịch với sởi và không cần tiêm chủng sởi. Những người nên được tiêm ngừa (với MMR hay vaccin sởi) bao gồm : Người lớn sinh sau năm 1956 không có bằng chứng miễn dịch vào hay sau lần sinh nhật đầu tiên. Những người du lịch từ nước ngoài. Sinh viên mới vào đại học. Nhân viên y tế sinh sau năm 1956 có nguy cơ tiếp xúc với bệnh nhân mang sởi. Quai bị Chủng ngừa quai bị được khuyên cho tất cả người lớn sinh sau năm 1957 là năm đầu tiên vaccin được sử dụng (những sinh trước 1957 dễ nhiễm sởi hơn nên được xem như đã có miễn dịch) và những người trước đây chưa từng được chủng ngừa hay bị quai bị. Vaccin MMR nên chủng ngừa như thế nào ? Ðối với Rubella và quai bị chỉ một liều duy nhất MMR cho người lớn.
  12. Ðối với sởi , 2 liều vaccin sởi hay MMR được chủng cho sinh viên và chuyên viên y tế có nguy cơ tiếp xúc với sởi. (Liều thứ 2 nên sau liều đầu tối thiểu 1 tháng). Ðối với những người khác chỉ cần 1 liều. Ðối với thai phụ và phụ nữ cho con bú MMR được chế từ những virus sống đã được biến đổi từ những virus gây bệnh. Tuy vậy, không có bằng chứng vaccin này gây sinh con dị tật, phụ nữ có thai nên được chủng MMR. Phụ nữ cũng mang thai nên tránh vừa tiêm chủng vaccin MMR hay bất kì vaccin nào khác có chứa Rubella. Ðối tượng không nên chủng vaccin MMR Những bệnh nhân dị ứng với trứng hoặc có những phản ứng quá mẫn với neomycin. Phụ nữ có thai. Bệnh nhân có hệ miễn dịch suy giảm. Bệnh nhân có vi khuẩn lao hoạt động chưa được điều trị. Việc chủng ngừa nên tạm hoãn trong những nhóm sau : Người lớn đang bị bệnh cấp tính có sốt Bệnh nhân đang điều trị liều cao corticosteroid như prednisone, cho đến tối thiểu 3 tháng sau khi ngưng dùng corticosteroid. Tác dụng chính và tác dụng phụ của vaccin MMR ? Hơn 95% trường hợp có tác dụng lâu dài. Tác dụng phụ của MMR bao gồm đau khớp hay viêm khớp có thể xảy ra 1-3 tuần sau khi chủng ngừa và kéo dài nhiều ngày đến nhiều tuần. Tác dụng phụ khác bao gồm phát ban, sốt, và nổi hạch bạch huyết. Poliovirus (virus bại liệt) Có 2 loại vaccin ngừa virus bại liệt: vaccin có virus bại liệt sống đưa vào cơ thể qua đường uống (OPV - oral live poliovirus vaccine) và vaccin virus khử độc tính (IPV- inactivated poliovirus vaccine).
  13. OPV chứa virus sống đã được biến đổi từ virus dại (virus gây viêm tuỷ xám và bại liệt). IPV chứa những virus đã bất hoạt (đã chết) và không gây viêm tuỷ xám và bại liệt. Vì vậy hiện nay IPV được khuyên dùng cho người lớn và trẻ em. Những ai nên chủng ngừa vaccin bại liệt ? Các chuyên gia khuyên tất cả trẻ em nên được chủng ngừa IPV , việc chủng ngừa IPV được khuyên chỉ cho người lớn, những người chưa được chủng ngừa hoặc chủng ngừa không hoàn chỉnh và những ai có khả năng tiếp xúc với virus bại liệt (chưa xử lý hoặc đã giảm độc lực) : Những người du lịch đến những vùng có nhiều người nhiễm bại liệt. Ðang sống trong những cộng đồng đã thống kê nhiễm virus bại liệt chưa xử lý. Những nhân viên phòng thí nghiệm thao tác trên những mẫu thử chứa virus bại liệt. Nhân viên y tế phải tiếp xúc với những bệnh nhân đã nhiễm virus bại liệt hoang dã. Vaccin virus bại liệt nên được chủng ngừa như thế nào ? Thanh niên và người lớn chưa được chủng ngừa nên dùng 3 liều, liều thứ hai vào 4-8 tuần sau liều thứ nhất và liều thứ ba vào 6-12 tháng sau liều thứ hai. Thanh niên và người lớn chưa được chủng ngừa hoàn chỉnh nên hoàn tất đủ 3 liều. Người lớn đã có miễn dịch khi còn bé nhưng phải tiếp xúc với virus bại liệt chưa xử lý nên chủng ngừa một liều IPV. Ðối với thai phụ và phụ nữ cho con bú. Chưa thấy tác dụng hại trên thai phụ, nói chung nên tránh chủng ngừa cho phụ nữ có thai trừ những trường hợp bắt buộc. Ai không nên chủng ngừa vaccin bại liệt ?
  14. IPV không nên dùng cho người đã có phản ứng quá mẫn với liều trước, hay những người có phản ứng quá mẫn dữ dội với streptomycin., polymyxin B, hay neomycin. Tác dụng chính và tác dụng phụ của vaccin ngừa bại liệt . OPV có thể gây viêm tuỷ xám và bại liệt nhưng rất hiếm (1 trong 6 triệu liều). IPV không gây bại liệt. IPV có thể gây đau khu trú với mức độ ít và sưng vùng chích.
  15. Bệnh sởi (Phần 3) Điều trị bệnh sởi
  16. Sởi là một trong các nguyên nhân gây còi xương, suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi, thậm chí có trường hợp gây ra tử vong. Trẻ bị lây sởi nếu điều trị không kịp thời có thể dẫn đến tiêu chảy kéo dài, viêm phổi, viêm phế quản... Cách đề phòng sởi tốt nhất là trẻ đi tiêm phòng. Về cuối năm, nên mua nhiều cây mùi già có quả già rắn chắc, buộc treo ở đầu nhà, hong gió cho khô giòn rồi vò lấy hạt và lá khô cho vào lọ đậy kín. Đến mùa bệnh sởi (mùa xuân), lấy một nắm nhỏ hạt và lá mùi già cho vào ba gáo nước đun sôi, để gần nguội rồi tắm cho trẻ. Cứ cách nửa tháng lại tắm một lần. Cách này có thể đề phòng được bệnh sởi phát sinh, lại giúp bé sạch và thơm. Nếu cẩn thận hơn, thỉnh thoảng lấy quần áo trẻ cho vào nồi nước mùi già để đun sôi. Khi đương có bệnh sởi lan tràn, nên cách lý trẻ xa nơi đang có nguồn bệnh. Nngười lớn có việc cần đến nơi lưu hành bệnh, khi về tới nhà phải thay giặt quần áo bằng nước sôi và tắm rửa sạch sẽ rồi mới tiếp xúc với trẻ. Gia đình đông trẻ con nếu có một cháu bị lên sởi thì phải ở riêng, không cho nằm chung, chăn màn giường chiếu phải giặt sạch. Đang mùa sởi, nếu thấy trẻ có vẻ kém vui đùa, không chịu chơi như mọi ngày thì các bà mẹ nên lưu ý theo dõi ngay xem có phải bị lên sởi hay không. Nếu thấy trán ấm ấm, lại có mụn lờ mờ ở dưới da (da mắt, da trán), dái tai hơi man mát thì đó là dấu hiệu sắp mọc sởi. Lúc này, nên kiêng nước, tránh gió và ủ cho ấm; đồng thời tìm các bài thuốc dưới đây: - Hạt và lá tía tô 30 g, sắn dây 25 g, kinh giới 20 g, mạch môn 20 g, cam thảo 5 g. Tất cả sấy khô, tán bột mịn đóng gói 3 g. Trẻ dưới 1 tuổi uống ngày 2 gói, 3 tuổi uống ngày 4 gói, 5 tuổi uống ngày 6 gói. Hãm thuốc với nước sôi, lọc trong hoặc uống cả bã. Thuốc chỉ dùng trong ngày, uống giai đoạn đầu; khi sởi đã mọc đều hoặc trẻ bị tiêu chảy thì không nên uống. - Củ sắn dây một miếng to bằng hai bao diêm (gọt vỏ thái mỏng); cánh bèo cái lấy độ năm cây (vặt bỏ rễ); kinh giới 10 ngọn (khô hoặc tươi, nếu có hoa càng tốt); cho vào nửa bát nước, đun sôi kỹ. Gạn ra cho trẻ uống khi còn âm ấm rồi đắp chăn cho kín gió. Đây là liều lượng thuốc của các cháu 1-3 tuổi. Nếu trẻ lớn hơn thì tăng số lượng lên gấp hai; bé hơn thì giảm một nửa. Mỗi ngày sắc một thang cho uống, sau 2 ngày sởi mọc ra đều thì thôi.
  17. Hoăc: Lấy 5-6 lá hoa nhài, hoặc 1 cái nấm hương, cho vào một chén nước, đun sôi kỹ, để gần nguội cho uống. Trong 1-2 ngày đầu lên sởi, nếu trẻ có tiêu chảy mỗi ngày 3-4 lần cũng không sao; khi sởi mọc sẽ trở lại bình thường. Sởi mọc được 2-3 ngày, nếu trẻ ho nhiều, có khi ho khản cả tiếng thì nên lấy độ 10 lá diếp cá hoặc 20 lá cúc mốc, rửa sạch bằng nước muối, giã nhừ, vắt lấy nước cốt cho uống từng thìa nhỏ. Với những trẻ có mụn sởi lờ mờ đã 2-3 ngày không mọc ra được rõ, nên lấy một nắm lá mùi già, cho hai bát nước đun sôi kỹ, để âm ấm, lấy khăn mặt sạch thấm nước đó lau từ đầu đến chân, mặc quần áo và đắp chăn ủ ấm. Hoặc lấy một nắm mùi già với một chén rượu đun sôi để nguội rồi phun từ cổ đến chân và lưng bụng (tránh đầu, mặt). Phun xong ủ ấm cho ra mồ hôi. Tiếp đó sẽ cho uống những vị thuốc đã ghi ở trên. Chỉ nên uống độ hai, ba thang. Thấy sởi đã mọc được rồi thì thôi. Sau 3-4 ngày, sởi đã bay thì nên cho ăn các thứ dễ tiêu như: cháo đường, canh rau ngót nấu cá trê, hoặc cá rô. Không nên cho ăn nhiều thịt. Nếu có cho ăn thịt, chỉ nên cho ăn thịt nạc, không ăn quá no. Về thuốc, chỉ cần nấu nước lá thơm như sả, kinh giới, mùi già... để lau cho sạch, không cần xông. Nếu sởi đã bay mà sinh ra kiết lỵ, phân có mũi nhầy hoặc dính máu thì nên cho ăn trứng gà hấp lá mơ, hoặc lấy một chén nước chè tươi rất đặc, hòa vào một thìa đường đỏ cho uống. Nên kiêng ăn mỡ, thịt. Nếu trẻ đã lớn, có thể luộc rau sam non cho ăn, nước rau sam cho uống thay nước thường.
  18. Phòng và điều trị bệnh sởi [16/12/2004] Bệnh sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính đường hô hấp, rất dễ lây, thường gặp ở trẻ em. Bệnh biểu hiện bằng tình trạng viêm long ở kết mạc mắt, niêm mạc đường hô hấp, đường tiêu hóa và phát ban đặc hiệu ngoài da. Tác nhân gây bệnh là virus thuộc nhóm RNA paramyxovirus. Virus sởi xâm nhập niêm mạc đường hô hấp trên, vào máu, sinh sản ở hệ lưới mô bào. Virus có mặt ở họng và máu bệnh nhân từ cuối thời kỳ ủ bệnh cho đến sau khi ban mọc một thời gian; và có thể tồn tại trong không khí ít nhất 34 giờ, nhưng không chịu được khô hanh. Trẻ ốm làm lây bệnh mạnh nhất trong thời gian trước khi ban mọc. Mọi trẻ chưa có miễn dịch với sởi đều có thể nhiễm virus sởi, song lứa tuổi mắc nhiều nhất là 2-6 tuổi. Suy dinh dưỡng làm trẻ dễ mắc sởi, nhưng rồi bệnh sởi lại là thủ phạm gây suy dinh dưỡng hoặc làm cho tình trạng suy dinh dưỡng nặng thêm. Bệnh sởi lây rất nhanh, 90% số trẻ tiếp xúc với trẻ mắc sởi sẽ bị lây bệnh. Virus sởi có thể theo nước bọt người bệnh bắn ra ngoài truyền trực tiếp cho người khác trong phạm vi bán kính 1,2 m mỗi khi ho, hắt hơi, nói chuyện; hoặc theo những giọt nhỏ li ti lơ lửng trong không khí, sau đó xâm nhập niêm mạc đường hô hấp trẻ khác. Bệnh có thể gặp ở mọi nơi và quanh năm nhưng mùa mưa nhiều hơn mùa nắng, dễ bùng lên thành dịch theo chu kỳ 2-4 năm một lần. Ở thể thường, bệnh lành tính. Thời kỳ ủ bệnh chừng 10-12 ngày, có khi ngắn hơn (7 ngày), có khi dài hơn (20 ngày), thường không có biểu hiện gì. Trong một số trường hợp sau khi tiếp xúc với trẻ ốm, trẻ sốt nhẹ trong 5-6 ngày rồi khỏi, và 3-4 ngày sau mới sốt cao và chảy nước mắt nước mũi, hoặc đi tướt, trớ. Trẻ sơ sinh có thể bị xuống cân mặc dù trẻ vẫn bú bình thường. Tiếp đến là thời kỳ khởi phát, dài 4-5 ngày. Hai triệu chứng nổi bật là sốt và viêm long. Trẻ đột ngột sốt cao 39-39,5 độ C, vẻ mệt mỏi, kèm theo nhức đầu, đau cơ, khớp; chảy nước mũi, chảy nước mắt, mắt đỏ, ho nhiều, ho khan, có khi bị tiêu chảy.
  19. Sang ngày thứ hai, các triệu chứng trên nặng thêm. Trẻ ho nhiều, ho khan, đôi khi ho từng cơn, khàn giọng. Có khi bệnh bắt đầu bằng những cơn thở rít (do viêm thanh quản): trẻ chỉ hơi sổ mũi, ban đêm bỗng nổi cơn ho, vùng dậy mê hoảng tưởng như nghẹt thở, nhưng rồi cơn lui dần và trẻ lại nằm ngủ; có khi gần sáng lại lên cơn nữa và khi hết hẳn thì bắt đầu mọc sởi. Lúc này, khám miệng thấy trên nền đỏ thẫm của niêm mạc má có những chấm trắng nhỏ độ 1mm hơi nổi gợn lên (dấu hiệu Koplik). Có khi chỉ có 2-3 nốt ở phần niêm mạc má đối diện với răng hàm số 1. Các nốt này chỉ tồn tại 24-48 giờ và thường lặn hết sau khi sởi mọc 1 ngày. Thời kỳ mọc sởi (5-7 ngày) Các triệu chứng nặng hẳn lên, thân nhiệt tăng vọt, trẻ có thể sốt tới 40 độ C, ho liên tục, co giật, mê sảng... rồi đến đêm thì mọc sởi. Phần nhiều ban mọc ở sau tai, chân tóc rồi lan dần theo trình tự: mặt, cổ, lưng, bụng và chân tay. Đến ngày thứ ba, ban mọc khắp người, ban mọc dầy nhất ở những nơi hay cọ xát hoặc phơi nắng. Có khi các nốt ban hợp với nhau thành từng vầng. Các nốt sởi hình tròn hoặc bầu dục, có màu đỏ hồng nhạt, sờ vào mịn như nhung, ấn vào biến mất, da xung quanh vẫn bình thường. Khi sởi mọc hết thì trẻ hết sốt và sởi bắt đầu bay. Ban sởi bay cũng theo trình tự như khi mọc, để lại các vết thâm và bong da nhỏ như rắc phấn nom vằn như da hổ. Các vết thâm kéo dài khoảng 1 tuần lễ mới hết. Có thể trẻ vẫn còn đau mắt, sổ mũi, quấy khóc, không chịu ăn. Thời kỳ hồi phục Trẻ lại sức dần. Thường sau 1 tuần ban sởi bay hết và chỉ sau 2 tuần trẻ trở lại bình thường. Trên đây là bệnh cảnh lâm sàng của các trường hợp sởi lành tính. Trong thực tế đôi khi gặp sởi ác tính: ban mọc ít, trẻ sốt cao, mê sảng, xuất huyết, đi tiểu ít... có thể dẫn đến tử vong; hoặc biến chứng do bội nhiễm vi khuẩn gây viêm tai giữa, viêm phế quản - phổi, viêm thanh quản (xảy ra sớm, trong những ngày đầu khi mới mọc sởi), viêm não, sơ nhiễm lao hoặc lao tiến triển, viêm cơ tim, viêm miệng hoại tử, khô loét giác mạc do thiếu vitamin A.
nguon tai.lieu . vn