Xem mẫu

  1. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Module 1 – Bài đọc thêm số 1 LỊCH SỬ BẢO HIỂM Tài liệu số 1: Đế chế bắt đầu từ quán cà phê (Nguồn lưu trữ: http://www.baohiem.pro.vn/Ins_News_Article.asp?CatID=61&ID=606) Nếu có dịp ghé đến tòa nhà trụ sở của Lloyd’s hôm nay, tại London (Anh), khách tham quan sẽ có dịp chiêm ngưỡng quyển nhật ký từ năm 1912, trưng bày trong tủ kính, được mở tại trang ghi lại sự kiện con tàu huyền thoại Titanic bị đắm. Đó thực sự là một mốc lịch sử bi hùng của Lloyd’s, khi phải chi trả đến đồng bảng cuối cùng cho thảm họa, và lại bắt đầu vươn lên từ hoang tàn thành một thị trường bảo hiểm lớn nhất thế giới như ngày nay. Edward Lloyd (1648 -1713), là một thuyền trưởng về hưu, cùng gia đình chuyển về London và mở quán cà phê Lloyd vào năm 1680 tại phố Tower. Cuối năm 1691, Edward Lloyd chuyển về nhà số 16 phố Lombard, ngay tại trung tâm của giới kinh doanh. Tất cả bắt đầu từ quán cà phê Vào thế kỷ 16-17, London như một trung tâm thương mại. Tại thời điểm đó rất ít doanh nhân tại London có văn phòng riêng. Họ thường tiến hành kinh doanh tại Sở giao dịch. Tuy nhiên các tin tức và thông tin lại được thu thập tại các quán cà phê. Quán cà phê Lloyd chuyên về các thông tin liên quan đến vận tải biển. Nhờ có uy tín bởi các thông tin rất tin cậy về hoạt động hàng hải có được từ các khách hàng và bạn bè, là các thuyền trưởng, thương nhân và chủ tàu, quán cà phê Lloyd’s đã trở thành địa điểm nổi tiếng về dịch vụ bảo hiểm hàng hải. Các thương nhân, chủ tàu, nhà bảo hiểm, đã chọn quán cà phê Lloyd’s để gặp gỡ, tìm hiểu thông tin và làm thủ tục bảo hiểm cho các con tàu và hàng hóa của mình. Trước đó, các hoạt động dịch vụ bảo hiểm hàng hải tại London diễn ra khá lộn xộn cho đến khi quán cà phê của Edward Lloyd phát triển nó thành một sàn giao dịch chính thức cho các thương nhân và nhà bảo hiểm kinh doanh sự rủi ro. Năm 1696, Lloyd quyết định đáp ứng nhu cầu về thông tin của khách hàng bằng việc xuất bản tờ báo ra 3 số một tuần có tên là “Lloyd’s News”, cung cấp các thông tin ngắn gọn về sự kiện ở các nước, chiến tranh, các vụ xử án, hành quyết, và hoạt động của nghị viện. Tuy nhiên báo không có sự nhấn mạnh đặc biệt về các thông tin hàng hải. “Lloyd’s News” đột ngột đình bản tại số 76, ra ngày 23/2/1697, khi đăng một thông tin không chính xác do nhà in tự ý đưa vào. Người ta yêu cầu Lloyd đăng tin cải chính ở số báo sau. Nhưng Lloyd tuyên bố sẽ không ra báo nữa. Trước khi mất, Edward Lloyd đã kịp bàn giao việc kinh doanh quán cà phê cho William Newton, trưởng nhóm bồi bàn, và tổ chức lễ cưới cho con gái Handy với Newton. Chỉ 18 tháng sau, ở tuổi 21, Handy đã trở thành quả phụ và cô cũng không mất nhiều thời gian để tìm được người chồng mới là Samuel Sheppard, là chủ của một cửa hàng, nằm dưới quán cà phê Lloyd’s. Hạnh phúc không kéo dài, Handy mất vào năm 1720. Sự kiện này đồng thời cũng chấm dứt việc kinh doanh của gia đình Lloyd tại quán cà phê. Sau khi Samuel Sheppard mất vào năm 1727, quán cà phê được chuyển về tay người chị của ông là Elizabeth và người chồng là Th omas Jemson. Chính Jemson đã xuất bản tờ báo “Lloyd’s List” vào năm 1734. Tờ báo này, khác với tờ “Lloyd’s News”, chuyên cung cấp các thông tin liên quan đến vận tải hàng hải, một dấu hiệu khởi đầu cho sự ra đời của Lloyd’s sau này. Sau khi Jemson mất được 8 năm, hoạt động kinh doanh của quán cà phê bắt đầu đi xuống. Điều này đã dẫn đến việc một người bồi bàn, Thomas Fielding, ra đi và mở một quán mới tại số 5 ngõ Pope’s Head, vào ngày 21/3/1769, gọi là quán cà phê Tân Lloyd, một tuần sau tờ báo Tân “Lloyd’s List” được phát hành. Trong nhiều năm cả hai quán cà phê Lloyd và hai tờ báo Lloyd’s List cùng tồn tại. Tuy nhiên quán cà phê Tân Lloyd nổi tiếng hơn vì Hiệp hội Lloyd’s, do những người bảo hiểm thường tụ tập tại quán cà phê Lloyd lập ra, đóng trụ sở tại đây. Năm 1771, 79 nhà thanh toán bảo hiểm và môi giới quyết định đóng góp mỗi người 100 bảng để xây trụ sở mới. Lloyd’s không còn là quán cà phê nữa mà trở thành trụ sở đăng ký của những người thanh toán bảo hiểm. Ngày 7/3/1774, các thành viên của Lloyd’s chuyển về Sở giao dịch Hoàng gia. Từ 1928- 1958, Lloyd’s chuyển trụ sở về phố Leadenhall và ngay từ 8/4/1958 đến nay Lloyd’s đóng trụ sở tại phố Lime, London. 51 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  2. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Lloyd’s là ai? Lloyd’s không phải là một công ty bảo hiểm mà là một thị trường bảo hiểm với các thành viên của mình, bao gồm cả pháp nhân và thể nhân. Các thành viên của Lloyd’s (hay còn gọi là người cung cấp vốn) thực hiện giao dịch bảo hiểm thông qua 66 nghiệp đoàn. Các hoạt động kinh doanh bảo hiểm của nghiệp đoàn do các đại lý đảm nhiệm. Ngoài r a, còn có 168 công ty môi giới bảo hiểm được Lloyd’s chứng nhận. Trong số đó có nhiều công ty chuyên sâu về từng lĩnh vực. Ngoài lĩnh vực hàng hải truyền thống, các hoạt động của Lloyd’s hiện đã vươn sang hầu hết các lĩnh vực khác như hàng không, thiên tai, tai nạn nghề nghiệp, động lực. Các công ty hàng đầu thế giới trong các lĩnh vực sản xuất ôtô, dược phẩm, hàng không, ngân hàng, điện tử, chế tạo hiện đều là khách hàng của Lloyd’s. Với tổng giá trị tài sản hơn 35 tỷ USD, hàng năm Lloyd’s nhận bảo hiểm với tổng số giá trị của hợp đồng lên đến hơn 25 tỷ USD. Lloyd’s còn sở hữu một hệ thống máy tính hiện đại xử lý hàng triệu hợp đồng bảo hiểm mỗi năm. Thông qua trang web của Lloyd, các nhà môi giới bảo hiểm và chuyên môn trên toàn thế giới có thể thu thập đư ợc các thông tin về giá trị của hợp đồng bảo hiểm mà Lloyd có thể thanh toán. Khi nói đến Lloyd’s, không thể không nhắc đến chiếc chuông Lutine, nặng 106 pao (khoảng 48kg) và có đường kính 18 inch (45,72cm), gắn liền với lịch sử của Lloyd’s. Chiếc chuông này lần đầu tiên được treo trên tàu khu trục La Lutine (Tiên nữ) của Pháp, đã bị đắm ngoài bờ biển Hà Lan khi đang vận chuyển các thỏi vàng bạc với tổng giá trị khoảng 1 triệu bảng Anh thời đó, được tìm thấy vào năm 1859. Chiếc chuông này, sau đó đã được treo tại phòng thanh toán bảo hiểm của Lloyd’s ở Sở giao dịch Hoàng gia, sẽ vang lên mỗi khi nhận được thông tin về các con tàu không cập cảng theo đúng lịch trình. Các nhà bảo hiểm, trong trường hợp này sẽ yêu cầu các nhà môi giới tái bảo hiểm một phần rủi ro dựa trên khả năng con tàu có thể bị đắm. Khi đã có các thông tin đáng tin cậy về việc con tàu bị đắm, tiếng chuông sẽ thông báo cho mọi người có liên quan biết về sự kiện này. Chuông Lutine đã liên tục được treo tại Sở giao dịch Hoàng gia từ 1890 -1928, phố Leadenhall từ 1928-1958, phố Lime 1958 -1986 và tại tòa nhà hiện nay của Lloyd’s từ 1986. Ngày nay, chuông Lutine không còn vang lên mỗi khi tàu cập cảng chậm mà chỉ vào những dịp nghi lễ long trọng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt ngoại lệ, tiếng chuông vẫn vang lên, chẳng hạn như trường hợp vụ khủng bố 11 tháng 09 năm 2001 tại Mỹ hay vụ nổ tàu con thoi Challenger. Lloyd’s ngày nay Ngày nay, Lloyd’s đã trở thành thị trường bảo hiểm lớn nhất thế giới, nhưng vẫn duy trì mối liên hệ với quá khứ khiêm tốn của mình, tọa lạc trong một tòa cao ốc bằng kính và kim loại có hình dáng giống bình pha cà phê. Lloyd’s có thể bảo hiểm hầu như mọi thứ. Chẳng hạn, người mẫu Petra Morgan trả mỗi năm 86.000 USD để bảo hiểm bộ ngực của mình. Trong trường hợ p nếu bộ ngực bị tổn thương hoặc biến dạng, dẫn đến việc phải chấm dứt sự nghiệp, cô sẽ được bồi thường 16 triệu USD. Khoảng 40.000 người đã bảo hiểm ngôi nhà của mình khỏi bị ma ám; 250.000 người khác bảo hiểm trường hợp bị người tuyết hoặc người khổng lồ tấn công và 60.000 người bảo hiểm trong trường hợp bị biến thành ma cà rồng hoặc ma sói. Lloyd’s còn bảo hiểm các căn cứ quân sự của Mỹ ở nước ngoài trước nguy cơ bị khủng bố tấn công. Tuy nhiên, Lloyd’s chỉ bảo hiểm các tòa nhà, không bảo hiểm trang thiết bị quân sự và nhân mạng, đồng thời cũng không bảo hiểm các cuộc tấn công bằng chất độc hóa học hoặc bom nguyên tử. Với sự kiện 11 tháng 9 tại Mỹ, Lloyd’s đã phải thanh toán tổng cộng gần 3 tỷ USD bảo hiểm cho thảm họa này. Trong thập kỷ 80 Lloyd’s đã phải thanh toán khoảng 12 tỷ USD cho các thiệt hại gây ra bởi các trận bão, động đất và những cái chết liên quan đến chất amiăng. Một số khoản thanh toán đã suýt nhấn chìm Lloyd’s như vụ nổ giàn khoan tại Biển Bắc và vụ dầu tràn Exxon Valdez. Tài liệu số 2: Lịch sử của bảo hiểm hàng hải 52 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  3. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook (Nguồn lưu trữ: http://www.baoviet.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=1&newsId=354&catId=110&lang=VN) Trước lợi nhuận mà ngành thương mại hàng hải mang lại cũng như mức độ và số lượng rủi ro phải ứng phó, các chủ tàu, các nhà buôn bán, những người vận tải luôn luôn tìm kiếm những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình. Đầu tiên là vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên người ta đã tìm cách giảm nhẹ tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình ra làm nhiều chuyến hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó là hình thức nguyên khai của bảo hiểm. Sau đó để đối phó với những tổn thất nặn g nề thì hình thức “cho vay mạo hiểm” đã xuất hiện theo đó trong trường hợp xảy ra tổn thất đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người vay sẽ được miễn không phải trả khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại họ sẽ phải trả một lãi suất rất cao khi hàng hoá đến bến an toàn, như vậy có thể hiểu lãi suất cao này là hình thức sơ khai của phí bảo hiểm. Song số vụ tổn thất xảy ra ngày càng nhiều làm cho các nhà kinh doanh cho vay vốn cũng lâm vào thế nguy hiểm và thay thế nó là hình thức bảo hiểm ra đời. Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa nước Ý, đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1347 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh. Về cơ sở pháp lý thì có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn bản pháp luật đầu tiên trong ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe de Bourgogne năm 1458, những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và ở Amsterdam năm 1558. Ngoài ra còn có sắc lệnh của Phần Lan năm 1563 liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hoá. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội . Mở đường cho sự phát triển này là luật 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth, sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp do Colbert biên soạn và Vua Louis XIV ban hành , đó là những đạo luật mở đường cho lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. Đến thế kỷ XVII, nước Anh đã chiếm vị trí hàng đầu trong buôn bán và hàng hải quốc tế với Luân Đôn là trung tâm phồn thịnh nhất. Tàu của các nước đi từ Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi đều về cập bến hai bờ sông Thame của thành phố Luân Đôn. Các tiệm cà phê là nơi gặp gỡ của các nhà buôn, chủ ngân hàng, người chuyên chở, người bảo hiểm … để giao dịch, trao đổi tin tức, bàn luận trực tiếp với nhau. Edward Lloyd’s là một thuyền trưởng về hưu bắt đầu mở quán cà phê ở phố Great Tower ở Luân Đôn vào khoảng năm 1692. Các các nhà buôn, chủ ngân hàng, người chuyên chở, người bảo hiểm…thường đến đó để trao đổi các thông tin về các con tầu viễn dương, về hàng hóa chuyên chở trên tàu, về sự an toàn và tinh hình tai nạn của c ác chuyến tàu…. Ngoài việc quản lý quán cà phê, năm 1696 Edward Lloyd’s còn cho ra một tờ báo tổng hợp các tình hình tàu bè và các vấn đề khác nhằm cung cấp thông tin cho các khách hàng của ông. Tuy nhiên việc làm chính của ông vẫn là cung cấp địa điểm để khách hàng đến giao dịch bảo hiểm, hội họp. Sau khi Edward Lloyd’s qua đời người ta thấy rằng cần phải có một nơi tương tự như vậy để các nhà khai thác bảo hiểm hàng hải tập trung đến giao dịch bảo hiểm và năm 1770, “Society of Lloyd’s” với tư cách là một tổ chức tự nguyện đã thành lập và thu xếp một địa điểm ở Pope’s Head Alley cho các thành viên của họ. Sau đó tổ chức này rời địa điểm đến trung tâm hối đoái của Hoàng gia và ở đó đến năm 1828 thì rời đến toà nhà riêng của họ tại phố Leaden Hall. Tổ chức nà y hoạt động với tư cách là tổ chức tư nhân đến năm 1871 thì hợp nhất lại theo luật Quốc hội và trở thành Hội đồng Lloyd’s và sau này đã trở thành nơi giao dịch kinh doanh bảo hiểm và hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới. Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hoả hoạn, đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được. Sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả hoạn như : " Fire Office" (năm 1667), "Friendly Society" (năm 1684), "Hand and Hand" (năm 1696), "Lom Bard House" (năm 1704) ... Lúc đó Công ty bảo hiểm Lloyds đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Mãi tới thế kỷ XX mới chuyển sang hoạt động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm. Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập đó là “Company L'assurance Centree L'incendie” và “Company Royade” (năm 1788). Sự kiện đáng được 53 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  4. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook lưu truyền thời gian này và trong lịch sử bảo hiểm là công trình toán học của Pascal về "Hình học của rủi ro " (Lageometric Du Hasard) năm 1654 đã đưa đến toán học xác suất. Đó là cơ sở thống kê xác suất phục vụ cho hoạt động bảo hiểm và ngày nay vẫn được coi là kỹ thuật cơ bản của ngành bảo hiểm. Còn ở Việt Nam, bảo hiểm xuất hiện từ bao giờ? Không có tài liệu nào chứng minh một cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào năm 1880 có các Hội bảo hiểm ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy sĩ, Hoa kỳ... đã để ý đến Đông Dương. Các Hội bảo hiểm ngoại quốc đại diện tại Việt Nam bởi các Công ty thương mại lớn, ngoài việc buôn bán, các Công ty này mở thêm một Trụ sở để làm đại diện bảo hiểm. Vào năm 1926, Chi nhánh đầu tiên là của Công ty Franco- Asietique. Đến năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và ngoại quốc. Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương…. Phan Tiến Nguyên (sưu tầm) Tài liệu số 3: Lịch sử phát triển của dịch vụ bảo hiểm nhân thọ (Nguồn lưu trữ: http://www.baoviet.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=1&newsId=369&catId=110&lang=VN) Con người cùng các thể chế chính trị từng tồn tại trong lịch sử luôn đặt nhiệm vụ hạn chế rủi ro lên hàng đầ u. Dịch vụ bảo hiểm ra đời chẳng qua chỉ để làm nhiệm vụ hạn chế rủi ro ấy. Ở Trung Hoa cách đây hơn 5.000 năm, bảo hiểm được xem là biện pháp ngăn ngừa nạn cướp biển. Lúc bấy giờ bọn cướp biển hoành hành khắp nơi; do vậy để hạn chế rủi ro, khi ra khơi ngư ời ta thường bố trí cho nhiều tàu chia nhau chở kèm một phần hàng hóa của một chiếc tàu khác, phòng khi có một chiếc tàu bị bọn cướp biển tấn công thì phần hàng còn lại chở trên những chiếc tàu kia không bị cướp. Cách nay gần 4,500 năm, ở một nơi khác là đế quốc Babylon cổ, các thương nhân thường phải du thương (buôn bán ở những nơi xa) khá nhiều, và họ đã đối phó với các rủi ro bằng cách đem tiền cho người khác vay. Khi việc vận chuyển hàng hóa đã hoàn tất một cách an toàn, các thương nhân này sẽ bắt người vay tiền hoàn trả khoản vay, kèm theo đó là tiền lời. Vào năm 2100 trước Công Nguyên, đạo luật Hammurabi ra đời đã đặt hoạt động cho vay của các doanh nhân vào khuôn khổ pháp luật. Đạo luật này đã chính thể hóa các khái niệm “bottomry” (chỉ việc mượn tiền trên cơ sở lấy tàu làm bảo đảm) và “respondentia” (chỉ hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy). Các khái niệm này đã đặt nền móng cho thực hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Các hợp đồng loại này gồm 3 yếu tố: khoản vay căn cứ vào giá trị tàu, hàng hóa hay cước vận chuyển; lãi suất; khoản phụ thu cho các trường hợp mất mát có thể xảy ra. Trên thực tế, khi tham gia hợp đồng bảo hiểm, chủ tàu là người được bảo hiểm còn chủ cho vay là người đánh giá rủi ro. Bảo hiểm nhân thọ xuất hiện ở đế quốc La Mã cổ đại không lâu sau đó. Tại đây người ta đã lập nên các hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên, ngoài ra hội cũng hỗ trợ tài chính cho thân nhân người chết. Khoảng năm 450 sau Công Nguyên, đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến việc hầu hết các khái niệm của bảo hiểm nhân thọ bị lãng quên. Tuy nhiên các mặt, tính chất của nó thì vẫn không hề thay đổi trong suốt thời Trung Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ công và thương nghiệp. Các phường hội này đã lập nên nhiều hình thức bảo hiểm thành viên để bù đắp t hiệt hại các vụ hỏa hoạn, lũ lụt, trộm cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm thương tật, tử vong và thậm chí là bảo hiểm tù ngục (bảo hiểm cho trường hợp người mua bảo hiểm phải vào tù). Trong suốt thời phong kiến, các ngành du lịch và mậu dịch ngày càng suy yếu và không còn thịnh đạt như trước, do vậy các hình thức bảo hiểm sơ khai cũng bị mai một. Tuy nhiên trong khoảng thời gian từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 các ngành giao thông, thương nghiệp và cả dịch vụ bảo hiểm đã phát triển trở lại. Dịch vụ bảo hiểm ở Ấn Độ bắt nguồn từ bộ kinh Veda của nước này. Đơn cử là trường hợp của tập đoàn bảo hiểm nhân thọ Yogakshema, một Công ty trực thuộc tổng hội liên hiệp bảo hiểm Ấn Độ. Tên của Công ty này được lấy từ trong kinh Rig Veda. Cụm từ Yogakshema cho thấy ở Ấn Độ vào khoảng năm 1000 trước Công Nguyên, hình thức “bảo hiểm cộng đồng” đã phát triển rất thịnh hành và người Aryan khi đó cũng đã tham gia rất nhiều vào hình thức bảo hiểm này. 54 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  5. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Tương tự với đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo Phật người Ấn Độ đã lập nên nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia đình xây cất nhà cửa đồng thời che chở, đùm bọc các góa phụ và trẻ nhỏ. Dịch vụ bảo hiểm ngày nay Sau Cách Mạng ánh sáng (Glorious Revolution) năm 1688, ở Châu Âu chỉ có Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Nhờ vậy mà trong suốt 3 thập kỷ sau Cách Mạng ánh sáng, ở Anh dịch vụ này đã phát triển rất mạnh mẽ. Hình thức bảo hiểm mà chúng ta thấy ngày nay có nguồn gốc từ thế kỷ 17. Khi đó ở Anh từng có một nơi gọi là Lloyd’s of London, nơi mà về sau người ta biết tới với cái tên Nhà hàng Cà phê Lloyd’s (Lloyd’s Coffee House). Các thương nhân, chủ tàu và các nhà thầu bảo hiểm khi đó hay tụ tập ở nhà hàng này để bàn công chuyện làm ăn và tiến hành các hợp đồng buôn bán. Mặc dù được sử dụng như một công cụ hạn chế rủi ro, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ vẫn bị cuốn vào trò đỏ đen vốn được xem là bản năng của tầng lớp tiểu tư sản Anh đang phát triển rất mạnh mẽ lúc bấy giờ. Khi đó nạn cá cược lan tràn khắp nơi. Thậm chí nếu đọc báo thấy tin có một nhân vật tiếng tăm nào đấy đang bị bệnh nặng sắp chết, người ta liền phỏng đoán ngày chết của nhân vật này, sau đó đổ về Nhà hàng Cà phê Lloyd’s để đặt cược cho ngày chết ấy. Để thể hiện sự phản đối đối với trò cá cược này, vào năm 1679 đã có 79 nhà thầu bảo h iểm quyết định ly khai ra khỏi Nhà hàng Cà phê Lloyd’s. Hai năm sau họ chung tay lập nên “Nhà hàng Cà phê Lloyd’s mới”, nơi được công chúng biết đến với cái tên “Lloyd’s chân chính”. Đến năm 1774, Quốc hội Anh ra sắc lệnh cấm tổ chức, tham gia cá cược trên ngày chết của con người, từ đó vấn nạn này mới chấm dứt. Bảo hiểm có mặt ở Mỹ Ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo hiểm Anh. Vào năm 1735, Công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Charleston, thủ phủ bang South Car olina. Vào năm 1759, Hội nghị Giáo hội Trưởng lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kỳ. Tập đoàn này hoạt động vì lợi ích của các mục sư và tín đồ. Ngày 22/5/1761, tập đoàn này đã ký kết được hợp đồng bảo hi ểm nhân thọ đầu tiên với công chúng Mỹ. Mặc dầu vậy, mãi đến 80 năm sau (tức là sau năm 1840) dịch vụ bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thật sự cất cánh. Chìa khóa dẫn đến thành công chính là nhờ các Công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo. Năm 1835, ở New York đã xảy ra một vụ hỏa hoạn đầy tai tiếng. Vụ hỏa hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước. Hai năm sau, Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp buộc các Công ty phải tự tích lũy nguồn dự trữ này. Vụ cháy lớn ở Chicago vào năm 1871 càng nhấn mạnh sâu sắc một thực tế: nếu hỏa hoạn bùng lên ở những thành phố đông dân, mức độ thiệt hại sẽ vô cùng to lớn. Hình thức bảo hiểm trách nhiệm công cộng xuất hiện trong những năm 1880 và cùng với phát minh ra xe ô tô, hình thức bảo hiểm này đã được công chúng đón nhận và ngày càng thể hiện được tầm quan trọng. Trong suốt quá trình công nghiệp hóa, dịch vụ bảo hiểm đã có rất nhiều bước phát triển. Năm 1897, chính phủ Anh thông qua “Đạo luật bồi thường cho người lao động” (Workmen’s Compensation Act). Đạo luật này buộc các Công ty phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên. Trong thế kỷ 19, người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức khỏe cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội kín này vẫn cứ tiếp tục bảo hiểm cho hội viên; điều này diễn ra tương tự ở hầu hết các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc nhiều hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe cho nhân viên. Các hợp đồng này không chỉ đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân viên khi họ bị bệnh, bị tai nạn hay về hưu. Trong các hợp đồng này thường nhân viên chỉ phải trả một phần phí bảo hiểm. Mặc dù ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Vương Quốc Anh, thị trường bảo hiểm của nước này lại phát triển theo chiều hướng có phần khác với Anh. Lãnh thổ đất nước rộng lớn, sự phân bố đa dạng về mặt địa lý cùng khát vọng độc lập mãnh liệt của người Mỹ chính là những nguyên nhân góp phần tạo nên sự khác biệt này. Khi Mỹ chuyển mình từ một thuộc địa xa bờ của Anh trở thành một thế lực độc lập và từ một nước nông nghiệp thành nước công nghiệp phát triển, ngành kinh doanh bảo hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một vài Công ty ban đầu trở thành một ngành công nghiệp quy mô lớn. 55 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  6. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Tóm lại có thể nói ngành bảo hiểm Mỹ đã phát triển rất tinh vi, sản sinh ra nhiều loại mạng lưới phục vụ và đa dạng hóa dịch vụ để phát triển hài hòa với một quốc gia đang ngày càng phức tạp. Phạm Thị Mỹ Tiên - BVNT Miền Nam (Theo tài liệu nước ngoài) Module 1 – Bài đọc thêm số 2 THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO Tài liệu số 1: Tóm tắt cam kết gia nhập WTO của Việt Nam Nguồn: http://www.baohiem.pro.vn/Ins_News_Article.asp?CatID=66&ID=1655 Bộ Thương mại vừa có một bản tóm tắt về kết quả đàm phán gia nhập WTO. Đây được xem là một bản tóm tắt bao quát nhất các vấn đề cơ bản nhất về cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Bản tóm tắt này được tổng hợp trên cơ sở các văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam đã được Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO phê chuẩn trong phiên họp thứ 14 ngày 26/10 vừa qua. Cam kết đa phương Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh. Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2008. Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kin h tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với ta khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trã đũa nhất định). Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của nước ta. Trợ cấp phi công nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may) Trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phi cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sn lượng. Ngoài mức này, ta còn bo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp đượcWTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu hàng hóa): tuân thủ quy định WTO, Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm). Cam kết của Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khi hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, DN và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với arn phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí… 56 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  7. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức t huế phấn trăm. Đối với bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm. Đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp thương mại nhà nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt dộng DNNN. Tuy nhiên, nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của DN như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của DNNN không phải là mua sắm Chính phủ. Tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại DN: Điều 52 và 104 của Luật DN quy định một số vấ n đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và Công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một DN nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điều và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ôtô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm. Cam kết thực hiện minh bạch hóa, ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí, tran tin điện tử của bộ, ngành. Một số cam kết liên quan khác: thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. Về đa phương, Việt Nam còn đàm phán một số vấn dề đa phưng khác như bo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong c quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại… Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập. Cam kết về thuế nhập khẩu Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5 = 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5 - 7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm. Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim lọai, hóa chất là phương tiện vận tải. Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin (dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. V Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Cam kết về mở của thị trường dịch vụ Về diện cam kết, trong BTA với Hoa Kỳ ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ khoảng 65 phân ngành. Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110 ngành. Về mức độ cam kết, với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch… ta giữ được mức độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước 57 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  8. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã đư ợc phê duyệt cho các ngành này. Cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể. Ngoài ra, công ty nướ c ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20%cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ phần. Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Đồng ý cho phép các DN nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các DN Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Dịch vụ viễn thông, Việt Nam có thêm một số nhận nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng do DN Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nớ i lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng ( chỉ các các doanh nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép). Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt só với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. DN có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể. Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập. Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam. (không quá 30%). Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO Cac cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xâydựng, vận tải… mức độ cam kết về c bn không khác xa so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản. Tài liệu số 2: Các cam kết WTO ảnh hưởng thế nào đến bảo hiểm? Nguồn: http://www.baohiem.pro.vn/Ins_News_Article.asp?CatID=66&ID=1698 Thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh cả về quy mô, chất lượng và cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói chung. Theo Bộ Tài chính, tác động của các cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm trong việc Việt Nam cam kết gia nhập WTO có thể được nhìn nhận từ hai khía cạnh, tác động tích cực và tiêu cực. Quá trình hội nhập sẽ làm giảm chi phí dịch vụ, chất lượng dịch vụ được nâng cao, năng lực thị trường được mở rộng, công nghệ quản lý mới được chuyển giao, trình độ đội ngũ cán bộ được nâng cao... Nhưng, việc thực hiện các cam kết cũng dẫn đến các khả năng gây bất ổn định nói chung của thị trường tài chính, mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, hệ thống quy định quản lý chưa theo kịp được với mức độ mở cửa thị trường... 1. Về cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới 58 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  9. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm vận tải quốc tế, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo hiểm và đặc biệt là được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam. Trong thời gian đầu, các cam kết này có thể sẽ ảnh hưởng mạnh tới một số loại hình bảo hiểm phi nhân thọ và giới hạn trong nhóm đối tượng người nước ngoài và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian trung hạn thì với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bảo h iểm phi nhân thọ trong nước (xét về mặt uy tín và năng lực tài chính) thì các cam kết này không có ảnh hưởng nhiều, một phần do tâm lý khách hàng thường có thiên hướng lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có trụ sở tại Việt Nam, là những doanh nghiệp nắm thông t in về rủi ro tốt nhất do đó có khả năng bảo hiểm tốt nhất, mặt khác các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thông thường cũng muốn thành lập pháp nhân để cung cấp dịch vụ tốt hơn. Hơn nữa, theo xu thế chung và triển vọng phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam, tỷ trọng phí bảo hiểm phi nhân thọ trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của cả thị trường sẽ giảm dần so với nhân thọ, do đó những tác động của cam kết này đối với ngành bảo hiểm sẽ giảm dần theo thời gian. 2. Về các cam kết hiện diện thương mại Có thể nói, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh dịch vụ bảo hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hoá thị trường bảo hiểm và có ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đã hoạt động trên thị trường cũng như tới tình hình chung của thị trường. Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác bảo hiểm của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế sẽ giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm tại Việt Nam. Với năng lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia thị trường này cũng sẽ cho ra đời các sản phẩm bảo hiểm mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện cung cấp dịch vụ tốt hơn, khách hàng sẽ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Đặc biệt, chi phí bảo hiểm là một cấu phần ngày càng quan trọng trong chi phí sản xuất và kinh doanh của các đơn vị kinh tế khi nền kinh tế ngày càng phát triển, vì vậy giảm giá thành đầu vào đối với chi phí bảo hiểm sẽ giúp giảm một cách tương đối giá thành sản xuất sản phẩm và dịch vụ đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam và là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung trong điều kiện toàn cầu hoá ngày càng được đẩy mạnh. Có thể nói, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị trường. Tuy nhiên, song song với các khía cạnh tích cực như vậy, điều kiện thị trường bảo hiểm với sự có mặt của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng sẽ đặt ra một số vấn đề như cạnh tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt động đa dạng của các doanh nghiệp này, song các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù hợp trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường. 3. Cam kết liên quan đến kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc Hiện nay, bảo hiểm bắt buộc theo luật định gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Bảo hiểm cháy, nổ; và các loại bảo hiểm khác được quy định theo điều kiện phát triển của nền kinh tế. Trong những năm gần đây, tỷ trọng phí bảo hiểm thu từ bảo hiểm bắt buộc khá lớn trong tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên, tỷ trọng phí bảo hiểm từ loại hình bảo hiểm bắt buộc này sẽ giảm tương đối qua thời gian khi các nhu cầu bảo hiểm tiềm năng trên thị trường được khai thác tốt hơn do các doanh nghiệp ngày càng trưởng thành về năng lực vốn cũng như về trình độ chuyên môn. Do đó, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài cung cấp các dịch vụ này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thị trường bảo hiểm mà chỉ ảnh hưởng đến thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường và chỉ trong lĩnh vực phi nhân thọ. 4. Cam kết xoả bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 1 năm 59 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  10. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm ra nước ngoài đều phải thực hiện tái bảo hiểm bắt buộc tối thiểu 20% với Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE). Vì vậy thực hiện cam kết xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc này sẽ có tác động kép, trước tiên là ảnh hưởng tới hoạt động của VINARE, đồng thời ảnh hưởng đến tổng mức phí giữ lại của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường, cam kết này nếu được áp dụng chung sẽ tạo điều kiện cho họ linh hoạt hơn trong công tác tái bảo hiểm và tạo điều kiện tái bảo hiểm có lợi hơn xét về mặt kinh tế. Tài liệu số 3: Thị trường bảo hiểm Việt nam sau 01 năm gia nhập WTO Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt nam, Bảo Việt Lựu trữ: http://www.baohiem.pro.vn/Ins_News_Article.asp?CatID=56&ID=2199 Năm 2007, nền kinh tế xã hội Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhiều cơ hội từ việc gia nhập WTO mang lại. Một số ngành đã xấp xỉ đạt chỉ tiêu lên kế kế hoạch phát triển đến năm 2010 như Thủy sản, dệt may, bảo hiểm phi nhân thọ... 9 tháng đầu năm 2007, GDP tăng trưởng 8.116% ước đạt 9% năm cùng với sự tăng trưởng nhanh của XNK, công nghiêp – xây dựng, điện lực, hàng không, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là những tiền đề, cơ sở quan trọng để ngành Bảo hiểm Việt Nam phát triển. Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau 01 năm gia nhập WTO đã có những hình ành đậm nét của một ngành sẵn sàng hội nhập và đáp ứng các chuẩn mực quốc tế. 1. Chế độ Quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được hoàn thiện hơn để củng cố và phát triển thị trường bảo hiểm. Việc ban hành NĐ 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007, NĐ 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 và chuẩn bị ban hành 02 Thông tư hướng dẫn Nghị Định trên thể hiện sự nắm bắt nhu cầu phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, cần thực hiện cam kết WTO hội nhập, và mở cửa thị trường bảo hiểm cần có những cơ chế chính sách quản lý Nhà nước phù hợp. Đây cũng là một biện pháp tạo ra môi trường pháp lý để củng cố thị trường bảo hiểm đang phát triển nóng nhưng cũng tiềm ẩn những khó khăn thách thức đồng thời tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho các DNBH và thị trường bảo hiểm phát triển. Các văn bản pháp quy nói trên điều chỉnh theo hướng đưa ra những chuẩn mực tiên tiến mang tính quốc tế về quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm, công khai minh bạch chế độ quản lý, tăng tính chủ động tự chịu trách nhiệm của DNBH, đảm bảo lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm. 2. Bộ Tài chính ban hành Quyết định 23 Bảo hiểm Bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới, ngày 9/4/2007, Quyết định 28 về Bảo hiểm Cháy nổ bắt buộc ngày 24/4/2007 và chuẩn bị ban hành Quy chế triển k hai thí điểm bảo hiểm liên kết đơn vị và liên kết đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ. 3. Bộ Công An và Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 41 ngày 29/4/2007 về Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc TNDS chủ xe giới, xây dựng được cơ chế phối hợp giữa 02 Bộ, sự chỉ đạo của 02 Bộ tới các đơn vị trực thuộc các DNBH nhằm thực hiện nghiêm chỉnh chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới. 4. Các DNBH đã đóng góp tích cực vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất hình thành quỹ tập trung, quy mô lớn để thực hiện những công việc lớn như đóng góp 5% phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc nhằm góp phần phát triển lực lượng PCCC, 2% phí bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ giới để góp phần đảm bảo an toàn giao thông, đề phòng hạn chế tổn thất và bồi thường nhân đạo. 5. Bảo Việt chọn đối tác chiến lược là HSBC tham gia 10% vốn, Bảo Minh chọn đối tác chiến lược là AXA tham gia 16% vốn thể hiện sức mạnh và uy tín của DNBH Việt Nam đang thu hút các DNBH hàng đầu thế giới sẵn sàng góp vốn kinh doanh, chia sẻ kinh nghiệm về kinh doanh bảo hiểm, quản lý và phát triển sản phẩm. 6. Các DNBH đồng loạt tăng vốn ngoài việc tăng vốn ngoaì việc tăng vốn pháp định theo quy định của Thông tư hướng dấn thi hành NĐ 45, NĐ 46 (300 tỉ đối với DNBH PNTm 600 tỉ với DNBH Nhân thọ), còn làm tăng tiềm lực tài chính, tăng mức giữ lại, giảm đáng kể phần phải tái bảo hiểm ra nước ngoài, tăng cường năng lực đầu tư vào nên kinh tế quốc dân. Tổng số vốn chủ sở hữu của các DNBH lên tới trên 15.000 tỉ đồng trong đó Bảo Việt dẫn đầu với 6.800 tỉ đồng. 7. Các DNBH đang tích cực đưa ra thị trường những sản phẩm bảo hiểm mới phù hợp với các nhu cầu phát triển của nền kinh tế xã hỗi, tăng thêm sự lựa chọn cho người tham gia bảo hiểm như bảo hiểm y tế điều trị chất lượng cao, bảo 60 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  11. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook hiểm hưu trí tự nguyện, bảo hiểm khả năng trả nợ của người vay nợ, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm trách nhiệm của chủ doanh nghiệp, bảo hiểm tai nạn trong ngày nghỉ cuối tuần và các dịp nghỉ lễ tết cho hoạt động du lịch, thăm viếng.. Đến nay, đã có tới 720 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ và 130 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. 8. Các DNBH tích cực tăng thêm dịch vụ gia tăng cho khách hàng tham gia bảo hiểm bằng những hoạt động hỗ trợ: cứu nạn cứu hộ miễn phí, sửa chữa xe không thuộc phạm vi bảo hiểm và bảo dưỡng xe được giảm phí, thẻ ưu tiên điều trị tại các bệnh viện và bác sỹ có uy tín..Các DNBH đã cung cấp hàng triệu mũ bảo hiểm miễn phí cho người tham gia bảo hiểm. Tuy có, một số lượng không nhỏ mũ bảo hiểm kém chất lượng vì DNBH quá tin và không có biện pháp kiểm tra thích hợp với nhà sản xuất mũ bảo hiểm nói trên được người tham gia bảo hiểm chấp thuận và hưởng ứng. 9. Doanh thu phí bảo hiểm Phi nhân thọ tăng trên 30% so với cùng kỳ 2006 cao nhất trong 5 năm qua. Ước năm 2007, đạt 8.350 tỉ đồng, gần tiến tới chỉ tiêu 9.000 tỉ đồng đề ra cho năm 2010 trong chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm 2003-2010 đã được Thủ tướng phê duyệt. Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 12% so với cùng kỳ năm 2006 cao nhất trong 3 năm qua, ước đạt năm 2007 là 9.500 tỉ đồng. 10. Các DNBH đã đầu tư trở lại nền kinh tế quốc dân bằng vốn chủ sở hữu và dự phòng nghiệp vụ ước tính gần 40.000 tỉ đồng tương đương với 2,5 tỉ USD. 11. Các DNBH có vốn nước ngoài đang tích cực chuẩn bị cho ngày 1/1/2008, khi không còn rào cản phân biệt giữa DNBH Việt Nam và DNBH có vốn đầu tư nước ngoài. Các DNBH đang hoạt động tại Việt Nam đang tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh và chuẩn bị sẵn sàng cạnh tranh lành mạnh trong giai đoạn tới. Hiệp Hội Bảo Hiểm Việt Nam Một số nhận định về ngành Bảo hiểm sau gần 1 năm Việt Nam gia nhập WTO Sau nhiều năm đàm phán và thực hiện những thủ tục cần thiết, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) vào tháng 11/2006. Đã có rất nhiều bài viết phân tích về những cam kết của Việt Nam và ảnh hưởng của việc gia nhập WTO đối với tương lai của nền kinh tế nói chung, đối với thị trường tài chính bảo hiểm nói riêng với nhiều góc nhìn khác nhau. Dưới đây, chúng tôi trân trọn g giới thiệu tới độc giả một số ý kiến phân tích của các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính bảo hiểm về những thuận lợi, thách thức của ngành bảo hiểm trong tương lai. * Ông Trần Xuân Hà - Thứ trưởng Bộ Tài Chính: Bảo hiểm còn nhiều tiềm năng cần khai thác. Năm 2006, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có bước phát triển khá hơn so với năm 2005. Số lượng công ty bảo hiểm tăng lên 37 doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường đạt 1,82% GDP, tăng trưởng 14% so với năm 2005. Đây là dấu hiệu tốt, cho thấy thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Về giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam: đối với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm là Bộ Tài chính, Vụ Bảo hiểm, cần phải tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Chính sách về bảo hiểm phải rõ ràng, minh bạch, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ngoài ra, giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ để cùng nhau nắm bắt thông tin. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát, cưỡng chế của cơ quan quản lý đối với hoạt động bảo hiểm. Cần phối hợp với Hiệp hội Bảo hiểm thực thi những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực. Hiệp hội cần nhạy bén, nhanh nhạy hơn và đề ra những quy tắc cho hoạt động bảo hiểm. Đối với khối doanh nghiệp bảo hiểm, vấn đề đặt ra là phải làm sao nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh. Trên thị trường bảo hiểm đã có một số doanh nghiệp vốn lớn, song cũng có những doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực tài chính thấp. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có kế hoạch tăng năng lực tài chính dưới mọi hình thức, kể cả liên doanh, liên kết. Có khá nhiều điều cần phải tăng cường hơn nữa trong thời gian tới như: kiểm tr a, kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro, giám sát tính độc lập của hội đồng quản trị, cổ đông thiểu số, công bố thông tin, công khai, minh bạch tài chính kế toán. Để mở rộng và phát triển thị trường bảo hiểm, bản thân các doanh nghiệp cũng cần đa dạng hóa cá c sản phẩm, xem xét phát triển thêm các kênh bán hàng khác bên cạnh kênh truyền thống là đại lý, nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới như bancassurance, bảo hiểm liên kết đầu tư. Vừa qua, nhiều doanh nghiệp đã thành lập công ty quản lý quỹ nhằm quản lý phần vốn nhàn rỗi từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ để đầu tư vào thị trường chứng khoán, coi đây là cơ hội tốt để sử dụng vốn hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn những rủi ro, nên cũng cũng cần xem xét kỹ hơn. Về vấn đề con người, các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ của cán bộ. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, vấn đề quan trọng nhất là 61 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  12. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook quản lý dòng tiền, nên cần phải có các chuyên gia về tính phí và phát triển đội ngũ chuyên gia này. Còn doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, điều quan tâm nhất là vấn đề trong sạch; trong quản lý kế toán tài chính thì vấn đề chi trả bồi thường, hoa hồng cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động bảo hiểm là cực kỳ quan trọng. Hiện nay, việc đầu tư cho công nghệ thông tin của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa được đồng đều. Mục tiêu doanh thu phí bảo hiểm đạt 4% GDP vào năm 2010 tuy khó nhưng vẫn có khả năng đạt được. Điều này cho thấy thị trường bảo hiểm có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp khai thác, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập. Về cung trên thị trường bảo hiểm, doanh nghiệp cần có thêm những sản phẩm mới. Cơ quan quản lý sẽ không can thiệp sâu vào việc quản lý các sản phẩm của doanh nghiệp, mà sẽ có cơ chế cho doanh nghiệp đăng ký sản phẩm. Còn chất lượng sản phẩm thế nào thì phụ thuộc vào chính doanh nghiệp. Về cầu thì phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của người dân, nhận thức của người dân. Để phát triển thị trường bảo hiểm, vấn đề cốt lõi là thể chế phải rõ ràng, không chỉ ở văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kinh doanh bảo hiểm mà còn ở các văn bản liên quan, sự ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước. Chính phủ đã ban hành Nghị định 45 và 46 liên quan đến vấn đề này, sắp tới Bộ Tài chính sẽ tiếp tục ban hành các thông tư hướng dẫn. * Bà Nguyễn Thị Bích - Vụ trưởng Vụ Quan Hệ quốc tế Bộ Tài Chính: Tác động của cam kết đối với dịch vụ bảo hiểm. Đây là dịch vụ mà các thành viên WTO quan tâm và yêu cầu cao về mức độ mở cửa thị trường cho các công ty bảo hiểm nuớc ngoài. Tuy nhiên, mức cam kết của ta đạt được trong Biểu cam kết tốt hơn so với mức cam kết của các nước mới gia nhập WTO gần đây. Về tổng thể, mức cam kết như trên là tương đương với BTA. Điểm khác duy nhất là ta mở thêm cho chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ. Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm tr ong nước thời gian tới sẽ sôi động hơn và sẽ có tác dụng thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển. Trên thực tế thị trường bảo hiểm đã bắt đầu được mở cửa cho các công ty bảo hiểm quốc tế 100% vốn đầu tư nước ngoài từ năm 1999. Nhiều công ty bảo hiểm lớn trên thế giới đều đã có mặt tại thị trường Việt Nam. Từ khi mở cửa thị trường bảo hiểm (1993) các công ty bảo hiểm Việt Nam lớn mạnh hơn, doanh số vẫn tăng trưởng hàng năm. Việc phát triển thị trường bảo hiểm là yêu cầu tất yếu của đời sống xã hội, bảo hiểm là dịch vụ cơ bản rất cần thiết cho hoạt động đầu tư và thương mại. Thị trường bảo hiểm phát triển góp phần đáng kể cho việc phát triển thị trường vốn trong nước. Các doanh nghiệp bảo hiểm có thể trở thành các định chế tài chính trung gian hữu hiệu, nó có chức năng chuyển các nguồn vốn nhàn rỗi ngắn hạn trong xã hội thành các nguồn đầu tư dài hạn. Tác động của cam kết đối với hoạt động của thị trường: Theo đánh giá sơ bộ việc mở cửa thị trường theo các cam kết WTO về cơ bản sẽ có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước: - Việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hóa và khiến thị trường sôi động hơn. - Mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước. Tuy nhiên, việc tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm cũng có những tác động bất lợi đối với công ty bảo hiểm trong nước và khả năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này: - Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường là tác động rõ ràng nhất ở một nước bắt đầu tiến hành mở cửa thị trường. - Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã diễn ra khi sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân lực trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Do đó, nếu các công ty bảo hiểm trong nước không c ó những điều chỉnh liên quan đến chính sách nhân sự trong thời gian tới sẽ bị mất lợi thế quan trọng trước các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh. - Thị trường phát triển nhanh về quy mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép đối với các nhà quản lý trong lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng; khả năng giải quyết tranh chấp; thị trường bị chia cắt manh mún và vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống. Khuôn khổ pháp luật và công tác quản lý nhà nước: Các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiện hành về cơ bản đã khá hoàn chỉnh, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện một số các 62 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  13. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook cam kết còn lại và đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường, một số yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm: -Để thực hiện các cam kết, bổ sung các quy định về chi nhánh trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, bãi bỏ các quy định mang tính bảo hộ các doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động, đối tượng khách hàng, các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm bắt buộc; hoàn thiện các điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép minh bạch, thận trọng thay thế cho cơ chế cấp phép theo từng trường hợp cụ thể. -Bổ sung, sửa đổi một số quy định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư có năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO. Các quy định này giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro đồng thời hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng. -Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường, bao gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng liên quan (đại lý, môi giới bảo hiểm). Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động cạnh tranh đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường ngành bảo hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm. * Ông Phùng Đắc Lộc, Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam: Nên ứng dụng thương mại điện tử. Khi mở cửa thị trường bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ mất hẳn sự bảo hộ của nhà nước, không có sự phân biệt đối xử với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Một số doanh nghiệp bảo hiểm thuộc lĩnh vực sở hữu nhà nước phải tiến hành cổ phần hóa, trong đó sức ép chia lãi cho cổ đông không phải là nhỏ nếu kinh doanh bảo hiểm và đầu tư không hiệu quả. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp cần tiếp tục trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp, trong đó quan trọng nhất là ứng dụng thương mại điện tử. Người có nhu cầu về bảo hiểm có thể lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của các doanh nghiệp trên mạng. * Ông Trần Trọng Phúc, Tổng Giám đốc Bảo Việt Việt Nam: Giảm phí, chi hoa hồng cao rất nguy hiểm. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng tốt. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, thị trường hiện nay còn những vấn đề còn bất cập trong cạnh tranh như chi hoa hồng cao. Đơn cử như trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, Bộ Tài chính quy định mức hoa hồng là 12% nhưng trong thực tế nhi ều doanh nghiệp đã thực hiện mức khấu trừ 25 - 30% cho khách hàng. Còn về phí, có những sản phẩm bảo hiểm phí giảm tới 30-40%. Thậm chí còn hạ tới dưới mức sàn mà các công ty bảo hiểm nước ngoài đưa ra. Điều này rất nguy hiểm, vì không tái bảo hiểm được thì các doanh nghiệp này sẽ phải gánh chịu toàn bộ rủi ro (nếu có), khi tổn thất lớn sẽ vượt quá khả năng thanh toán của họ. * Ông Trần Vĩnh Đức, Tổng Giám đốc Bảo Minh, thừa nhận: dù Bảo Việt, Bảo Minh, Pjico đang chiếm thị phần lớn trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, song điểm đáng lo ngại là “giỏ” sản phẩm của các doanh nghiệp vẫn còn nghèo nàn, copy của nhau và nhiều sản phẩm ra đời từ những năm 1990 nhưng đến nay vẫn chưa được cải thiện. Các doanh nghiệp cạnh tranh chủ yếu vẫn bằng phí bảo hiểm nên phí này ngày càng giảm. Do vậy, việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO đã đặt ra cho các công ty bảo hiểm những thách thức mới. Đó là các doanh nghiệp bảo hiểm tại nước ngoài được phép cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp có vốn nước ngoài và doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm… Ngoài ra từ 1/1/2008, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài được phép kinh doanh các loại hình bảo hiểm bắt buộc tại Việt Nam như bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, bảo hiểm người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy nổ trên đường thủy nội địa, tới đây là bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế… Qua những ý kiến trên đây cho thấy rằng các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng cần phải nhanh chóng đánh giá lại những thế mạnh và điểm yếu của mình để có thể phát triển bền vững trong tương lai. Mai Anh (Nguồn: Bảo Việt) 63 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  14. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Module 2 – Bài đọc thêm RỦI RO VÀ XỬ LÝ RỦI RO Tài liệu 1: Rủi ro là gì? Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn về mất mát sẽ xảy ra (uncertainty about the occurrence of a loss). Với khái niệm về rủi ro này, nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1 , thì không có rủi ro. Ví dụ, nếu một người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng xuống mặt đất thì cầm chắc cái chết. Mặc dù có chuyện mất mát về nhân mạng nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước. Tuy nhiên, nếu một cascadeur nhảy từ lầu cao xuống đất bằng dù thì người này có thể chết hay không chết. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về hậu quả, tức là có rủi ro trong hành động của người diễn viên đóng thế này. Nói đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất (probability) hay là khả năng xảy ra mất mát. Xác suất khách quan (objective probability) - còn gọi là xác suất tiên nghiệm (a priori probability) được xác định bằng phương pháp diễn dịch (deduction). Ví dụ như đồng tiền sấp hay ngửa thì xác suất của nó là 50%. Tuy nhiên, xác suất khách quan có lúc không thể xác định bằng tư duy logic. Chẳng hạn như không thể suy diễn rằng xác suất của một người đàn ông lái xe hơi có gây tai nạn hay không trong năm tới là 50% bởi còn nhiều yếu tố liên quan khác như độ tuổi, xe cũ hay mới... Tuy nhiên, bằng cách phân tích kỹ lưỡng những trường hợp tai nạn xe hơi trước đây, người ta có thể ước tính xác suất tai nạn theo lối suy luận quy nạp (inductive reasoning). Ngoài xác suất khách quan, có thể kể thêm xác suất chủ quan (subjective probability) là ước tính của từng cá nhân đối với khả năng xảy ra mất mát. Ví dụ như nếu có 1 triệu vé số bán ra chỉ có 1 người trúng thì xác suất khách quan là 1 phần triệu. Mặc dù vậy vẫn có nhiều người mua nhiều vé số vì xác suất chủ quan của họ cao hơn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xác suất chủ quan như tuổi, giới tính, trình độ học vấn và cả óc mê tín dị đoan... Để hiểu thêm về rủi ro cần phân biệt sự khác nhau giữa hiểm họa (peril) và mối nguy (hazard). Hiểm họa được hiểu như là nguyên nhân dẫn đến mất mát. Ví dụ một ngôi nhà bị cháy thì hỏa hoạn là hiểm họa đã gây ra thiệt hại đối với ngôi nhà; hai xe hơi đụng nhau thì việc đụng xe là hiểm họa làm cho xe bị hư hỏng. Trong khi đó, mối nguy được xem là tác nhân làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Nếu như hỏa hoạn được xem là hiểm họa thì dầu lửa trong khu vực hỏa hoạn được xem là mối nguy. Để tiện phân tích, người ta chia mối nguy thành ba loại: mối nguy vật chất (physical hazard), mối nguy đạo đức (moral hazard) và mối nguy tinh thần (morale hazard). Mối nguy vật chất là tình trạng vật chất yếu kém làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Tình trạng đường sá ở Việt Nam ta là ví dụ sống động về mối nguy vật chất. Một số nơi đèn đường không đủ sáng, có ổ gà, việc phân luồng phân tuyến cho xe chạy không hợp lý là những mối nguy làm cho tai nạn xảy ra thường xuyên hơn. Mối nguy đạo đức là sự không trung thực của một cá nhân nào đó làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Ví dụ có người mua bảo hiểm cho căn nhà của mình rồi gây hỏa hoạn để lấy tiền bồi thường, hay một người biết mình bị ung thư nhưng vẫn khai là sức khỏe của mình tốt để mua bảo hiểm và được bồi thường. Mối nguy tinh thần là sự bất cẩn hay thờ ơ của một cá nhân dẫn đến mất mát vì người này chủ quan cho rằng mình đã mua bảo hiểm. Ví dụ một người cứ nghĩ mình đã có bảo hiểm nên cứ phóng xe ào ào giữa phố xá đông người mặc dù thỉnh thoảng trong người có hơi men. Việc xác định mối nguy đạo đức và mối nguy tinh thần có ý nghĩa quan trọng, nhất là đối với các hãng bảo hiểm khi ký hợp đồng với khách hàng. Để tránh mối nguy đạo đức, họ phải thiết lập một hệ thống phân loại và đánh giá rủi ro 64 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  15. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook trước khi bảo hiểm (underwriting) một cách hiệu quả. Mối nguy tinh thần thì khó xác định hơn nên có khi công ty bảo hiểm không chịu bồi thường toàn bộ mà người mua bảo hiểm cũng phải chịu trách nhiệm chi trả trong một hạn mức quy định (deductible) hoặc cùng công ty bảo hiểm thanh toán một phần chi phí (co-insurance). Đến đây thì độc giả có thể thông cảm với công ty bảo hiểm vì họ phải đối đầu với rủi ro ngay trước khi ký hợp đồng với khách h àng. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm nắm rõ rủi ro hơn khách hàng nên “phần thắng” bao giờ cũng thuộc về họ. Từ đó chúng ta rút ra được bài học: trong cuộc sống hay trên thương trường, ai hiểu biết về rủi ro nhiều hơn sẽ trở thành người chiến thắng. Nguyễn Hữu Huy (Nguồn: TBKTSG số 27-2007) Tài liệu 2: Có tránh được rủi ro Quản lý rủi ro (QLRR) bằng cách tránh né (risk avoidance) là cách đơn giản nhất: nếu Thái Lan an ninh bất ổn, thì tốt nhất không nên du lịch sang đó; muốn không bị tai nạn giao thông t hì đừng bước ra ngoài đường; không muốn phá sản thì đừng kinh doanh... Tuy nhiên, áp dụng phương cách QLRR này thì có lẽ không ai dám bước ra khỏi nhà, đi du lịch hay bỏ vốn ra kinh doanh cả. Vì vậy trong cuộc sống mọi người trong chúng ta đều phải chấp nhận thực tế và duy trì rủi ro (risk retention). Ví dụ có người mua một căn nhà vài tỉ đồng nhưng không chịu bỏ tiền mua bảo hiểm vì cho rằng khả năng xảy ra hỏa hoạn là rất thấp. Cũng có khi người ta duy trì rủi ro vì thiếu hiểu biết, thờ ơ, chần chừ hoặc cho rằng chuyện đó không muốn đến với mình. Chẳng hạn như ít ai quan tâm đến rủi ro bị tật nguyền mặc dù nếu điều này xảy ra thì thiệt hại về tài chính sẽ khá lớn. Nhưng cách QLRR thông thường nhất là ai cũng tìm cách giảm mức độ thiệt hại hay tần suất rủ i ro (risk reduction). Đội mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy, buộc dây an toàn khi đi ô tô là cách giảm rủi ro nếu tai nạn xảy ra. Không hút thuốc, bớt uống rượu, sinh hoạt lành mạnh, nghỉ ngơi... là những cách giảm rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe. Báo Thanh Niên mới đây có kể chuyện “khó tin” về những người nông dân ở huyện Điện Bàn - Quảng Nam mỗi năm bỏ ra 150.000 đồng bảo hiểm mỗi con bò cho hợp tác xã (HTX) mà mình là hội viên. Bù lại trách nhiệm chăm sóc sức khỏe, tư vấn kỹ thuật trồng cỏ, bón phân lẫn tiêm vắc-xin phòng bệnh... cho bò sẽ do cán bộ của HTX đảm trách. Khi phát hiện bò có dấu hiệu bị bệnh, cán bộ HTX sẽ khoanh vùng, hạn chế dịch bệnh lây lan. Nhìn từ góc độ của nhà tư vấn, đây là phương pháp QLRR bằng cách chia sẻ rủi ro (risk sharing). Trong kinh doanh, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn là điển hình cụ thể về chia sẻ rủi ro vì trong trường hợp mắc nợ hay phá sản, trách nhiệm chỉ giới hạn trong phần vốn của từng cổ đông đóng góp. Có thể QLRR bằng cách chuyển rủi ro (transfering risk) cho một người khác hay một bên thứ ba. Ví dụ trong hợp đồng mua bán có thể quy định việc bồi thường cho người mua trong trường hợp hàng hóa không sử dụng được: rủi ro đã được chuyển từ người mua sang người bán. Một ví dụ khác là hợp đồng bảo hiểm theo đó một c á nhân trả bảo phí để chuyển rủi ro cho hãng bảo hiểm để bồi thường một thiệt hại hay mất mát nào đó. Thật vậy, kỹ thuật QLRR hiệu quả nhất trong thực tiễn cuộc sống và môi trường chính trị, kinh tế, thương mại, xã hội hiện nay chính là bảo hiểm. Nhờ lợi ích của việc tính toán xác suất và phương pháp tập trung nguồn lực để phân bổ và giảm thiểu rủi ro (risk pooling), bảo hiểm giúp xã hội sử dụng tối ưu đồng tiền và từng cá nhân và toàn xã hội không nhất thiết phải để dành một khoản tiền dự trữ quá lớn. Ví dụ, trong một khu vực dân cư nào đó dễ bị dông bão có 2.000 căn nhà, mỗi căn trị giá 1 tỉ đồng và đều đối phó với cùng một xác suất là bị bão tàn phá. Trong một năm nào đó, nếu thống kê cho thấy có hai căn nhà bị bão tàn phá và điều này cho thấy từng căn nhà tương đối an toàn và xác suất rủi ro chỉ là 0,1% (2-2000). Thiệt hại cho hai căn nhà 65 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  16. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook này là hai tỉ và là cả một mất mát cho gia đình của họ. Tuy nhiên, chỉ cần lập một quỹ chung, mỗi gia đình đóng góp 1 triệu đồng để huy động được 2 tỉ (1 triệu x 2.000) thì có thể giúp gia đình người này khắc phục hậu quả. Người dân chỉ bỏ ra 1 triệu đồng bảo phí để mua được sự bình an. Khái niệm về quỹ chung này tương tự việc bảo hiểm nuôi bò như đã trình bày ở trên và nếu nhân rộng ra, nó sẽ giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nhưng nói gì thì nói, học phải đi đôi với hành, trong cuộc sống thường nhật của chúng ta không thiếu những tình huống và môi trường để áp dụng những phương pháp QLRR nói trên. Ví dụ bạn có một đứa con trong lứa tuổi họ c trò thích đàn đúm với bạn bè và chat trên Internet. Để tránh rủi ro, bạn chỉ cần nhốt con của mình trong nhà và không cho đi đâu hết. Tuy nhiên, vì sự phát triển tự nhiên của cháu, bạn cần phải duy trì rủi ro để cháu có cơ hội giao tiếp trong môi trường học tập hay xã hội. Tuy nhiên, bạn cần giảm thiểu rủi ro khi quy định thời gian đi chơi, thời gian sử dụng máy tính, giúp cháu có thời gian biểu học tập, nghỉ ngơi hay vui chơi. Còn nếu có nhiều tiền, bạn có thể chuyển rủi ro cho thám tử tư để quản lý và theo dõi cháu liên tục cả ngày lẫn đêm hoặc yêu cầu hãng bảo hiểm cung cấp các sản phẩm hay dịch vụ có liên quan và trả cho họ bảo phí. Lê Hữu Huy - Nguồn:TBKTSG Tài liệu 3: Rủi mà không rủi Giả sử có 100.000 chiếc xe gắn máy được bảo hiểm trong khoảng thời gian tương đối dài và trung bình mỗi năm có khoảng 10.000 chiếc gặp ít nhất một tai nạn và đòi bồi thường. Tuy nhiên, trong một năm không hẳn số trường hợp đòi bồi thường có thể chính xác là 10.000. Theo một số giả định nào đó, có thể chứng minh được rằng trong một khoảng thời gian dài, độ lệch (deviation) của số trường hợp đòi bồi thường trong một năm từ 10.000, trung bình sẽ là 100. Như vậy, có một sự biến thiên (variation) của 100 trường hợp đòi bồi thường (claims) từ con số dự đoán ban đầu là 10.000, tức là 1% (100/10.000). Sự biến thiên tương đối của mất mát thực tế (actual loss) so với mất mát dự kiến (expected loss) này được gọi là rủi ro khách quan (objective risk). Rủi ro khách quan sẽ giảm khi số lượng xe tham gia bảo hiểm tăng. Trong ví dụ nó i trên, số lượng xe là 100.000 thì rủi ro khách quan là 1%. Như vậy, nếu số lượng xe là 1 triệu thì số trường hợp đòi bồi thường sẽ tăng gấp mười lần, lên 100.000 (10% của 1 triệu). Tuy nhiên, độ biến thiên của mất mát thực tế sẽ chỉ tăng 3 lần từ 100 lên 316 (căn bình phương của 100.000). Như vậy, độ biến thiên tương đối hay rủi ro khách quan thực tế giảm từ 1% (100/10.000) xuống còn 0,316% (316/100.000). Ví dụ này cho thấy người ta có thể tính toán được rủi ro khách quan và đây là công cụ cực kỳ hiệu qu ả để quản lý rủi ro. Bởi lẽ khi số lượng bảo hiểm càng nhiều thì hãng bảo hiểm càng tính được xác suất rủi ro chính xác hơn. Ngược lại với rủi ro khách quan là rủi ro chủ quan (subjective risk), tức là sự không chắc chắn trong nhận thức của một cá nhân nào đó. Ví dụ như một người uống rượu nhiều sau khi ăn tiệc và muốn lái xe về nhà sẽ không chắc chắn về việc mình có bị cảnh sát thổi phạt hay không. Hai người khác nhau sẽ có nhận thức khác nhau về rủi ro và cho thấy thái độ, phản ứng của họ đối với rủi ro. Nhận thức về rủi ro cũng tùy thuộc vào kinh nghiệm bởi người nào đã từng bị cảnh sát phạt do uống rượu sẽ cho rằng rủi ro bị cảnh sát phạt là cao và sẽ không dám tái phạm nữa Rủi ro còn được phân loại theo rủi ro thuần túy (pure risks) và rủi ro đầu cơ ( speculative risk). Rủi ro thuần túy phát sinh từ tình huống khi có mất mát xảy ra hay không ví dụ như rủi ro dẫn đến thiệt hại về hỏa hoạn, thiên tai, tai nạn hay tật nguyền. Ngược lại, rủi ro đầu cơ phát sinh từ những tình huống có hay không có lợi nhuận. 66 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  17. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Chẳng hạn, một người khởi nghiệp kinh doanh có thể ăn nên làm ra nhưng cũng có khả năng lỗ, hoặc một nhà đầu cơ có thể có lãi nếu giá cổ phiếu lên và lỗ nếu giá xuống. Cách phân loại này rất cần thiết bởi lẽ chỉ có rủi ro thuần túy mới được bảo hiểm còn rủi ro đầu cơ đòi hỏi những kỹ thuật phòng chống khác ngoài bảo hiểm như việc sử dụng hợp đồng tương lai về chỉ số chứng khoán (stock index futures) để đối phó với sự biến động của giá cổ phiếu. Trên bình diện xã hội, rủi ro đầu cơ cũng có ích: cạnh tranh trong kinh doanh có thể làm cho một số doanh nhân trắng tay nhưng xã hội lại được lợi vì sản phẩm và dịch vụ được cung cấp với giá cả và chất lượng hợp lý hơn trước. Ngược lại, với những rủi ro thuần túy như động đất, lụt lội, hỏa hoạn... thì không ai có lợi cả. Các nhà phân tích cũng phân loại rủi ro theo yếu tố tĩnh (static) và động (dynamic). Rủi ro tĩnh là những rủi ro do hành động không đúng quy luật hay sai lầm hoặc việc làm có hại của con người. Nếu rủi ro tĩnh tồn tại trong một nền kinh tế không thay đổi thì rủi ro động lại song hành với một nền kinh tế có nhiều thay đổi. Ví dụ về rủi ro động có thể nêu là sự thay đổi về thị hiếu tiêu dùng, tiến bộ khoa học kỹ thuật, những phương thức làm việc và xử lý công việc hiệu quả hơn. Về lâu về dài, rủi r o động rất có ích vì nhờ nó mà các tài nguyên và nguồn lực xã hội sẽ được điều chỉnh hợp lý. Xét đến tương quan giữa cộng đồng và cá nhân, cần nói đến rủi ro xã hội (fundamental risk) là những rủi ro tác động đến toàn bộ nền kinh tế hay một cộng đồng nào đó như lạm phát, thất nghiệp, chiến tranh và động đất. Ngược lại với rủi ro xã hội là rủi ro ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân (particular risk). Ví dụ như một ngôi nhà của ai đó bị mất trộm. Phân biệt hai loại rủi ro này cũng cần thiết vì các rủi ro xã hội như thất nghiệp, thiên tai, lụt lội cần có các chương trình bảo hiểm xã hội của nhà nước và cơ quan công quyền phải tạo lập các cơ chế đối phó phù hợp. Rủi ro là chuyện chẳng ai muốn nhưng xét về góc độ kinh doanh thì nó lại cần thiết. Câu châm ngôn “Thừa nước đục thả câu” trước đây có thể mang ý nghĩa xấu về đạo đức nhưng nay các nhà kinh doanh hay đầu tư phải nhìn nhận và vận dụng nó một cách tích cực. Thật vậy, nếu mua bán chứng khoán mà giá cả được “chỉ đạo” từ trên xuống hay mọi việc đều rõ như ban ngày thì chắc không còn rủi ro. Nhưng trên một thị trường mà thông tin còn mờ mịt và/ hay luật chơi chưa sòng phẳng thì rủi ro không còn là chuyện rủi mà trở thành cơ hội kiếm siêu lợi nhuận cho một nhóm người. Nguồn: TBKTSG số 28-2007 Tài liệu 4: Cẩn tắc vô áy náy Từ ngàn xưa, con người đã nghĩ ra nhiều cách thức để đối phó với rủi ro. Trong Kinh thánh có đoạn viết về một vị hoàng đế Ai Cập được báo mộng rằng sau bảy năm được mùa sẽ là bảy năm đói kém nên đã quyết định dành một phần năm thu nhập mỗi năm được mùa để dự phòng cho nạn đói sẽ xảy ra. Sử sách Trung Hoa cũng nói về những thương nhân đi buôn từ vùng thượng lưu sông Dương Tử vượt qua bao ghềnh thác hiểm nguy và lắm khi hàng hóa của họ cuốn theo dòng nước. Thay vì chịu mất trắng hàng khi thuyền của mình bị lật, những thương nhân này đã nghĩ ra một hệ thống quản lý rủi ro theo đó mỗi thương nhân sẽ để một phần tài sản của mình sang thuyền của người khác trong nhóm. Bằng cách đó, nếu có một chiếc thuyền lật trong cuộc hành trình, không có ai chịu mất trắng và rủi ro được chia đều cho các thành viên tham gia. Những cách thức quản lý rủi ro trên đây, tuy đơn giản nếu so với các công cụ bảo hiểm thời hiện đại nhưng đều cùng có chung một mục đích là giảm thiệt hại bằng cách chia sẻ rủi ro của cá nhân trong một tập thể. 67 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  18. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Nhưng ngày nay, quản lý rủi ro không đơn thuần là bảo hiểm mà phát triển ở tầm mức cao hơn và được hiểu như cách tiếp cận có tổ chức và hệ thống nhằm xác định môi trường rủi ro, định lượng mức độ thiệt hại và sử dụng các phương pháp để xử lý các loại rủi ro. Thật vậy, những nguyên tắc căn bản về quản lý rủi ro sẽ giúp chúng ta lựa chọn hợp lý hơn khi đưa ra các quyết định trong thực tế cuộc sống. Trong nhiều trường hợp, bảo hiểm lại là sự lựa chọn cuối cùng. Ví dụ như bạn có một chiếc xe gắn máy giá chỉ có vài triệu đồng mà bảo phí một năm cũng tròm trèm từ phân nửa giá trị của xe thì thiết nghĩ bạn không cần bồi thường thiệt hại xe mà hãy sử dụng chiếc xe đó cho đến khi không còn sử dụng được nữa. Điều này ứng với nguyên tắc đầu tiên về quản lý rủi ro là chúng ta chỉ chấp nhận rủi ro khi có thể chịu được mất mát (Risk only what you can afford to lose). Tuy nhiên, bạn có thể phải trả giá nếu áp dụng nguyên tắc này một cách cứng nhắc bởi di chuyển trên một chiếc xe quá cũ kỹ cũng có nguy cơ tai nạn. Nếu không bảo quản xe tốt và có những biện pháp phòng ngừa thì cái giá phải trả không chỉ là vài triệu đồng mà là cả sinh mạng của chính bạn. Nguyên tắc thứ hai trong quản lý rủi ro là cân nhắc xác suất xảy ra mất mát (Consider the odds). Nếu xác suất rủi ro cao quá thì bảo hiểm cũng không hẳn là giải pháp tối ưu vì tiền bảo phí cũng sẽ rất cao. Ví dụ bạn muốn mở một cửa hàng mua bán vàng bạc đá quý trong một khu vực hay xảy ra các vụ án hình sự thì không nên mua bảo hiểm vì chắc chắn bảo phí cũng rất cao. Cách tốt nhất là nên tìm một nơi nào đó an toàn. Tuy nhiên, nếu chi phí bỏ ra để quản lý rủi ro nhỏ hơn hậu quả của rủi ro, thì bạn nên mua bảo hiểm. Ví dụ, nếu lệ phí bảo hiểm hỏa hoạn cho ngôi nhà của bạn không đáng là bao so với hậu quả có th ể xảy ra thì thiết nghĩ bạn không nên tiếc tiền đóng bảo hiểm phòng ngừa hỏa hoạn. Đến đây, chúng ta lại vận dụng nguyên tắc thứ ba: Đừng vì mất mát nhỏ trước mắt mà mạo hiểm cái lớn hơn (Don’t risk a lot for a little). Nhưng các nguyên tắc nói trên không nên áp dụng riêng lẻ mà cần được phối hợp nhuần nhuyễn và ứng dụng phù hợp trong thực tế cuộc sống. Ví dụ một người đàn ông lao động chính trong gia đình có thể sức khỏe kém và như vậy phải mua bảo hiểm nhân thọ với mức phí cao hơn. Khả năng tài chính có hạn, bảo phí phải trả hàng tháng có thể ảnh hưởng đến chi tiêu hiện tại của gia đình. Ngược lại, nếu không mua bảo hiểm nhân thọ, điều gì sẽ xảy ra nếu anh bị tai nạn hay vì một lý do nào đó phải giã từ cõi đời này? Do đó, một nhà tư vấn tài chính cá nhân chuyên nghiệp và có đạo đức phải đưa ra cái nhìn tổng thể và nhiều giải pháp chọn lựa và giúp khách hàng của mình xác định những mục tiêu ưu tiên chứ không chỉ tìm mọi cách chào bán sản phẩm hay dịch vụ tài chính. Cuối cùng, người viết xin chia sẻ kinh nghiệm “đau thương” của Br., anh bạn đồng nghiệp người Malaysia trong cơ quan cũ. Mặc dù có thẻ tín dụng nhưng mỗi lần đi công tác nước ngoài Br. chỉ cầm tiền mặt bằng đô la Mỹ vì anh cho rằng như vậy sẽ không bị tốn phí ngân hàng nếu rút tiền mặt và thiệt thòi về tỷ giá. Vả lại Br. cũng tự tin rằng mình đã đi công tác ở nhiều nơi trên thế giới mà cũng chưa gặp “sự cố” gì. Thế nhưng, trong chuyến công tác cách đây năm năm tại Nga, Br. bị móc túi hết số tiền 3.000 đô la giấu kỹ trong người tại một ga tàu điện ở St Petersburg. Để có kiến thức trong trường học và kinh nghiệm trong trường đời ai cũng đều phải trả giá nhưng quả thật học phí mà Br. phải trả là quá đắt, thay vì chỉ tốn phí ngân hàng hay thiệt thòi một chút về tỷ giá. Nguồn: TBKTSG [18-7-2007] Tài liệu 5: Moral Hazard Nguyễn Vạn Phú Nguồn: Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn 68 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  19. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook http://www.saigontimes.com.vn/tbktsg/detail.asp?muc=168&sobao=880&sott=31 Các tờ báo kinh tế chuyên ngành thường khó đọc vì chúng sử dụng khá nhiều khái niệm kinh tế với giả định ai nấy đều hiểu. Chính vì vậy bài “Fed Policy and Moral Hazard” của tờ Wall Street Journal là một ngoại lệ lý thú vì ngay đầu bài, tác giả đã cất công giải thích cụm từ moral hazard dùng ở tựa báo. “Moral hazard occurs when investors or property owners are protected from the downside risks of bad investment decisions, thus encouraging them to take still more unwise risks in the future”. Downside trái nghĩa với beneficial. Từ moral hazard phổ biến nhất là trong ngành bảo hiểm. Ví dụ một người đã mua bảo hiểm xe hơi rồi thì cứ ỷ y không chịu trông coi xe cho cẩn thận vì nếu lỡ bị đánh cắp thì đã có bảo hiểm đền bù. Tình huống đó gọi là “ỷ thế làm liều” - tức là một dạng moral hazard (rủi ro đạo đức). Trong ngành ngân hàng, nếu các chủ nhà băng cứ yên chí lớn có nhà nước đứng đằng sau vì nhà nước không thể để ngân hàng sụp tiệm, có thể họ sẽ cho vay liều lĩnh hơn, đầu tư thiếu cân nhắc hơn - đấy cũng là những biểu hiện của moral hazard. Lý do có chuyện moral hazard ở đây là vì: “Accusations of moral hazard have been tossed around quite a bit since the Federal Reserve lowered the federal-funds rate by half a percentage point a month ago today”. Chú ý cách nói “tính đến hôm nay đã là một tháng - a month ago today”. Để diễn tả mức giảm từ 5,25% xuống còn 4,75%, người ta dùng “half a percentage point”, nếu dịch 0,5% là không chính xác (vì từ 5,25% giảm 0,5% sẽ còn 5,22%). Nên dịch là 0,5 điểm phần trăm hay 50 điểm (A basis point is 0.01 percentage point). Fed funds rate là lãi suất các ngân hàng cho vay với nhau qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Thế nhưng đến ngang đây, tác giả bài báo cũng chưa chịu đi ngay vào đề tài chính vì sao chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tạo ra sự “ỷ lại” mà bỏ công giải thích thêm một khái niệm nữa: “As entertaining as this discussion of the nexus between the Federal Reserve and moral hazard has been, the analysis is incomplete because it lacks one key element - something called the Taylor Rule”. Nexus là mối quan hệ nhân quả. Nói một cách đơn giản, Quy luật Taylor xác định nên tăng lãi suất đến mức nào khi lạm phát đạt một ngưỡng nào đó hay ngược lại, nên giảm lãi suất đến đâu khi lạm phát giảm đến mức nào đó. Và “When these goals are in co nflict the Rule provides guidance on how to adjust rates accordingly”. Đến đây, tác giả mới chịu nói thẳng: “If the FOMC decision has provided an insurance policy that protects investor portfolios against damage, and if investor behavior takes this insurance into account in advance, then the FOMC, I will argue, does create a moral hazard each and every time it makes a monetary policy decision”. FOMC là Federal Open Market Committee (Ủy ban Thị trường mở liên bang) - chính là nơi quyết định tăng giảm lãi suất ở Mỹ. Còn nhớ lúc thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh vì khủng hoảng tài chính do vấn nạn tín dụng xấu xảy ra, FED đã đổ vào thị trường hàng chục tỉ đô la để chống đỡ cho thị trường. Nếu nhà đầu tư tin chắc có FED đứng đằng sau lưng để cứu nguy, đấy chính là một dạng moral hazard. Như vậy sự ỷ y do chính sách của FED không phải là lần cắt giảm lãi suất vừa rồi - tác giả nhấn mạnh: “This proposition is equally true whether the FOMC lowers rates, raises rates, or leaves them unchanged”. Cũng tuần trước, nhân lúc bộ trưởng tài chính các nước G-7 họp tại Washington để bàn về cách đối phó tình hình khủng hoảng tài chính toàn cầu, đã có nhiều ý kiến đòi xem xét lại vai trò của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Tờ Washington Post mở đầu bằng cách trích dẫn Shakespeare: “Neither a borrower nor a lender be” (Đừng đi vay mà cũng đừng cho mượn) để nhận xét lẽ ra IMF phải ở trong tình trạng tốt nhất. Vì hiện IMF có trong tay 252 tỉ đô la chưa dùng đến, dư nợ cho vay chỉ 11 tỉ đô la. Thế nhưng IMF đã tỏ ra lỗi thời trong thế giới tài chính ngày nay: “Born in an age of fixed exchange rates and limited international capital flows, the IMF must adapt to a new world of floating currencies and massive cross -border trade and investment”. 69 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
  20. NGUYEÂN LYÙ & THÖÏC HAØNH BAÛO HIEÅM WorkBoook Hơn nữa vì dư tiền trong quỹ nên IMF làm ra không đủ tiêu. “The fund is supposed to finance its $1 billion administrative budget only out of its earnings from lending”. Năm 2004 trở về trước, tiền lãi hằng năm của IMF lên đến 1,2 tỉ đô la nhưng nay khi các nước con nợ đã trả các khoản vay trước th ời hạn, các khoản thu của IMF cạn kiệt dần. Các nhà kinh tế “chọc quê” bằng cách khuyên IMF nên áp dụng “liều thuốc” đã từng kê đơn cho các nước thâm hụt ngân sách như thế bằng hai từ: Cut costs, còn dùng từ IMF hay “khuyên dùng” trước đây là “thắt lưng buộc bụng”. Module 4 – Bài đọc thêm HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM Tài liệu 1: Bất cập trong quy định về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm Theo Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm, “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Theo Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm, “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bả o hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Hợp đồng bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Luật Ki nh doanh bảo hiểm được phân thành ba loại là: hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Sự khác biệt căn bản nhất giữa các hợp đồng bảo hiểm này là đối tượng được bảo hiểm và quyền lợi có thể được bảo hiể m. Đối tượng được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và sự an toàn của con người. Đối tượng được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và cá c quyền tài sản. Đối tượng được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo quy định của pháp luật. Quyền lợi có thể được bảo hiểm thực chất là mối liên hệ giữa bên mua bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm được xác lập dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống, quan hệ tài sản, quan hệ lao động, quan hệ tài chính theo đó, sự rủi ro của đối tượng được bảo hiểm sẽ gây thiệt hại về tài chính hoặc tổn thất tinh thần cho bên mua bảo hiểm. Chính sự khác biệt về đối tượng bảo hiểm mà quyền lợi có thể được bảo hiểm của bên mua bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm nói trên cũng khác nhau. Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm, trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, quyền lợi có thể được bảo hiểm bao gồm: qu yền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền tài sản. Trong hợp đồng bảo hiểm con người, quyền lợi có thể được bảo hiểm được quy định hạn chế hơn bao gồm 02 yếu tố: quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với người được bảo hiểm. Chuyển nhượng hợp đồng nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng là một trong những nội dung không thể thiếu được pháp luật điều chỉnh. Bản chất của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là việc một chủ thể khác sẽ thay thế vị trí pháp lý (kế thừa qu yền và nghĩa vụ) của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng theo đó, người nhận chuyển nhượng sẽ trở thành bên mua bảo hiểm mới để tiếp tục duy trì hợp đồng và hưởng các quyền lợi khác (nếu có) theo hợp đồng. Về mặt lý luận, việc thay đổi bên mua bảo hiểm luôn phải đảm bảo nguyên tắc k hông làm ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của hợp đồng bảo hiểm. Nghĩa là, bên nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cũng phải thỏa mãn đầy đủ điều kiện của bên mua bảo hiểm như có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có quyền lợi có thể được bảo hiểm. Điều này cũng được quy định tại Điều 235 Bộ luật Hàng hải: “người không có quyền lợi trong đối tượng bảo hiểm thì không được chuyển nhượng đơn bảo hiểm hàng hải”. Trong hợp đồng bảo hiểm con người, đối với trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm cho trường hợp chết của người khác thì việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo chúng tôi cũng phải được sự đồng ý của người được bảo hiểm để tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm có thể xảy ra từ việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm này. Ngoài ra, việc chuyển n hượng hợp đồng bảo hiểm còn phải đáp ứng các yêu cầu của pháp luật về trình tự, thủ tục, hình thức chuyển nhượng (nếu có). 1. Bất cập của Luật Kinh doanh bảo hiểm 70 Thaïc syõ Nguyeãn Tieán Huøng BOÄ MOÂN BAÛO HIEÅM – ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP.HCM
nguon tai.lieu . vn