Xem mẫu
- Nhà Hậu Lê (1428 - 1527)
2
III. Phát triển văn hóa
1. Tư tưởng
Nhà Lê lấy thuyết Nho giáo của Chu Tử làm mẫu mực cho cách cai trị của triều
đại. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của thời đại. Có thể nói rằng Nho
giáo đã trở thành quốc giáo độc tôn trong triều đình cũng như trong dân gian. Nho
giáo bắt mọi người phải tuyệt đối phục tùng quyền hành tối thượng của nhà vua,
thần thánh hóa nhà vua và phân biệt rạch ròi ranh giới giữa vua, quan, dân.
Các nho sĩ được đào tạo bởi học thuyết Khổng Mạnh tăng lên gấp bội và thay thế
hoàn toàn các tăng sĩ trong cuộc sống chính trị, kinh tế văn hóa. Công việc giáo
dục Nho học trở thành quy củ. Nhà nước khuyến khích học để làm quan, giúp vua
trị nước. Nhà Lê tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xương danh (lễ đọc tên người
thi đậu), lễ vinh quy (lễ đón r ước người thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và
lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu (bắt đầu từ 1422). Vì thế ai nấy đua nhau học
hành để tôn tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được mở mặt và để làng quê
được vinh hiển.
Như thế công việc giáo dục Nho học đã trở thành quy củ. Ngoài trường Quốc Tử
Giám ra còn có các trường học ở các đạo, phủ với rất đông học trò. Các kỳ thi
- được các sĩ tử khắp nơi hưởng ứng. Ví dụ như kỳ thi hội năm 1475 có êến 3.000
thí sinh Nho Giáo đã áp đảo tuyệt đối Phật giáo lẫn Đạo giáo.
2. Văn học
Văn học thời Lê có nội dung yêu nước, tiêu biểu là các tác phẩm của Nguyễn Trãi
như "Quân trung từ mệnh tập", "Bình Ngô đại cáo". Nhóm Tao Đàn tượng trưng
cho nền văn học cung đình, ca ngợi phong cảnh và cũng lồng vào đấy lòng yêu
nước, yêu thiên nhiên. Có những tác phẩm khoa học quan trọng như "Toán pháp
đại thành" của Lương Thế Vinh, "Đại Việt sử ký toàn thư" của Ngô Sĩ Liên, "Dư
địa chí" của Nguyễn Trãi, "Bản thảo thực vật toát yếu" của Phan Phu Tiên.
Văn học chữ Nôm tiếp tục phát triển. Lê Thánh Tông sáng tác thơ văn Nôm và
khuyến khích triều thần sáng tác theo. Điển h ình là "Hồng Đức quốc âm thi tập"
do nhiều tác giả viết chứng tỏ đã có một phong trào trước tác bằng thơ chữ Nôm
vào thời ấy. Bên cạnh "Hồng Đức quốc âm thi tập" còn có "Thập giới cô hồn quốc
ngữ văn" (Mười điều răn cô hồn viết bằng ngôn ngữ n ước ta). Tác phẩm này có
nội dung răn mười giới trong xã hội thời ấy. Đó là thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, nho
sĩ, thiên văn địa lý, thầy thuốc, tướng võ, hoa nương, buôn bán và đãng tử. Qua
mười điều răn này, tác phẩm phản ảnh được hoạt động của từng hạng người trong
khung cảnh xã hội thời ấy.
IV. Nhân vật tiêu biểu
Triều đại nhà Lê ghi vào sử sách những nhân vật anh hùng, lỗi lạc độc đáo như Lê
Lợi, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; Lê Lai (?-1419) liều mình cứu chúa;
Nguyễn Chích (1382 -1448), danh tướng đã đưa ra chiến lược lấy Nghệ An làm
- hậu phương lớn cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; Nguyễn Xí (1398 - 1465), vị tướng
trẻ đã bắt sống được hai tướng Minh là Hoàng Phúc và Thôi Tụ; Trần Nguyên Hãn
(?-1428), người chiến thắng trận Xương Giang; Lê Thánh Tông, bậc minh quân
của lịch sử Việt Nam; nhà toán học Trạng nguyên Lương Thế Vinh (1441-?); sử
gia Ngô Sĩ Liên, tác giả cuốn Đại Việt sử ký toàn thư; Tổ nghề in, nhà văn Thám
hoa Lương Nhữ Học... và đặc biệt là Nguyễn Trãi, một con người toàn tài, đã được
UNESCO phong làm danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Trãi không những giỏi thơ phú, văn chương mà còn là một nhà chính trị
uyên bác đồng thời lại tinh thông luật pháp, địa lý, lịch sử... Thêm vào đó, ông đã
cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho công cuộc xây dựng đất
nước và đào tạo các thế hệ tiếp nối. Cuộc đời của con người sống vì lý tưởng ích
quốc lợi dân ấy, éo le thay, lại gặp phải thảm cảnh "tru di tam tộc".
Nguyễn Trãi vốn là dòng dõi Trần Quang Khải về phía mẹ, là cháu ngoại của Trần
Nguyên Đán, Tư đồ dưới thời Trần Nghệ Tông. Phía nội của Nguyễn Trãi lại là
nhà khoa bảng. Cha là Nguyễn Phi Khanh, đổ Bảng nhãn vào năm 1374.
Trong cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi đem hết tài năng, sức lực phò
trợ cho Lê Lợi. Những chiến thuật chiến lược của ông đã được Lê Lợi sử dụng
thành công trong công cuộc đánh đuổi quân Minh. Tư tưởng lớn của ông "lấy đại
nghĩa để thắng hung tàn, đem chí nhân để thay cường bạo" là đường lối của cuộc
kháng chiến. áng văn bất hủ "Bình Ngô đại cáo" là bản tuyên ngôn về sự độc lập,
tự cường của dân tộc.
- Cuộc kháng chiến thành công, là người có công lớn, Nguyễn Trãi được vua Lê
Thái Tổ phong tước hầu và ban cho quốc tính. Ông đứng đầu hàng ngũ quan văn,
nhận trọng trách soạn thảo các chiếu, chỉ của vua. Về sau, ông phụ trách các kỳ thi
tiến sĩ. Vụ án Lệ chi viên xảy ra, ông bị giết oan. Hai mươi hai năm sau, năm
1464, dưới triều bậc minh quân Lê Thánh Tông, ông mới được minh oan.
Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm bất hủ. Ngoài "Bình ngô đại cáo",
ông là tác giả của công trình Lam Sơn thực lục, viết về lịch sử cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn; Luật thư, nền tảng cho pháp chế thời Lê; Dư địa chí, ghi chép về địa lý
Đại Việt; Băng Hồ di sự lục, viết về Trần Nguyên Đán, úc Trai thi tập...
Năm 1980, ghi nhận về giá trị của cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, tổ chức
UNESCO công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới.
V. Di sản văn hóa tiêu biểu
Triều Lê là triều phong kiến đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã áp dụng chặt chẽ
học thuyết Nho giáo vào việc trị nước. ảnh hưởng Nho giáo bao trùm lên mọi hành
vi, hành động của con người. Giới nho sĩ xuất hiện và đóng một vai trò quyết định
trong xã hội. Sự kiện thoát khỏi ảnh h ưởng của Phật giáo cũng đặt dấu ấn lên kiến
trúc của nhà Lê. Không như những triều đại trước, những công trình quan trọng
của thời này không phải là chùa chiến nữa mà là cung đình, lăng tẩm, nơi tượng
trưng cho quyền uy thiên sử. Thành Thăng Long (tên gọi chính thức của thời này
là Đông Kinh), được xây thêm hai vòng thành phía trong là Hoàng Thành và Cung
thành. Bên cạnh các kiến trúc cung đình, còn có một kiến trúc tượng trương cho tư
tưởng Nho giáo, cho tâm hồn, tâm huyết của kẻ sĩ thời ấy là Văn Miếu.
- Văn miếu - quốc tử giám
Văn miếu tại Hà Nội, nơi tượng trưng cho Nho học Việt Nam, được xây dựng
dười đời vua Lý Thánh Tông vào mùa thu, tháng tám, năm Canh Tuất (1070).
Đồng thời tượng của Khổng Tử và 72 đồ đệ cũng được tạc và thờ tại đây. Sáu năm
sau (1076), vua Lý Nhân Tông lại lập thêm Quốc Tử Giám để làm nơi dạy học.
Thoạt đầu đấy chỉ là nơi học tập của các hoàng tử, dần dần về sau mở rộng ra đến
con quan và con dân. Sang đời nhà Trần, vào năm 1234, Văn Miếu và Quốc Tử
Giám được sửa sang lại. Đến đời nhà Lê, là một nhà nước trọng Nho, xem Nho
giáo như là quốc giáo, thì Văn Miếu và Quốc Tử Giám lại càng được chú trọng
hơn nữa. Kiến trúc này được trùng tu cả thảy 4 lần vào các năm 1511, 1567, 1762
và 1785, nhiều công trình mới được thực hiện như bia đá đề tên tiến sĩ. Qua đến
đời nhà Nguyễn, Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng được trùng tu và bổ sung thêm
Khuê Văn Các, điện Khải Thánh.
Hiện trạng khu di tích ngày nay đã qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được vẻ
cổ kính, thâm nghiêm với diện tích là 24.000m2. Tường bao quanh Văn Miếu
cũng như các bức tường ngăn chia từng khu bên trong đều được xây bằng gạch
Bát Tràng. Mọi kiến trúc ở đây đều được xếp đặt cân xứng theo trục Bắc Nam.
Nếu không tính phần Tiền án, thì có tất cả năm khu.
nguon tai.lieu . vn