Xem mẫu
- Những Bí Mật Về
Chiến Tranh Việt Nam
Chương 17
Những người chống lại chiến tranh
Vào tuần cuối của tháng 8-1969 tôi đến đại học Quaker ở gần thành phố Philadephia để
dự hội nghị tổ chức 3 năm một lần của những người chống chiến tranh quốc tế (WRI).
Chủ đề của hội nghị là "Tự do và Cách mạng", không giống với chủ đề của Hội nghị
Princeton "Nước Mỹ trong một thế giới cách mạng" được tổ chức trước đó 16 tháng.
Nhưng cuộc gặp mặt những người chống chiến tranh năm nay không được Liên đoàn Ivy
đồng tài trợ. Và tôi không còn đến dự như một người phản cách mạng nhiệt thành nữa.
Mặt khác, tôi cũng không phải là nhà cách mạng Gandi không dùng bạo lực hay người
theo chủ nghĩa yêu chuộng hoà bình, như nhiều người đến dự nghĩ về bản thân họ. Nhưng
một năm sau khi đọc những gì Janaki đã gợi ý nên đọc, tôi rất muốn gặp những người đã
tự coi họ như vậy. Từ trước đến nay, Janaki là người duy nhất tôi thực sự hiểu và thường
xuyên gặp gỡ. Sau Hội nghị ở Princeton, cô ấy đã đến thăm tội ở Malibu và chúng tôi gặp
nhau vài ngày ở London. Cô ấy để lại ấn tượng sâu sắc đối với tôi. Tôi có thể nói cô ấy là
người anh hùng của tôi, giống như một người khác mà tôi đã từng biết đến, Rosa Parks.
15 năm trước đó một trong những người anh hùng của tôi là John Wayne, người đã tuyển
dụng tôi và rất nhiều người khác vào làm việc trong Hải quân Mỹ. Tôi phát hiện ra rằng
lần này điều gì đó đã đổi khác Người anh hùng của tôi đã thay đổi cả màu da lẫn giới
tính. Nhưng tôi còn muốn gặp cả những người khác nữa, tốt nhất là những người có kinh
nghiệm sống gần giống với tôi hơn là với Janaki và hàng ngày áp dụng những nguyên tắc
của Gandi mà tôi được đọc. Tôi sẵn sàng để họ thử thách, thậm chí để họ thay đổi tôi.
Năm trước đó, tôi có đọc những cuốn sách Janaki khuyên tôi nên đọc; trong số đó có hai
cuốn "Bước đi của Luther King hướng tới tự do". "Chinh phục bạo lực" của John
Bondorant, viết về phương châm và thực hành không dùng bạo lực của Gandi và cuốn
"Cách mạng và sự cân bằng" của Barbara Deming, tác giả có những bài viết về nhu cầu
không cần sử dụng vũ lực trong chiến tranh Việt Nam mà tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần.
Tôi cũng đọc nhiều lần một bài viết khác cũng về chủ đề đó, nhưng được một tác giả
khác viết trước đó gần một thế kỷ, cuốn "Về nghĩa vụ không tuân lệnh dân sự" của Henry
David Thoreau. Bản gốc có tiêu đề nghe rất phá phách "Chống lại chính phủ dân sự".
Không tuân lệnh quyền lực dân sự, phải chăng đó là một nghĩa vụ? Liệu đó có phải là sự
lựa chọn hợp pháp không? Theo Thoreau thì trong những hoàn cảnh nhất định, câu trả lời
là có khi "toàn bộ một đất nước bị quân đội nước ngoài vô cớ dày xéo và chiếm
đóng"[95], khi "quân đội của chúng ta là quân đội đi xâm lược"[96]. Ông ta nói trong
- trường hợp như vậy thì tuân lệnh những nhà lãnh đạo trong một sự nghiệp phi nghĩa là
lựa chọn sai lầm. Bản thân ông ta đã vào tù vì từ chối không chịu đóng thuế thân để phản
đối chiến tranh Mehicô. Ông ta chỉ ở trong t ù có một đêm vì, trái với ý muốn của bản
thân, "ai đó đã can thiệp và đóng thuế hộ ông ta[97]. Giống như Gandi hay King, Thoreau
chủ trương không sử dụng vũ lực, nhưng chống lại tội ác nô lệ và một cuộc chiến phi
nghĩa, bài viết của ông ta kêu gọi nổi loạn và phiến loạn không dùng vũ lực. Cùng giống
như Rosa Parks, bằng ví dụ của mình, ông ta hối thúc những gì vượt quá cả sự phản đối
bằng ngôn ngữ bất hợp tác, thường dân không chấp hành mệnh lệnh của quân đội, giống
như việc "binh lính không chịu tham gia vào cuộc chiến phi nghĩa". Tại tiểu bang
Massachusetts, quê hương ông, ông cho rằng những người lính như vậy được nhiều
người khen ngợi nhưng không có nhiều người bắt chước làm theo, trong số hàng ngàn
người, về lý thuyết thì phản đối chế độ nô lệ và chiến tranh, nhưng trên thực tế thì lại
không làm gì để chấm dứt điều đó cả. Họ do dự, họ hối tiếc và thỉnh thoảng họ yêu sách
nhưng họ chẳng làm được điều gì cho ra hồn cả. Họ sẽ đợi những người khác giải quyết
vấn đề này. May lắm thì họ chỉ bỏ lá phiếu rẻ mạt.
Đối với một thế kỷ các độc giả (Tolstoy trích dẫn lời của ông ta để chống lại lệnh gọi
nhập ngũ; Gandi truyền bá lời nói của ông trước đám đông ở Ấn Độ). Thoreau tuyên bố:
"Hãy bỏ lá phiếu của mình. Không phải bỏ một tờ giấy mà là gửi gắm cả ảnh hưởng của
bạn nữa. Một nhóm người thiểu số là bất lực khi nó phải phục t ùng đa số nhưng nó sẽ
không thể đánh bại nếu dồn hết sức lực của mình".
Tôi đọc những dòng chữ đó lần đầu tiên vào mùa hè nàm 1968. Một năm sau việc cử tri
bỏ lá phiếu của mình mà vẫn không kết thúc được cuộc chiến tranh mà họ muốn kết thúc,
văng vẳng trong đầu tôi là câu nói: "Hãy bỏ lá phiếu của mình. Không phải bỏ một tờ
giấy mà là gửi gắm cả ảnh hưởng của bạn nữa"[98]. Tôi đã tới Haverford với hy vọng tìm
hiểu xem điều này có nghĩa là gì.
Nhiều điều đã xảy ra trong suốt 16 tháng đó. Đáng nhẽ ra những điều này phải làm cho
tình hình khác đi, nhưng trên thực tế lại không phải như vậy: chiến dịch bầu cử Tổng
thống đã bắt đầu với cuộc chiến tranh Việt Nam là vấn đề cốt lõi; thay đổi hoàn toàn
trong đảng và chính phủ; khi một chính phủ mới bắt đầu thì người ta thường xem xét kỹ
lại các phương án lựa chọn khác nhau và đặt câu hỏi về bộ máy quan liêu; bắt đầu đàm
phán với Hà Nội. Những vấn đề này, hoặc bất kỳ một khía cạnh nào khác của chính trị
bình thường, dường như sẽ gỡ rối mọi chuyện, mặc dù cử tri trông đợi điều này và rõ
ràng là lo lắng cho nó. Nếu tôi sẵn sàng thay đổi quan hệ của mình với t ình hình, thậm
chí sẵn sàng thay đổi cuộc đời mình thì chắc chắn có lý do của nó.
Janaki đã mời tôi tham dự hội nghị. Cô ấy là một trong những nhà tổ chức hội nghị này.
Cô ấy muốn tôi làm diễn giả lên phát biểu để nêu ra những câu hỏi về chủ nghĩa yêu
chuộng hoà bình mà tôi đã hỏi cô ấy từ những tài liệu mà cô ấy khuyên tôi nên đọc. Tôi
từ chối ngay lời mời này. Tôi biết quá ít về chủ đề này và những suy nghĩ của tôi chưa có
gì là rõ ràng cả để tôi có thể lên tiếng tại hội nghị. Những thông t in tôi có được từ đại học
Harvard, Rand, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ không gây ấn t ượng gì đối với
các đại biểu dự hội nghị. Và tôi cũng không có phẩm chất gì khác để khiến họ tin rằng tôi
là một diễn giả thực thụ. Tôi nói tôi muốn lắng nghe, chứ không muốn tranh luận.
- Tại hội nghị tôi rất ít khi nhìn thấy Janaki. Là nhà tổ chức, co ấy rất bận. Nhưng như
những gì tôi hy vọng, tôi thực sự có cơ hội được gặp một nhà hoạt động đã cùng ăn trưa
với chúng tôi tại Princeton một ngày trước khi tôi gặp Janaki. Trên thực tế, tất cả những
ai ăn rưa cùng chúng tôi hôm đó đều đến dự hội nghị.
Một người trong số đó là Bob Eaton, người đã tới Bắc và Nam Việt Nam trên chiếc tàu
Phoenix, theo kế hoạch sẽ bị tống giam vào sáng ngày thứ ba của hội nghị, tại phòng xử
án liên bang trong toà nhà Bưu điện tại trung tâm Philadelphia. Anh ta sẽ ngồi t ù 3 năm.
Eaton là người đầu tiên chống quân dịch mà tôi được gặp. Anh ta hơn bất kỳ đồng nghiệp
hay bạn bè tôi ở Washington hay Santa Monica. Giờ đây nhìn lại tôi kinh ngạc nhận ra
rằng tôi và bạn bè tôi bị cô lập như thế nào, mãi đến năm 1969 và thậm chí sau khi nhiều
người trong chúng tôi chỉ trích gay gắt cuộc chiến tranh, từ phong tr ào phản chiến đang
rầm rộ hay rộng hơn nữa là phong trào hoà bình. Những gì tôi biết về những con người
đó chủ yếu có được chỉ qua các phương tiện trưyền thông đại chúng, nhìn chung rất tiêu
cực với mức độ khác nhau, nào là cực đoan, đơn giản hoá, thân Cộng sản hoặc thân Mặt
trận dân tộc giải phóng nào là cuồng tín, chống Mỹ và giáo điều. Tôi tới Haverford cũng
một phần là để tìm hiểu xem những gì báo chí viết có chính xác không. Tôi không muốn
bản thân mình bị gọi như vậy (nhưng những năm sau, cái giá mà tôi phải trả vì đã phản
kháng không dùng vũ lực để chống chiến tranh là việc tôi đã bị gán cho tất cả những tội
danh nêu trên).
Nhưng những người mà tôi gặp và lắng nghe tại hội nghị lại không gặp phải những vấn
đề như vậy. Bốn ngày thảo luận sôi nổi mà tôi được tham dự, bao gồm cả những tranh
luận về nguyên tắc và chiến lược chung, cũng như các chiến thuật đã phản bác lại những
tội danh nêu trên. Xin lấy một ví dụ, người ủng hộ thuyết vô chính phủ và yêu chuộng
hoà bình chỉ trích quyền lực và bạo lực của nhà nước mà tất cả các đại biểu đều chung
quan điểm hầu như không tạo ra cơ sở gì cho quan điểm thán phục và không phê phán
Liên Xô, chính quyền ở Hà Nội hay Mặt trận dân tộc giải phóng. Những đại biểu tham dự
hội nghị này phản đối chiến tranh mà không thi vị hoá Việt Cộng, những chiến sĩ cách
mạng sử dụng vũ lực của thế giới thứ ba, hay các nước xã hội chủ nghĩa nhiều hơn là
phản đối nhà nước của chính họ.
Cũng giống như phản đối chiến tranh, khi thách thức việc lạm dụng quyền lực nhà nước,
họ đi quá những lời chỉ trích bên lề. Một số người có mặt, bao gồm Michael Randle, Chủ
tịch của Tổ chức những người chống chiến tranh quốc tế và Devi Prasad, Tổng thư ký
của tổ chức này đã có những hành động trực tiếp không dùng vũ lực tại Đông Âu vào
tháng 9-1968, rải truyền đơn tại một số thủ đô để phản đối việc Liên Xô và Khối hiệp ước
Varsava xâm lược Tiệp Khắc. Điều này đồng nghĩa với những cuộc biểu t ình tại các
quảng trường thành phố, nơi mà các cuộc biểu tình là bất hợp pháp và những người tham
gia sẽ bị bắt ngay lập tức. Trong đa phần các trường hợp, họ sẽ bị giam giữ và cầm tù.
Tôi hoài nghi về cam kết giáo điều đối với chủ nghĩa yêu chuộng hoà bình tuyệt đối mà
họ có. Tổ chức những người chống chiến tranh quốc tế, trong đó Liên đoàn những người
chống chiến tranh là một chi nhánh của Mỹ, đã được thành lập sau Chiến tranh thế giới
- lần II như một tập hợp những người phản đối chiến tranh có lương tri, vào một thời điểm
mà có rất ít nước chính thức công nhận tổ chức đó. Trong thập kỷ 20, tổ chức này đã
thông qua quan điểm của Gandhi và bây giờ tiếp tục mở rộng hơn nữa các cuộc đấu tranh
giải phóng không dùng vũ lực, nhưng nó vẫn giữ các nguyên tắc yêu chuộng hoà bình.
Tôi nói với Randall Kehler, người đứng đầu chi nhánh của Liên đoàn những người chống
chiến tranh tại San Francisco và là một trong những người tổ chức hội nghị, rằng tôi
không thể tham gia chi nhánh này được, vì theo như tôi hiểu thì nó bao gồm việc ký một
cam kết từ chối không tham gia vào tất cả các cuộc chiến tranh, những cuộc chiến bị coi
là tội ác chống lại nhân loại. Mặc dù cuộc chiến tranh Việt Nam và tôi càng ngày càng có
xu hướng hoài nghi về bất kỳ cuộc chiến nào được coi là "chính nghĩa", tôi nói với
Kehler rằng tôi tin là việc tự vệ bằng cách sử dụng vũ lực được biện hộ chống lại sự xâm
lược, giống như trường hợp của Hitler vậy. Kehler nói ông ta cũng có mối băn khoăn
tương tự.
Ông ấy nói: "Tôi chưa bao giờ ký cam kết". Ông ta hỏi những ng ười xung quanh và được
biết đa phần họ cũng chưa ký cam kết. Chủ nghĩa yêu chuộng hoà bình của họ không
phải giáo điều. Nó phát triển và khám phá, công nhận tính bất trắc và tình hình tiến thoái
lưỡng nan.
Một khía cạnh nổi trội của hội nghị này là chiến tranh Việt Nam chắc chắn thu hút được
sự chú ý hàng đầu, trong chương trình nghị sự hoặc trong những cuộc thảo luận. Điều này
xảy ra mặc dù hầu như mọi người có mặt, từ nước Mỹ cho đến các nơi khác, đều kịch liệt
phản đối chiến tranh và mặc dù chiến tranh vẫn tiếp diễn khốc liệt như trước. Thực ra,
máy bay Mỹ không còn ném bom Bắc Việt Nam mà chỉ đơn thuần là chuyển mục tiêu
sang Lào, Nam Việt Nam và bí mật sang Campuchia. Tính tổng cộng, họ đã ném một số
lượng bom lớn hơn trước đó, với số lượng khoảng một triệu tấn bom một năm hay là
bằng nửa tổng số bom ném xuống trong Chiến tranh thế giới lần II. Tuy nhiên biên bản
của hội nghị này cho thấy chỉ có một phần mười giấy tờ và một phần hai mươi diễn giả
tập trung trực tiếp vào chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến mà tất cả các diễn giả đều cho
rằng sắp kết thúc.
Những nhà hoạt động chống chiến tranh này đều có chung một giả thuyết được hầu như
tất cả mọi tầng lớp trong xã hội Mỹ chấp nhận trong vòng 18 tháng kể từ khi Hà Nội
đồng ý lời đề nghị của Johnson tiến hành đàm phán công khai vào ngày 3-4-1968. Giả
thuyết cho rằng cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 và lời đề nghị đàm phán của
Johnson đã vĩnh viễn giải quyết liệu Mỹ có rút quân khỏi Việt Nam và kết thúc chiến
tranh hay không? Người ta cho rằng câu hỏi duy nhất còn lại là những gì mà một diễn giả
đã mô tả là "tốc độ rút quân khi kết thúc cuộc chiến tranh bẩn thỉu đằng đẵng này".
Nhưng tôi biết giả thuyết đó là sai. Tôi vừa được biết tại Washington một tuần trước khi
họp hội nghị về điều bí mật được giữ kín rằng bản thân Nixon không chấp nhận giả
thuyết đó Nixon cũng như Johnson đều không muốn chấp nhận thất bại của Mỹ trong
việc quyết định chính trị của Nam Việt Nam, thất bại trong việc ngăn ngừa sự thống trị
của Cộng sản tại Sài Gòn và những nơi khác nữa. Khi tôi tới Haverford, trong đầu tôi
văng vẳng lời tiên đoán của Halperin với tôi ở Washington: "Chính quyền này sẽ không
tham gia tranh cử năm 1972 mà lại không đặt mìn tại Hải Phòng hay ném bom tại Hà
- Nội". Và sự tiết lộ của Vann rằng ít nhất sẽ vẫn còn hàng nghìn quân Mỹ đóng ở Việt
Nam vào cuối năm 1972. Tại hội nghị tôi không thể tiết lộ những g ì tôi biết. Những thông
tin được tiết lộ cho tôi cực kỳ bí mật. Tôi hầu như không thể nói gì về điều đó mà không
hỏi ý kiến hay nguồn cung cấp thông tin là John Paul Vann và Morton Halperin. Bản thân
hai người này không phải là người chia sẻ thông tin và đã bí mật biết được thông tin này.
Dù thế nào đi nữa thì tôi vẫn cố gắng giải thích rõ ý nghĩa của những thông tin đó. Tôi
dành hẳn 4 ngày hội nghị để xem xem cần phải làm những gì.
Cuối cùng, vào tối thứ ba, tôi đã có cơ hội nói chuyện với Bob Eaton, một đêm trước khi
anh ta bị tống giam, hai năm sau khi anh ta tuyên bố với Uỷ ban tuyển quân rằng anh ta
sẽ không cộng tác với Hệ thống dịch vụ tuyển trạch nữa. Kể từ đó, ngo ài chuyến đi của
anh ta trên tàu Phoenix tới bắc và nam Việt Nam, anh ta làm việc với mạng lưới những
người yêu chuộng hoà bình AQAG (một nhóm hành động Quaker) và nhóm Chống chiến
tranh, ủng hộ việc bất hợp tác với việc tuyểm quân. Tháng 9-1968, anh ta là một trong
những thành viên của tổ chức những người chống chiến tranh quốc tế, suýt nữa thì bị
tống giam tại Đông Âu vì đã phản đối việc xâm lược Tiệp Khắc.
Đúng là một kẻ quấy rối. Tuy nhiên với niềm tin rằng chiến tranh đang kết thúc, án t ù sắp
thi hành đối với Eaton, đối với nhiều người, dường như đã lỗi thời. Anh ta ám chỉ tới thái
độ này trong câu chuyển vào ngày đầu tiên. Nó đề cập tới việc chống lại chủ nghĩa quân
phiệt nói chung, chứ không chỉ chiến tranh Việt Nam vì, như anh ta nói, "Cơ sở của việc
tổ chức lính Mỹ hiện nay là không ai muốn mình là chiến sĩ cuối cùng bị bắn gục trong
chiến tranh. Đó cũng là một vấn đề đối với nhóm Chống chiến tranh, vì tôi nghĩ không ai
muốn là người cuối cùng ngồi tù vì đã chống lại một cuộc chiến tranh".
Một ngày trước khi ngồi tù, ngày 26-8-68, anh ta đã tham dự tất cả các phiên họp, kể cả
một phiên kéo dài tới tận 10h30 tối hôm đó, sau đó có tiệc và khiêu vũ. Tôi tìm thấy anh
ấy trong một căn phòng tách biệt hẳn nơi tổ chức tiệc, tay đang cầm cốc bia nhưng miệng
thì luôn mồm nói về những chiến lược lâu dài và những chiến thuật để thay đổi nước Mỹ.
Tôi gợi ý với anh ấy rằng đó không phải là cách tôi sẽ làm nếu đó là ngày cuối cùng trước
khi tôi ngồi tù. Anh ta trả lời ngay lập tức: "Nhưng đó là cách của tôi. Tôi là nhà tổ chức.
Tôi sẽ là nhà tổ chức trong tù, giống như khi tôi tự do ở bên ngoài vậy".
Sáng hôm sau, thứ tư, hội nghị không tổ chức phiên họp nào để các đại biểu có thể đi
Philadelphia làm thành một vòng tròn xung quanh Toà nhà Bưu điện để cầu nguyện trong
khi Eaton bị giam giữ bên trong. Xe bus và xe hơi sẽ đưa tất cả chúng tôi đi.
Tôi cố nghĩ ra lý do từ chối không tham gia nhưng không dễ. Tôi thấy ngượng ngùng
trước những hồ nghi của bản thân. Thì đã sao nhỉ? Một người tôi ngưỡng mộ bị tống
giam vì đã hành động đúng lương tâm. Anh ta và những người bạn muốn thể hiện tình
đoàn kết với những lý do chính trị dễ hiểu và có thể vì điều đó giúp anh ấy thấy dễ chịu
hơn. Tham dự còn có Pastor Martin Niemoller, một trong những người hùng của thế kỷ
và những người khác mà tôi rất ngưỡng mộ. Vậy thì tại sao tôi lại không tham gia nhỉ?
Thực ra tôi có lý do của riêng mình. Tôi vừa sợ mình sẽ bị phát hiện vừa có cảm giác
- rằng có một điều gì đó không đàng hoàng trong sự kiện này. Điều gì sẽ xảy ra nếu báo
chí hoặc cảnh sát hoặc FBI chụp ảnh chúng tôi? Điều g ì sẽ xảy ra nếu tên tôi xuất hiện
trên các phương tiện truyền thông đại chúng và lan đến tận Washington hay Santa
Monica? Tôi biết đồng nghiệp và bạn bè của tôi tại hai nơi đó sẽ nghĩ gì: họ nghĩ tôi bị
điên. Họ sẽ coi việc đó như việc đó như sự hy sinh phẩm giá vô ích, hy sinh vì những
hành động không mang lại kết quả gì, không có tác dụng gì không đáng phải mạo hiểm
không được tiếp cận với thông tin bí mật và với những con người có ảnh hưởng. Không
ai có thể lý giải được điều này ngoài sự điên rồ. Tôi có thể nghe thấy sự phản ứng của họ
văng vẳng trong đầu tôi và tôi thực sự không thể tranh luận được với điều đó. Đây không
phải là nơi, là cách để tôi tuyên bố với Rand, với Lầu Năm Góc và Nhà Trắng rằng tôi
đang cùng dư luận phải đối chiến tranh. Cuộc chiến tranh mà họ gây ra.
Nhưng Bob Eaton chuẩn bị vào tù và tôi không thể nghĩ ra lý do nào để từ chối không đi
tiễn anh ta. Tôi nghĩ có lẽ mình viện cớ bị ốm nhưng hội nghị vẫn còn họp hai ngày nữa
nên lý do đó không chính đáng. Do vậy vào một sáng tháng 8-1969, trong khi Martin
Niemoller và Devi Prasad đang ở cùng với Bob, thay mặt anh ta để trả lời toà thì tôi đang
ở trung tâm Philadelphia, hoà vào dòng người biểu tình, ăn mặc sặc sỡ, một số người tay
giơ biểu ngữ, một số người khác đang phân phát truyền đơn. Tôi đi theo họ, lúc đầu với
mối nghi hoặc sâu sắc.
Vỉa hè bên ngoài toà nhà Bưu điện ở Philadelphia sáng hôm đó khác xa so với to à nhà
Văn phòng Hành pháp tại Washington, nơi tôi dành tháng hai năm đó viết công văn giấy
tờ cho Tổng thống. Cả hai nơi đều là để "nói lên sự thật với các cơ quan quyền lực" và
"chứng kiến hoà bình". Nhưng bạn không thể làm điều đó ở cả hai nơi, nếu như bạn
không muốn quay lại Hội đồng An ninh quốc gia. Bạn không có cơ hội soạn thảo các bài
bình luận tối mật cho Tổng thống về những phương án lựa chọn cho Việt Nam, hoặc cố
vấn cho trợ lý an ninh quốc gia nếu bạn là loại người bỏ làm mấy ngày liền để biểu t ình
ủng hộ những người chống quân dịch trên đường phố ở Philadelphia.
Bạn sẽ không được những người quyền thế tin cẩn nếu có khả năng rằng bạn sẽ công khai
thách thức chính sách của họ tại bất kỳ một diễn đàn nào. Đó là quy luật bất di bất dịch
của ngành hành pháp. Đó là quy tắc thiêng liêng của những người trong cuộc, của cả
những người quyền thế lẫn những người như tôi có vinh hạnh được cố vấn và giúp đỡ họ.
Tôi hiểu điều đó như bất kỳ một ai khác. Tôi đã sống theo quy tắc đó trong suốt 10 năm
qua, nó đã ăn sâu vào máu thịt tôi rồi. Sáng hôm đó dường như tôi đang vứt bỏ phần máu
thịt đó của mình trước khi tôi có được phần máu thịt mới. Tôi cảm thấy mình đang khoả
thân và trần trụi. Bây giờ những gì tôi nhớ là một ngày u ám, tuyết rơi đầy và rét mướt.
Tôi luôn nhủ thầm rằng đó là Philadelphia vào tháng tám. Nhưng xét cho cùng, chẳng ai
để ý đến tôi cả. Không có cánh báo chí, không có cả cảnh sát nữa. Mọi người thờ ơ đi
qua, cũng chăng thèm dừng lại đọc những tấm biểu ngữ nữa. Một số người cầm lấy tờ
truyền đơn chúng tôi phát cho họ. Những người khác vứt đi hoặc trả lại chúng tôi. Khách
qua đường liếc nhìn chúng tôi hoặc cắm đầu đi thẳng, giống như họ liếc nhìn, hoặc thậm
chí không thèm đếm xỉa đến, những kẻ ăn xin hoặc vô gia cư.
Khung cảnh giống như có diễn giả đứng trên bục diễn thuyết trong công viên Hyde Park.
- Chẳng cần phải nói gì nhiều, bạn đang tự bộc lộ bản thân, biến mình thành trò hề trước
đám đông, đứng trước những người mà bản thân họ cũng chẳng quan trọng g ì và họ sẵn
sàng phớt lờ bạn. Nếu bạn muốn thách thức một nhà nước chỉ bằng một khán đài thì có lẽ
không còn cách nào thất sách hơn như thế. Quan điểm của các quan chức và các nhà tư
vấn cũng giống như quan điểm của tôi. Nếu bạn không có gì tốt hơn để sử dụng một vài
giờ trong quỹ thời gian của bạn hơn là thuyết phục những người qua đường thay đổi suy
nghĩ của họ bằng cách phát truyền đơn thì đúng là bạn hoàn toàn không có một chút
quyền hành nào. Ý nghĩ "Tại sao chúng ta làm điều này? Tôi đang làm gì?" hằn rõ trên
trán tôi giống như biểu ngữ mà người đứng cạnh tôi đang cầm. Tôi thấy thật nực cười.
Cảm giác đó trôi qua mau. Xét cho cùng không ai có thể để ý quá nhiều theo cách này
hay cách khác. Những người bạn đồng hành cùng tôi thấy thoải mái. Có lẽ tất cả bọn họ
trước đây đều đã làm điều này. Tôi muốn giúp họ. Tôi lấy một tập truyền đơn và phân
phát cho người qua đường. Dường như là phải biết cách thì họ mới chịu nhận truyền đơn.
Tôi thử nghiệm với những câu nói dễ chịu khác nhau. Một số câu thành công. Một số câu
khác thì không. Tôi bắt đầu thực sự thích công việc này. Cuối buổi sáng, tôi phát truyền
đơn cho các xe hơi đỗ chờ đèn giao thông tại ngã tư. Tâm trạng của tôi đã thay đổi. Tôi
cảm thấy rất vui, một niềm vui khó giải thích. Đến buổi trưa, mọi người kháo nhau rằng
Eaton đã bị tuyên án và đã được đưa vào xà lim. Thẩm phán đã chăm chú lắng nghe lời
tuyên bố của Pastor Niemoller và những người khác và đã tuyên án Bob chịu 3 năm tù,
bản án mà Bob đã trông đợi. Chúng tôi quay trở lại hội nghị.
Một điều gì đó rất quan trọng đã xảy ra với tôi. Tôi cảm thấy tự do. Tôi không biết là tôi
có thể giải thích lúc đó được hay không. Nhưng bây giờ tôi đã nhìn thấy niềm vui sướng
phấn chấn đó ở người khác, đặc biệt là những người vừa trải qua lần đầu tiên không tuân
thủ công dân, cho dù họ có bị tống giam hay không. Nghi lễ cầu nguyện đơn giản này,
lần đầu tiên tôi làm trước công chúng, đã giải thoát tôi khỏi nỗi sợ hãi mà ai cũng có.
Tôi nghĩ mọi người thường đánh giá quá thấp sức mạnh ức chế của nỗi sợ hãi đó. Tôi
thoát khỏi nỗi sợ hãi rằng mình là một kẻ lạc loài kẻ ngốc nghếch.
Một điều nữa cũng xảy ra, mặc dù mãi về sau này tôi mới nhận thức đầy đủ. Bằng cách
thể hiện tình đoàn kết với Bob Eaton và sát cánh cùng những người có quan điểm như tôi
và những người tôi tôn trọng, tôi đã bước qua một ranh giới khác, một ranh giới vô hình
mà những người được tuyển dụng vạch ra trên nền của trung tâm tuyển việc làm. Tôi đã
tham gia vào phong trào.
Ngày hôm sau, 28-8-1969, ngày cuối cùng của Hội nghị, tôi nghe bài nói chuyện của
Randy Kehler trong phiên họp cuối cùng vào buổi chiều. Trong tất cả các bài nói chuyện
tại hội nghị, bài nói chuyện của ông ta hoàn toàn mang tính cá nhân. Ông nói ông muốn
chia sẻ những suy nghĩ của mình.
Trước đây tôi không có cơ hội nói chuyện lâu với Kether nhưng tôi có ấn tượng rất tốt về
con người ông. Ông lắng nghe rất chăm chú, trả lời mạch lạc. Trong số nhiều thanh niên
Mỹ mà tôi gặp tại hội nghị thì anh ta là người tôi muốn gặp gỡ hơn cả.
- Tôi đã quyết định sẽ sớm đến thăm anh ấy ở San Francisco. Anh ấy có một phong thái
bình dị và thẳng thắn, cùng với sự nồng hậu và khiếu hài hước. Anh ta là một người biết
lôi cuốn người khác.
Tôi hơi ngạc nhiên khi biết rằng chúng tôi học cùng trường đại học và cũng giống như
tôi, anh ấy là sinh viên chuyển tiếp từ Cambridge tới California. Tôi nhớ lúc đó mình
nghĩ rằng đây đúng là nhờ công lao của Đại học Harvard. Sau đó lần đầu tiên tôi có dịp
được nghe về con đường đã dẫn anh ấy thành người đứng đầu văn phòng liên đoàn những
người chống chiến tranh tại San Francisco.
"Khi tôi tốt nghiệp Đại học Harvard và học được ba tuần sau đại học ở Standford, tôi lên
đường đến bờ biển phía Tây. Tôi tham gia vào một cuộc biểu t ình trong đó hàng trăm
người ngồi ở cửa ra vào của trung tâm giới thiệu việc làm, cố gắng đặt câu hỏi cho tất cả
những ai đi qua cửa để được nhận vào làm việc.
Chúng tôi muốn câu hỏi đó phải thực chất, chứ không phải chỉ đơn thuần là một vài từ
ngữ, do đó chúng tôi cứ ngồi lỳ tại lối ra vào như vậy.
"Đó là một kinh nghiệm rất mới đối với tôi và thực sự làm thay đổi toàn bộ cuộc đời tôi.
Trước khi tôi kịp nhận ra điều đó, tôi đã bị tống giam cùng với mấy trăm người kia và lần
đầu tiên tôi tìm thấy một cộng đồng những con ng ười không chỉ đoàn kết với nhau, mà là
một cộng đồng cam kết một điều g ì đó to lớn hơn bản thân họ, cao cả hơn, lý tưởng hơn
bất kỳ những gì mà tôi đã tham gia sau 20 năm cắp sách đến trường. Chính nhờ có cuộc
biểu tình và thời gian tôi bị tống giam với những con người đó mà tôi nhìn thấy một cuộc
sống khác so với cuộc sống mà tôi đang sống. Điều đó khiến tôi quyết định thôi học vả
đầu quân làm việc cho Liên đoàn những người chống chiến tranh, tại San Francisco".
Anh ấy nói về việc không sử dụng vũ lực như một lối sống, nói về hy vọng, nói về hai thế
giới đang song hành cùng tồn tại, một thế giới đang suy vong đầy những lo sợ và một thế
giới khác đang xuất hiện, càng ngày càng giống một gia đình. Những gì tôi nhớ rõ nét
nhất không phải là nội dung anh ta nói mà là những ấn tượng anh để lại trong tôi khi anh
ta đứng lên nói chuyện trước cuộc họp mà không cần chuẩn bị. Lắng nghe anh ấy giống
như là nhìn vào nước trong vắt vậy. Tôi đang tận hưởng một cảm giác mà tôi không nhớ
là mình đã được tận hưởng trong hoàn cảnh nào khác. Tôi thấy tự hào vì anh ấy là người
Mỹ. Cuối hội nghị tôi thấy tự hào rằng, anh ấy, người đang diễn thuyết là người Mỹ.
Thực ra, rất khó có thể hình dung ra ai đó có nét mặt và phong thái giống người Mỹ hơn
Randy Kehler. Đó là những gì khiến tôi thấy tự hào dân tộc. Khán phòng lúc đó toàn các
vị đại biểu đến từ khắp thế giới. Tôi rất vui mừng khi thấy các đại biểu nước ngoài có cơ
hội được nghe anh ấy nói chuyện. Anh ấy là những gì tốt nhất mà chúng ta có.
Vào thời điểm đó, anh ta kéo tôi ra khỏi cảm giác mơ màng khi bất thần anh ta nói:
"Ngày hôm qua một người bạn của tôi, anh Bob đã bị tống giam". Anh ta ngừng trong
giây lát, nuốt nước bọt nghẹn đắng ở cổ. Mọi người nhìn thấy rõ những giọt nước mắt
trên khóe mắt của anh. Anh ta mỉm cười và nói tiếp:
"Điều này giống như lễ cưới khi Jane và tôi lấy nhau cách đây một tháng trên bờ biển San
- Francisco, vì tôi rất hay khóc". Một lát sau anh ta tiếp tục bằng một giọng nói cứng cỏi:
"Tháng trước, David Harris cũng bị tống giam. Những người bạn khác của tôi như
Wanen, John, Teny và nhiều người khác nữa cũng đang ngồi t ù, và tôi thực sự không
buồn về điều đó. Điều đó có một vẻ đẹp riêng và tôi rất phấn khởi nếu tôi cũng sớm được
mời vào tù cùng với họ".
Anh ta lại phải dừng lại. Đại biểu bên dưới rất ngạc nhiên.
Vài người bắt đầu vỗ tay, rồi cả khán phòng cùng vỗ tay và tất cả mọi người đều đứng
dậy. Nhưng anh ấy tiếp tục nói, tiếng vỗ tay ngớt đi và mọ ì người lặng lẽ đứng dậy.
"Ngay bây giờ, tôi là người duy nhất còn lại trong văn phòng liên đoàn những người
chống chiến tranh ở San Francisco vì tất cả những người khác đã ngồi tù rồi. Chẳng bao
lâu nữa khi tôi vào tù thì văn phòng này chỉ còn phụ nữ mà thôi. Điều đó cũng chẳng sao.
Tôi biết rõ. Tôi nghĩ Bob và David cũng biết, nhưng còn có một lý do khác giải thích tại
sao tôi thích ngồi tù mà không hề hối tiếc hay sợ hãi. Đó là vì tôi biết rằng tất cả mọi
người ở đây và nhiều người trên thế giới như các bạn sẽ tiếp tục đấu tranh".
Tất cả mọi người trong khán phòng đều đứng dậy. Họ vỗ tay và hò reo rất lâu. Tôi đứng
dậy cùng với mọi người, nhưng đột nhiên tôi ngã phịch xuống ghế, thở gấp, chóng mặt và
người lắc lư. Tôi khóc, nhiều người khác xung quanh tôi chắc hẳn cũng đang khóc,
nhưng tôi bắt đầu khóc thầm, khuôn mặt nhăn nhó giàn giụa nước mắt, hai bờ vai run lên.
Janaki là diễn giả tiếp theo nhưng tôi không thể nán lại được. Tôi đứng dậy, - tôi đang
ngồi ở dãy ghế cuối cùng trong khán phòng - đi ra phía hành lang sau và t ìm nhà vệ sinh.
Tôi bước vào và bật đèn. Đó là một căn phòng nhỏ, có hai bồn rửa tay. Tôi lảo đảo tựa
lưng vào tường và loạng choạng ngồi xuống sàn nhà lát đá hoa. Tôi bắt đầu khóc nấc lên,
không thể kiềm chế nổi bản thân nữa. Tiếng khóc của tôl giống như tiếng cười, lúc khác
lại giống như tiếng rên rỉ. Tôi thổn thức. Tôi thở gấp.
Tôi ngồi ở đó hơn một tiếng mà không đứng dậy. Đầu tôi thỉnh thoảng dựa vào tường,
thỉnh thoảng tôi hai tay ôm đầu. Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ khóc như thế này trừ
phi tôi biết Bobby Kennedy chết. Một câu nói cứ văng vẳng trong đầu tôi: chúng ta đang
huỷ hoại thế hệ trẻ.
Tôi không sẵn sàng lắng nghe những gì Randy nói. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho điều
đó. Khi anh ta nói tới những người bạn đang ở trong tù và nhận xét rằng anh ấy sẽ nhanh
chóng nhập hội với hó, phải mất một lúc tôi mới định thần được xem anh ấy đang nói cái
gì. Sau đó cảm giác của tôi như thể một chiếc rìu giáng xuống đầu tôi và tim tôi nứt toác
ra. Nhưng những gì thực sự xảy ra là cuộc sống của tôi đã chia tách thành hai phần.
"Chúng ta đang huỷ hoại thế hệ trẻ", tôi ngồi đó trên sàn nhà khu vệ sinh trong giai đoạn
thứ hai của cuộc sống. Trên cả hai bờ giới tuyến ngăn cách, chúng ta đang sử dụng thế hệ
trẻ, sử dụng hết sức lực của họ, "phí phạm" con ng ười họ. Đó là những gì đất nước chúng
tôi đạt tới. Chúng tôi đã đi xa đến mức độ như thế này. Điều tốt nhất mà thanh niên ưu tú
nhất đất nước chúng tôi có thể làm là đi ngồi tù. Con trai tôi, Robert, mới 13 tuổi. Cuộc
chiến này vẫn còn tiếp diễn khi nó tròn 18 tuổi (trên thực tế đúng như vậy). Con trai tôi
sinh ra là để đi tù. Một câu nói khác cứ văng vẳng trong đầu tôi, điệp khúc của một bài
- hát của Leonard Cohen: "Đúng vậy, chúng ta đã đi xa đến mức độ này. Con đường phía
trước cũng chẳng còn xa là bao".
Sau đó khoảng một tiếng, tôi nín khóc. Tôi đờ đẫn nhìn chằm chằm vào hai bồn rửa mặt
trước mặt tôi, suy nghĩ, không khóc, mệt lả và thở dốc. Cuối cùng tôi cũng đứng dậy
được và rửa mặt cho khoan khoái. Tay tôi nắm chặt bồn rửa mặt và nhìn chằm chằm vào
gương. Sau đó tôi lại ngồi bệt xuống sàn nhà và tiếp tục suy nghĩ. Tôi lại khóc, nhưng
khóc ít thôi và không khóc to. Những gì tôi nghe Randy nói bắt đầu dấy lên một câu hỏi
trong đầu tôi. Tôi có thể làm được gì, tôi nên làm gì để góp sức kết thúc cuộc chiến này
giờ đây khi tôi đã sẵn sàng vô tù vì nó?
Không một giai đoạn quá độ nào xảy ra khiến tôi có thể hỏi bản thân rằng tôi có muốn
vào tù không để góp sức kết thúc chiến tranh. Điều đó không xuất hiện như một câu hỏi
mà câu hỏi đó có thể tự trả lời cho bản thân nó. Từ chiến tranh Việt Nam, tôi hiểu lòng
mình hơn. Tôi đã mạo hiểm cuộc sống của mình, hoặc thậm chí tồi tệ hơn nữa là mạo
hiểm cơ thể tôi gấp một nghìn lần hơn là khi tôi lái xe hoặc chiến đấu trên sa trường.
Nếu tôi có thể làm được điều đó khi tôi tin vào cuộc chiến tranh Việt Nam thì điều hiển
nhiên là có thể vào tù để góp sức kết thúc cuộc chiến. Phải chăng hành động vô tù có thể
rút ngắn cuộc chiến lại?
Rõ ràng là Randy nghĩ như vậy. Câu trả lời đó gần như thoả mãn. Ngoài ra, từ kinh
nghiệm bản thân, tôi không mấy nghi ngờ rằng anh ấy đã đúng. Trong sâu thẳm trái tim,
tôi cảm nhận được sức mạnh trong hành động anh ấy làm. Tính cho đến buổi tối nay, tôi
biết mình có đủ sức mạnh và tự do để hành động giống anh ấy.
nguon tai.lieu . vn