Xem mẫu
- Nguyên lý về sự phát triển
1. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với
nhau, quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng .
-Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi
đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật.
Những người theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không
có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với
những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ
nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng
chỉ diễn ra trong một vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát triển chỉ là sự
thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có chứ không có sự
sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những ngườitheo quan điêm
siêu hình còn xem sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục không có
những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
-Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ
thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự
ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực kháchquan hay trong
tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng
mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
-Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay
đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn
ratheo đường xoáy ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển dường như
sự vật ấy quay trở về điểm khởi đầu song trên cơ sở mới cao hơn .
-Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn
giáo về nguồn gốc của sự phát triển, khẳng định nguồn gốc của sự phát
triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật
quy định. Nói cách khác, đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn
trong bản thân sự vật, do đó cũng là quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái
lại, những ngườitheo quan điểm duy tâm hay quan điểm tôn giáo lại
thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, Thượng đế, các lực
lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con người .
-Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại
trong hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự phát triển
là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
của sự vật.
-Theo quan điểm này, sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động
nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động, xu hướng
vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự
- phát triển chỉ là trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình
phát triển, sự vật sẽ hình thành những quy định mới cao hơn về chất, sẽ
làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động của
mình.
-Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tuỳ theo hình thức
tồn tại cụ thể của từng dạng vật chất. Sự phát triển của giới vô cơ thể
hiện ở dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại
giữa chúng và trong các điều kiện nhất định sẽ làm nảy sinh các hợp chất
phức tạp. Từ đó cũng làm xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu - tiền
đề của sự sống. Trong giới hữu cơ, sự phát triển thể hiện ở khả năng
thích nghi của sinh vật với sự biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự
hoàn thiện thường xuyên quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi
trường ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao
hơn và từ đó làm xuất hiện ngày càng nhiều các giống loài mới phù hợp
với môi trường sống. Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh
phục tự nhiên và cải biến xã hội cũng như bản thân con người. Sự phát
triển của mỗi con người biểu hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về
thể chất và tinh thần, phù hợp với sự vận động và phát triển của môi
trường trong đó có con người sinh sống .
-Như vậy, sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ là
hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản
thân con người, trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có
những vận động đi lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi
xuống. Song nếu xét cả quá trình vận động với không gian rộng và thời
gian dài thì quá trình vận động đi lên là khuynh hướng chung của mọi sự
vật.
-. Tính chất của sự phát triển
●Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên đã phân
tích, theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển
nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những
mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự
vật luôn luôn phát triển. Vì thế, sự phát triển là tiến trình kháchquan,
không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức con người. Dù
con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn phát triển theo khuynh
hướng chung nhất của thế giới vật chất.
●Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự
nhiên, xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới
khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực
cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình
thức của tư duy cũng luôn phát triển. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi
- hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù mới có thể
phản ánh đúng hiện thực luôn vận động và phát triển.
●Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có tính đa dạng
phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự
vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát
triển không giống nhau, tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác
nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác
động của các hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố khác. Sự tác động đó
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm
thay đổi chiều hướng của phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật
thụt lùi. Chẳng hạn, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất
lẫn trí tuệ so với trẻ em ở thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những
thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hộimang lại. Hay trong thời
đại hiện nay, thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của các
quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các
quốc gia đã thực hiện chúng do được thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ
trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh
nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất nhiều vào
các nhà lãnh đạo và nhân đân của các nước chậm phát triển và kém phát
triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật hiện tượng có thể có
những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác nhưng
xem xét toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuântheo khuynh hướng chung.
Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển.
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và
về sự phát triển có thể rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và
cải tạo hiện thực.
●Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối
liên hệ với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó
khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải cóquan điểm toàn
diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối
liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng.
●Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối
liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính
sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể
cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có
thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy
đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ
của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và
- ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học
khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng
ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các
mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản
chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận
thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trongquan hệ giữa con
người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng
con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không
gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao
tiếp, cáchquan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: "đối nhân xử thế".
●Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự
vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của
nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật
khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các
phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để
thực hiện mục tiêu : "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh", một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt
khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế
hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.
●Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển,
nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân chúng ta phải cóquan
điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng
nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu
hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
●Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang
tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong
tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như
những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát
những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
● Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá
trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để
tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy
sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳtheo sự
phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người. Sinh viên
là những người đang trong quá trình phát triển về mọi mặt cả về thể lực
và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ
- điều kiện để hoàn thiện bản thân, làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục
trong tương lai.
● Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta.
Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự
vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và
nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính
vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong
việc hiện thực hoáquan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật
nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội .
● Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và
tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi
trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận điểm
nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là
luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường
trong các định luật của hoá học bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và
áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽ không
còn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học
bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ
thống đó .
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
khó khăn, nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải
những bệnh chung của các nước xã hội chủ nghĩa như : bệnh giáo điều,
bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý chí … dẫn đến sự suy thoái, khủng
hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng định ““CNXH trên thế
giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ những khát
vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội IX, trang 65). Nhận
định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát triển
trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như tình
hình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
II Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự
vận động có định hướng từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn mà kết quả là cái mới tiến bộ ra đời
thay thế cái cũ lạc hậu. Sự phát triển của sự vật mang tính phổ biến vì
trong thế giới khách quan, không có sự vật hiện tượng (SVHT) nào đã
đứng im, tĩnh tại mà nó luôn vận động, phát triển không ngừng. Sự mất đi
- của 1 SVHT này là điều kiện ra đời của SVHT khác.
Nguyên lý này cũng khẳng định rằng nguồn gốc của sự phát triển là sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong chính bản thân sự vật
hiện tượng hay nói cách khác đó là do mâu thuẩn nội tại bên trong SVHT,
nó vạch ra cách thức của sự phát triển là vừa có tích lũy dần về lượng,
vừa có sự chuyển hóa về chất, tức là sự phát triển chẳng qua là sự tăng
giảm về lượng và chất (vừa có tính liên tục, vừa có tính gián đoạn).
Nguyên lý về sự phát triển cũng chỉ ra rằng không phải chỉ có khuynh
hướng đi lên mới được coi là sự phát triển mà quá trình phát trển thường
được diễn ra quanh co, phức tạp qua những khâu trung gian mà có lúc bao
hàm cả sự thụt lùi đi xuống tạm thời : đó là khuynh hướng tiến lên của
đường “xoáy tròn ốc”. Trong xu hướng của sự phát triển luôn có tính kế
thừa và sự đi lên này là một quá trình có tính lặp lại.
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc
phục bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều trong tư duy cũng như trong
hành động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là tình trạng ỷ lại, chậm đổi
mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng
lòng thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua những
định kiến. Bệnh bảo thủ trì trệ cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là
khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn,
coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những
nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ
thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý
luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng
lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem
xét điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư
hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần
kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập
thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với
các mối quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng
nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa phương khác vào địa
phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta bắt
chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ
ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có
bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập
trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp
nhẹ … Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan
- duy ý chí là những căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu
quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã
hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh
phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội
Đảng lần IX có viết : “... Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử
về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng
lẫn nhau hướng tới tương lai” (trang 124)
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con
đường XHCN là căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật
biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản
mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế giới đang ở giai
đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước
ta cũng như các nước XHCN vẫn
nguon tai.lieu . vn