- Trang Chủ
- Ngôn ngữ học
- Nghiên cứu truyện Nôm bác học trên chiều lịch đại - Những cách tiếp cận và hướng đến đọc khác
Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 7 (32) - Thaùng 9/2015
Nghiên cứu truyện Nôm bác học trên chiều lịch đại -
Những cách tiếp cận và hướng đến đọc khác
Diachronical approach to scholarly Nom stories and others
ThS. Nguyễn Quang Huy
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
M.A. Nguyen Quang Huy
The University of Education - University of Da Nang
Tóm tắt
Truyện Nôm bác học là một di sản văn hóa, văn học độc đáo của dân tộc. Nó được quan tâm nghiên cứu
trên khá nhiều khía cạnh khác nhau từ nhiều phương pháp cụ thể: xã hội học Marxist, so sánh, văn hóa...
nhưng đến nay, nó vẫn còn nhiều điều còn bỏ ngỏ. Truyện Nôm bác học tự bản thân nó luôn hàm chứa
nhiều giá trị và vẫy gọi nhiều hướng nhìn. Bài viết này quan tâm trực tiếp đến hai vấn đề về truyện Nôm
bác học: một là kiểm thảo những cách tiếp cận đã có, và thứ hai, hướng đến xác lập cách đọc từ phương
pháp tâm lí các chiều sâu của C. Jung. Từ đây, truyện Nôm bác học được chúng tôi nhìn nhận từ khía
cạnh các cấu trúc chìm - cấu trúc nội giới.
Từ khóa: truyện Nôm bác học, phương pháp, C. Jung, tâm lí các chiều sâu, nội giới...
Abstract
The scholarly Nom stories are the original heritage of literature and culture of our nation. It is
interesting the topic attracts a great deal of scientific researches: marxist sociology, comparative
method, cultural method and so on; but for now it is to say the work is far from perfect. The scholarly
Nom stories always preserve many values and suggests numerous points of views. This article solves
directly two puzzles of the scholarly Nom stories: firstly, we examine the former approaches, secondly
we aim to establish a reading way derived from Jung’s method of the in – depth psychology.
Henceforth, the scholarly Nom stories are considered by us through aspect of the submersible structure
– internal link structure (profound structures – the structure of psychological life).
Keywords: the scholarly Nom stories, method, Carl Jung, depth psychology, the psychological life…
1. Dẫn nhập triển trong vòng hơn ba thế kỷ (thế kỉ XVI,
Truyện Nôm người Việt cho đến nay đến những năm đầu của thế kỉ XX) rồi
đã được ghi nhận như một di sản văn hóa chấm dứt hẳn đã đưa hiện tượng đặc biệt
độc đáo, là kho tư liệu phong phú không này vào kí ức lịch sử, tồn tại trong tính lịch
những dành cho lĩnh vực khoa học văn học, sử, một lịch sử mà phần lớn các giá trị của
mà còn là mảnh đất ẩn chứa nhiều giá trị nó còn trong hành trình mơ màng cần được
xác tín cho các nhà ngữ học lịch sử, dân tộc đánh thức bằng các phương pháp nghiên
học, văn hóa học v.v. Sự nảy sinh và phát cứu đặc thù, trên cả hai phương diện, văn
49
- NGHIÊN CỨU TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TRÊN CHIỀU LỊCH ĐẠI …
bản học và những cấu trúc nhân văn. chúng, đề tài, đời sống văn học, phương
Ngay khi quan sát bề ngoài, hiện thức truyền bá, tư tưởng thẩm mĩ riêng như
tượng truyện Nôm đã hàm chứa nhiều điều Trần Đình Hượu (Trần Đình Hượu, 1990)
phức tạp hơn người ta tưởng về một thể đã chỉ ra và chúng tôi theo quan điểm phân
loại mà ở đó có sự hiện diện của cấu trúc tự chia này. Về mặt tư tưởng, cả hai dòng này
sự thấm đẫm màu sắc trữ tình. Sự phức tạp có những tương quan nhất định chứ không
này thể hiện trên nhiều mặt, từ vấn đề hề tách biệt hẳn. Truyện Nôm bác học
ngoại quan lẫn nội quan dọc theo các thành trước hết dẫn ra như một vấn đề văn tự
tựu nghiên cứu đã có. Đó là vấn đề về tác (viết bằng chữ Nôm), nghiêng về phong
giả (liên đới một phần quan trọng với thuật cách học (phong cách cao, thuộc về trí thức
ngữ truyện Nôm bác học mà chúng tôi sẽ bậc cao, đặc quyền của giới tinh hoa) nhằm
dẫn giải ngay sau đây); vấn đề mối quan hệ tạo ra khoảng cách với truyện Nôm bình
về chiều ảnh hưởng của văn hóa văn học dân (phong cách thấp, thuộc giới bình dân,
dân gian, bình dân với văn hóa bác học, cái nghiêng về tính chất ứng tác, truyền
nào chịu ảnh hưởng của cái nào; vấn đề tư miệng). Dấu hiệu nhận biết quan trọng nhất
duy đặc thù của một thể loại đặc thù(1); vấn của nó là ở bút pháp sáng tạo thể hiện trong
đề phương pháp nghiên cứu tương thích tác phẩm. Theo đó, trong môi trường sáng
v.v. thậm chí đến thuật ngữ gọi tên như: tạo văn hóa - văn học trung đại thuộc tư
truyện Nôm bác học, truyện Nôm bình dân, duy đông Á, Đông Nam Á, truyện Nôm
truyện thơ Nôm, truyện Nôm khuyết danh, bác học người Việt khu biệt với truyện
v.v. cũng làm cho một định hình về tính Nôm bình dân ở chỗ, ngoài việc vận dụng
khách quan của đối tượng này có nguy cơ ngôn ngữ trau chuốt (dấu hiệu của dụng
dẫn tới nhiều bối rối và ràng buộc. Chúng công trong tạo tác), còn là việc sử dụng các
tôi nhận thức được đang rơi vào sự khó yếu tố cốt truyện, tập cổ (dựa trên văn liệu
khăn và nhiều nguy cơ rất dễ sa ngã này. Trung Hoa, cốt truyện Trung hoa, cốt
1.1. Thuật ngữ truyện Nôm bác học truyện Đông Nam Á, ý tưởng của tiền
Tên gọi truyện Nôm hay truyện thơ nhân, thánh nhân để tạo ra một thế giới
Nôm theo chúng tôi không dẫn đến cách riêng), sử dụng dày đặc các điển, các tích,
hiểu khác biệt, chúng cùng chỉ về một đối và đặc biệt nhất là dấu ấn thế giới quan,
tượng cụ thể mà ở đó có sự tham dự đặc nhân sinh quan, trên cơ sở đó, đem đến các
biệt song hành như một chiều hướng điều cách ứng xử khác nhau, thái độ khác nhau
hòa giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình, về thân phận con người. Liên quan đến vấn
giữa yếu tố thơ và truyện, giữa yếu tố triển vấn đề tư tưởng truyện Nôm có hai cách
khai giá trị hình tượng nghệ thuật theo trật xuất phát điểm, hai xu hướng: xu hướng
tự trục ngang và trục dọc, là sự dung hợp đặt nó trong kiểu tư duy Đông Á - (Đặng
của yếu tố trần thuật (narration) và yếu tố Thanh Lê, 1979), (Durand, 1998) và xu
trầm tư (méditation) của loại hình nghệ hướng đặt nó trong kiểu tư duy Đông Nam
thuật ngôn từ(2), giữa cấu trúc tự sự có nội Á - (Riftin, 2012, pp. 66-81), (Niculin,
dung yêu đương - sinh hoạt thế tục kết hợp 2000)(5). Truyện Nôm bác học cũng đồng
với cấu trúc trữ tình mang tính triết lí. thời dung chứa trong mình cả các yếu tố
Mỗi một ý niệm đưa ra để gọi tên một thần thoại, cổ tích, Phật tích, cốt truyện
vấn đề thường dựa trên sự tương tác đối nước ngoài, truyện dịch, diễn ca các vấn đề
lập, hoặc chí ít trong trường nghĩa có tính lịch sử… Theo Riftin, văn xuôi tự sự ở
chất khác biệt. Theo đó, truyện Nôm bác Việt Nam phát triển từ những tập truyện
học(3) phân biệt với truyện Nôm bình dân(4), ngắn mang tính thần thoại kiểu các truyện
mỗi dòng đều có người sáng tác, công chí quái của Trung Hoa, đến loại truyện
50
- NGUYỄN QUANG HUY
văn học phát triển thế kỉ XVI, rồi sau đó, ở danh như vừa kể trên đều được chúng tôi
đó, khác với các nước Viễn Đông khác, xếp vào bộ phận truyện Nôm bác học.
xuất hiện không phải các truyện, mà là các 1.2. Giá trị nội tại
truyện thơ (thế kỉ XVII - XVIII)… điều đó Đến đây tạm gác sang một bên những
không phải là ngẫu nhiên. Nó thể hiện vấn đề tranh cãi về thuật ngữ vốn tồn tại
những truyền thống của Đông Nam Á. Rõ vừa tranh luận vừa có lí do riêng bấy lâu,
ràng rằng ở tất cả các dân tộc trên phần đất chúng tôi muốn đề cập tới một phương
này của châu Á, văn chương tự sự phát diện khác của truyện Nôm bác học, là ở
triển dưới hình thức thơ - các truyện thơ. chiều kích văn hóa của nó. Không phải
Cũng chính vì vậy, truyện Nôm bác học, ngẫu nhiên mà giai đoạn từ thế kỉ XVII đến
chúng tôi xét, về cấu trúc tư tưởng, có hai thế kỉ XIX, là giai đoạn có sự xuất hiện
cơ tầng, hai dòng: dòng tư tưởng Đông Á những nhận thức sâu sắc về thân phận con
(Trung Hoa) và dòng bản địa (Đông Nam người trên nhiều mặt: thân và tâm, tinh
Á) tạo nên nét vừa cổ kính vừa dân dã thần và thể xác, tâm linh và trần tục(7).
trong văn học (Riftin, 2012, p. 74). Trên Trên chiều nhận thức, các truyện Nôm
bình diện nhân vật, truyện Nôm bác học bác học đã để cho các nhân vật của mình
mang dấu ấn cá tính phân biệt với dấu ấn thể hiện các thái độ, lời nói, hành vi trong
loại tính, có xu hướng nằm trong văn hóa tương quan mật thiết với hai thế giới sống
dân gian (Kiều Thu Hoạch, 2007). Nếu làm đặc biệt: thế giới nội tâm tâm linh và với
một phép so sánh giữa Hoa tiên, Đoạn thế giới bên ngoài hiễn hữu như những
trường tân thanh (truyện Nôm bác học) và thực tại tối thượng, mang tính chất bản thể
Phạm công Cúc Hoa, Phương Hoa (truyện (siêu hình học) quyết định tất cả các hành
Nôm bình dân) trên các phương diện trên vi con người như: trời, con tạo, ông xanh,
chúng ta sẽ thấy rõ sự khác biệt. ông tơ bà nguyệt, những linh hồn đã
Một vấn đề khác đặt ra, trường hợp khuất… tất cả những điều này hướng
các truyện Nôm như Phan Trần, Nhị độ chúng tôi mượn cái nhìn từ lí thuyết Phân
mai, phần lớn các nhà nghiên cứu xếp đặt tâm học của C. Jung, G. Bachelard, đồng
nó vào truyện Nôm khuyết danh tồn tại thời, liên quan đến những nội dung kiếp,
cùng với truyện Nôm bình dân. Khuyết nghiệp, số phận trong các truyện Nôm bác
danh hay hữu danh là một vấn đề khác, liên học, chúng tôi có tham khảo lí thuyết tâm lí
quan đến ba nhận thức: 1/ truyền thống học Phật giáo (duy thức học) trong chừng
không đặt nặng tính chất sở hữu các trước mực có thể, đặc biệt là thuật ngữ Thức thứ
tác(6); 2/ liên quan đến việc cấm kị, tai họa tám (A lại da thức(8), tương đương với
mà tầng lớp thống trị ngăn cấm, nó thuộc thuật ngữ vô thức trong Phân tâm học
ngoài văn bản, không giống như tiêu chí nhưng mang nghĩa rộng hơn rất nhiều.
phong cách và tư tưởng; và 3/ mặc cảm về Đời sống nhận thức về các giá trị văn
tính chất bên lề, ngoại vi, nôm na dân dã hóa lớn được cân nhắc, để lại nhiều ý nghĩa
đứng bên cạnh dòng văn học Hán chính quan trọng. Phật giáo, tín ngưỡng bản địa,
thống vốn tồn tại đầy uy nghi từ lâu đời. Đạo giáo phát triển. Phật giáo được các
Yếu tố này dù ít dù nhiều cũng góp phần chúa Trịnh và Nguyễn quan tâm đặc biệt.
tác động vào thế đứng có kiêu hãnh hay Về mặt nhận thức, có thể dẫn ra đây những
không của một dòng văn học. Khi phân lưu ý của Lê Quý Đôn (1726 - 1784), về
chia các lĩnh vực thuộc văn học, chúng tôi các giá trị văn hóa và các giá trị nhận thức
tôn trọng và tuân theo các tiêu chí tư tưởng luận về cái biết (nhận thức về thế giới
văn học, lấy cái nhìn nội quan để đánh giá. sống), đặc biệt là về những điều mà ý thức
Theo đó, các trường hợp truyện Nôm khuyết Nho giáo không lưu tâm hoặc chê bai:
51
- NGHIÊN CỨU TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TRÊN CHIỀU LỊCH ĐẠI …
“Đạo giáo của họ Phật, họ Lão, thanh tĩnh Quát)(9). Đây là những bài tựa theo các văn
hư vô, cao siêu tịch diệt, không hệ lụy đến bản truyện Nôm bác học cụ thể (Đoạn
sự vật, đấy cũng là đạo giáo của các bậc trường tân thanh - Nguyễn Du, Hoa tiên -
cao minh dùng để tu dưỡng bản thân, đến Nguyễn Huy Tự), với tiêu chí lấy tình để
những lời bàn luận sâu rộng về đạo đức, về đãi tình, lấy đức đãi đức, vừa thể hiện sự
hình thần không có điều gì là không có ý tương tri, tri âm, vừa đong đo sở học - điều
nghĩa màu nhiệm. Nhà Nho chúng ta cứ mà Nguyễn Văn Vĩnh (trong Étude sur la
giữ thành kiến kia khác, thường thường bác lange et littérature annamites - nghiên cứu
bẻ, như thế có nên không? Hãy nói sản vật về ngôn ngữ và văn chương An nam)(10)
dưới đất, tính tình loài người, ở trong chín gọi là “thú ngâm nga”, đồng thời thể hiện
châu, còn mỗi nơi mỗi khác, huống hồ trên thái độ riêng tư của cá nhân người đánh giá.
không gian bao là mờ mịt, giữa đại địa Đây cũng là thái độ chung trên dưới mười
rộng lớn xoay vần, những việc quái dị biến thế kỉ của các nhà nho đối với văn chương.
hiện, không biết thế nào mà hạn định, 2.2. Bước sang những năm 20 của thế
người ta chỉ là tấm thân nhỏ bé, dầu có tài kỉ XX, đời sống sinh hoạt, văn hóa trở nên
hoa biện luận, dọc ngang tám cõi, thu hút linh hoạt hơn, chuyên nghiệp hơn. Điều
chín châu, nhưng kiến văn vẫn chưa được này thể hiện rõ trên Nam Phong tạp chí,
rộng khắp, thế mà hễ thấy sách cổ chép về Đông Dương tạp chí, Hữu Thanh, qua các
sự quỷ thần linh ứng, động vật, thực vật bài nhận định, giới thiệu, bút đàm, khảo
biến hóa li kì, cùng là hình trạng phương luận của các học giả quan trọng như:
xa, cảnh tượng quái lạ, đều nhất thiết Nguyễn Văn Vĩnh (Văn chương An Nam -
không tin, thậm chí chê bai cả tiên phật, Đông Dương tạp chí (9) 1913, tr.9-10,
sao mà hẹp hòi thế” (Lê Quý Đôn, 2013, Nguyễn Văn Vĩnh kí tên T.N.T (tân Nam
pp. 174-175). Chính giai đoạn này, nhiều tử)), Phạm Quỳnh (Truyện Kiều - Nam
kinh điển Phật giáo được lưu truyền rộng Phong (30) 1919), Nguyễn Tường Tam
rãi. Đây cũng là lí do để chúng tôi hướng (Mấy lời bàn luận về văn chương “Truyện
tới mở rộng khảo sát các văn bản văn học, Kiều” - Nam Phong (79) 1924), Ngô Đức
đặc biệt là truyện Nôm bác học giai đoạn Kế (Luận về chính học cùng tà thuyết quốc
này từ phương diện tâm lí học Phật giáo. văn - “Kim Vân Kiều” - Nguyễn Du, Hữu
2. Sơ lược các thành tựu nghiên cứu Thanh (81) 9/1924), Vũ Đình Long (Văn
truyện Nôm bác học đến nay chương Truyện Kiều - Nam Phong (81,83
2.1. Phải thừa nhận rằng, ngay từ khi và 87) 1924), Trần Trọng Kim (Truyện
ra đời, đặt trong bối cảnh văn hóa vốn lấy Thúy Kiều - Khảo luận, chú giải, soạn
sự thù tạc, giao đãi, nhuận sắc làm thước chung với Bùi Kỉ, 1925), Đồ Nam -
đo cho tính đối thoại, các truyện Nôm bác Nguyễn Trọng Thuật (Nghiên cứu và phán
học đã được tiếp nhận ngay trong giới hàn đoán về Truyện Kiều - Nam Phong (127)
lâm, giới tinh hoa dưới dạng các “bài tựa”, 1928)(11). Danh sách này có thể chưa đầy
“đề tựa”, “bài bạt”, “đề từ” - một kiểu giới đủ nhưng nó đã tiêu biểu cho một giai đoạn
thiệu và phát biểu những ý nghĩ ngắn, nhìn nhận về truyện Nôm bác học. Điều dễ
mang màu sắc cảm xúc chủ quan, nghiêng nhận thấy là các học giả, các nhà văn hóa
về thái độ đạo đức. Ví dụ bài Đoạn trường tập trung vào một văn bản cụ thể - Truyện
tân thanh đề từ (Phạm Quý Thích), tựa Kiều, kiểu “điểm nhãn” về trường hợp tinh
Đoạn trường tân thanh (Phong Tuyết chủ hoa (tinh hoa cho quốc âm, làm mẫu cho
nhân Thập Thanh thị), tựa Đoạn trường văn chương quốc ngữ) trong nhiều văn bản
tân thanh (Tiên phong Mộng Liên Đường cùng loại hình. Sở dĩ có chuyện này vì liên
chủ nhân), bài tựa truyện Hoa tiên (Cao Bá quan đến các vấn đề quan trọng mang tính
52
- NGUYỄN QUANG HUY
lịch sử như: vấn đề quốc âm, vấn đề sáng thể hiện tinh thần đấu tranh được phát hiện
tạo giá trị văn học trong thời đại mới, thời và phân tích, qua đó xem xét lại các thành
đại giao thoa về các vấn đề giá trị đạo đức tựu nghiên cứu đã có giai đoạn trước, để có
và giá trị nghệ thuật. Cũng đặt trong cái cái nhìn thống nhất trong sự tương hợp với
nhìn lấy giá trị đạo đức làm điểm quy chiếu hệ thống kiến trúc thượng tầng chung. Đặc
cho văn học trên còn có René biệt là Truyện Kiều và các truyện Nôm của
Crayssac(René Crayssac, 2002). Nguyễn Đình Chiểu, các truyện Nôm bình
2.3. Bàn luận một cách sâu rộng về dân (Truyện Trinh thử, truyện Trê cóc,
truyện Nôm bác học phải đợi đến những Truyện Quan âm thị Kính, Truyện Thạch
năm 40 của thế kỉ XX, với Dương Quảng Sanh…). Có thể thấy rất rõ điều này qua
Hàm(Dương Quảng Hàm, 2005) (1943). những tiểu luận và bài viết của Hoài
Dù mang tính chất lịch sử nhưng với sự Thanh: Nguyễn Du, một trái tim lớn, một
công phu và khoa học của nó còn ảnh nghệ sĩ lớn; Truyện Kiều; Nguyễn Đình
hưởng sâu sắc tới cách nhìn nhận, đánh giá Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương
mà dấu vết còn kéo dài đến ngày nay. Ông chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc
đã có đóng góp nhất định khi nhìn nhận về Việt Nam(Từ Sơn (chọn và giới thiệu),
Truyện Kiều, Hoa tiên, Lục Vân Tiên, Bích 2008); Xuân Diệu: nhà thơ thiên tài dân
Câu kì ngộ, Nhị độ mai, Phan Trần. Các tộc Nguyễn Du; Bản cáo trạng cuối cùng
truyện Nôm Bích Câu kì ngộ, Nhị độ mai, trong “Truyện Kiều”; Đọc lại thơ văn
Phan Trần được tác giả xếp vào khuyết Nguyễn Đình Chiểu; Đâm mấy thằng gian
danh. Dấu ấn khoa học đặc biệt thể hiện rõ bút chẳng tà… (Xuân Diệu, 2009); Đặng
trong khuynh hướng nghiên cứu của Việt Thanh: Tìm hiểu giá trị tập “Sãi Vãi”
Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (2003) của Nguyễn Cư Trinh (Đặng Việt Thanh,
bằng phương pháp Duy vật lịch sử, với cái 1957, pp. 32-42); Nguyễn Hồng Phong:
nhìn văn hóa lịch sử, ông đã tạo ra được Nhận xét chung về truyện Nôm khuyết danh
dấu ấn riêng của mình trong giai đoạn này, (Nguyễn Hồng Phong, 2005)…Nhìn tổng
khi đi tìm những bí ẩn trong Truyện Kiều quát, các tác giả trên, một mặt tiếp tục khai
và Nguyễn Du. Trước đó ít lâu có Nguyễn thác giá trị Truyện Kiều, nhưng chủ yếu tập
Tiến Lãng đã ít nhiều muốn xác lập một cái trung ở khía cạnh phản ánh hiện thực cuộc
nhìn riêng, khi ông quan tâm đến truyện sống, mượn một văn bản nghệ thuật để
Nôm Hoa tiên, muốn nâng nó ngang tầm thuyết minh cho tính chất đạo đức và giai
Truyện Kiều. Trong Nét đẹp Hoa tiên - cấp về nội dung đấu tranh và chống áp bức
truyện thơ Annam, Nguyễn Tiến Lãng cường quyền. Dựa trên mô hình phản ánh
trong quá trình phân tích nội dung tình cảm luận và đấu tranh giai cấp, vì thế làm cho
câu chuyện đã nâng Hoa tiên lên như một yếu tố văn học đi chệch khỏi quỹ đạo giá
“hình thức mơ mộng có tính cách đặc trưng trị vốn có của nó. Mặt khác, tập trung các
của người An nam”(Nguyễn Tiến Lãng, truyện Nôm bình dân có tính cách phổ biến
2012, p. 28). nhất (truyện Thạch Sanh, truyện Trinh
2.4. Sự phân chia Nam - Bắc về mặt thử…) vốn đã gần gũi với nhân dân lao
lịch sử từ sau năm 1954 cũng hình thành động, được tô chuốt thêm khía cạnh
hai cực học thuật trên hai miền Bắc, Nam “chống các thế lực phong kiến thối nát”:
của đất nước kéo dài đến năm 1975. “bên cạnh tính chất trữ tình là tính chất
Ở miền Bắc, khuynh hướng chung là hiện thực. Truyện Nôm (khuyết danh)
nhìn nhận lại các giá trị văn học cổ của dân không chỉ là một lời than tiêu cực, mà còn
tộc, theo đó, các truyện Nôm có giá trị hiện là một lời tố cáo, một lời phản kháng đối
thực, thể hiện nỗi đau nhân tình thế thái, với xã hội đương thời. Cho nên truyện
53
- NGHIÊN CỨU TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TRÊN CHIỀU LỊCH ĐẠI …
Nôm có một giá trị phản phong ở mức độ sinh, hiện tượng luận, Cấu trúc luận…).
nhất định” (Nguyễn Hồng Phong, 2005, p. Dấu ấn quan trọng nhất về mặt phương
549). Những nội dung trên cũng là những pháp, theo chúng tôi, là ở trường hợp nhà
phần quan trọng trong các công trình văn phê bình Lê Tuyên (1964, 2000) nghiên
học sử Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam – cứu về các truyện Nôm bác học như Lâm
xuất bản năm 1957, của nhóm Văn Tân, tuyền kì ngộ, Bích Câu kì ngộ, Đoạn
Nguyễn Hồng Phong…, Lược thảo lịch sử trường tân thanh. Xuất phát từ Hiện tượng
văn học Việt Nam- xuất bản năm 1957, của học (E. Husserl, Merleau Ponty) và Phân
nhóm Lê Quý Đôn) mà dấu vết của nó còn tâm học vật chất của G. Bachelard, Lê
thể hiện khá sâu đậm trong các công trình Tuyên đã vận dụng phương pháp mới vào
văn học sử về sau này. Điểm đặc biệt nữa nghiên cứu văn học cổ. Điều này đem đến
trong quan niệm văn học giai đoạn này là một ý nghĩa kép. Một mặt, về nhận thức,
nhận định về chiều ảnh hưởng của hai xu đây là cách nhìn nhận giá trị nghệ thuật
hướng: bác học và bình dân/ dân gian. Đó ngôn từ từ phương pháp cụ thể, lấy văn bản
là xu hướng văn học dân gian ảnh hưởng làm trung tâm, trên các đối tượng cụ thể,
đến các truyện Nôm từ tính trữ tình, tính nhìn từ lí thuyết khoa học, làm phát lộ các
hiện thực đến yếu tố lãng mạn và anh hùng tầng nghĩa mới. Mặt khác, thông qua việc
ca. Đây là một nhận diện nhiều ý nghĩa nghiên cứu các truyện Nôm bác học này,
trên nhiều mặt. Thứ nhất, chính gợi ý về đưa hướng giải minh các văn bản văn học
chiều ảnh hưởng từ dân gian này đã để lại đứng trên chiều tư duy hiện đại. Bên cạnh
ảnh hưởng tới các xu hướng nghiên cứu đó, còn có Đàm Quang Thiện (1965),
hiện đại về truyện Nôm của các tác giả như Nguyễn Đăng Thục (1971) nhìn nhận
Kiều Thu Hoạch (Kiều Thu Hoạch, 2007), Truyện Kiều và các truyện Nôm bác học
Cao Huy Đỉnh (Cao Huy Đỉnh, 2003)… theo trục tư tưởng, so sánh các dấu ấn của
Ở miền Nam cũng diễn ra quá trình lí thuyết Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và
tìm hiểu di sản truyện Nôm song song với tín ngưỡng bản địa.
các giá trị văn hóa văn học khác. Đóng góp 2.5. Như vậy, hiện tượng truyện Nôm
dễ nhận thấy nhất là khuynh hướng sử văn bác học đến đây, theo chiều lịch sử, đã có
học với các tác giả Phạm Việt Tuyền hai lần thay đổi hệ hình tư duy, mượn thuật
(1965), Hà Như Chi (1951), Thạch Trung ngữ của H. R. Jauss (Hans Robert Jauss,
Giả (1973), Thanh Lãng (1953, 1967), 2007) là cuộc diễn trình của “những cách
Phạm Thế Ngũ (1963,1997), Phạm Văn đọc”. Lần thứ nhất diễn ra khi xã hội thoát
Diêu (1960)… Nét nổi bật nhất trong các khỏi trường trung đại vào những năm 30,
công trình này chính là sự cởi mở trong 40 của thế kỉ XX, chứng kiến sự đoạn tuyệt
việc nhìn nhận giá trị các truyện Nôm (cả cách cảm nhận văn chương trong nhóm
truyện Nôm bình dân lẫn truyện Nôm bác nhỏ, giữa cá nhân với cá nhân theo mô
học). Tuy thế, cách phân chia hai khía cạnh hình tri âm để đón nhận cái nhìn có
nội dung và hình thức truyện kể như một phương pháp khoa học (phương pháp tả
khung khổ chung cho tất cả các truyện (bỏ chân, phương pháp ấn tượng, phương pháp
qua tính đặc thù) đã tạo ra những nhát cắt ít văn hóa lịch sử). Lần thứ hai, diễn ra sau
nhiều sơ lược, chung chung, không tạo ra năm 1945, khi trên miền Bắc độc tôn
được chiều sâu nhất định. Điểm đáng lưu phương pháp xã hội học Marxism, theo
tâm nữa trong dấu ấn của các nhà làm sử nguyên tắc phản ánh luận hiện thực, tôn
văn học miền Nam giai đoạn này là sự vận trọng cái điển hình về đấu tranh giai cấp (lí
dụng ít nhiều các lí thuyết văn học phương thuyết Xô viết) và ở miền Nam diễn ra các
Tây (như lí thuyết Phân tâm học, Hiện xu hướng nghiên cứu theo phương Tây.
54
- NGUYỄN QUANG HUY
Cũng chính những thành tựu này góp phần Đây là khuynh hướng mở rộng phạm vi
quan trọng, đặt nền móng cho những nhận trong tính đối sánh để nhìn nhận sâu rộng
thức về văn học cổ nói chung và di sản hơn con đường phát triển cũng như bản
truyện Nôm nói riêng giai đoạn tiếp theo. chất và giá trị truyện Nôm.
Sau hòa bình lập lại, đặc biệt là sau 3. Nhận xét chung và những vấn đề
Đổi mới 1986, lĩnh vực nghiên cứu truyện còn bỏ ngỏ
Nôm bác học có nhiều chuyển biến và Lướt qua bức tranh lịch sử nghiên cứu
đóng góp trên cả hai phương diện, văn bản trên cũng cho thấy truyện Nôm đã được
học và giải minh các giá trị. Điều này diễn nghiên cứu sâu rộng trên nhiều phương
ra trên nhiều khuynh hướng và quan điểm, pháp, nhiều hướng nhìn biểu hiện sự thay
thái độ khác nhau.Trước hết phải kể đến đổi hệ hình tư duy nghiên cứu khoa học
đóng góp của hai nhà nghiên cứu Đặng văn học từ truyền thống đến hiện đại. Cũng
Thanh Lê (1978) và Trần Đình Hượu theo đó, các giá trị truyện Nôm đã lộ ra
(2007). Đặng Thanh Lê trình bày con nhiều chiều kích (từ văn bản học đến các
đường đi đến một tác phẩm kết tinh điển giá trị nội tại). Điều này làm cho chúng tôi
hình của kiểu loại: Truyện Kiều- truyện có thêm nhiều thuận lợi kế thừa từ cơ sở của
Nôm.Trần Đình Hượu (2007) cho thấy một những người đi trước đã phát hiện, nhưng
con đường khác để đi tìm giá trị nhân văn đồng thời cũng tạo ra nhiều nguy cơ. Đây
truyền thống. Đó là con đường tư tưởng, cụ cũng là lí do để chúng tôi thử sức với một
thể ở đây là tư tưởng Nho giáo mà biểu phương pháp khác, từ cái nhìn tâm lí học
hiện đậm nhạt của nó vào văn học trong các chiều sâu. Đây cũng là hướng lí thuyết
từng giai đoạn cụ thể. Đó là sự gắn kết của chưa được giới nghiên cứu quan tâm nhiều.
một mẫu nhà nho - nhà nho tài tử với sức Như phần trên chúng tôi có đề cập,
hấp dẫn của các ca bản, tiểu thuyết tình yêu lịch sử văn học là lịch sử của những cách
Trung Quốc đặt trong môi trường tài tử đọc (H. Jauss), của những phương pháp
giai nhân, vấn đề trung tâm là tình yêu cá “đọc” văn bản nghệ thuật khác nhau. Mỗi
nhân trong chiều hướng tránh mâu thuẫn một phương pháp thường để lại những
với lễ giáo phong kiến. Thế giới mà các thành công hay thất bại nhất định (vì không
nhân vật mơ về chính là nghĩa. Như vậy, có phương pháp đa trị cho một loại đối
truyện Nôm bác học đi đến giữa cuối thế kỉ tượng nhận thức), nhưng phương pháp làm
XIX, trong trường hợp Nguyễn Đình Chiểu cho đối tượng hiện ra những bản chất
(Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư - khách quan nhất (nếu tuân thủ đúng
Tiều nho y vấn đáp) đã chuyển hướng so phương pháp). “Đọc” một đối tượng tiền
với nội dung truyện Nôm bác học trước đó, hiện đại bằng một lí thuyết hiện đại, đến
từ phạm trù Thân, Tình chuyển qua cộng nay đã là một hiển nhiên và nghiên cứu văn
đồng và nghĩa. bản thuộc cơ tầng văn hóa đặc thù phương
Khuynh hướng nghiên cứu về thể loại, Đông từ sự cống hiến của lí thuyết khoa
loại hình truyện Nôm nói chung còn có các học nhân văn phương Tây đã trở nên quen
công trình của Kiều Thu Hoạch (2007), thuộc (các công trình của Lê Tuyên, Đỗ
Cao Huy Đỉnh (2003), Nguyễn Phong Nam Lai Thúy, Trần Đình Sử…). Sự đối lập chủ
(2008). Từ phương pháp so sánh, nhìn thể - đối tượng nói trên khi đối diện với
nhận truyện Nôm trong tương quan loại văn bản tiền hiện đại, dẫn đến hai hệ lụy: 1/
hình với văn học các dân tộc khác, với bản chủ thể hướng tới đối tượng theo chiều
địa và khu vực cũng được các tác giả quan ngang của sự nhận thức, tập trung vào ý
tâm như: Hà Thị Bình (2005), Vũ Anh thức (duy lí) của chủ thể, không chú ý tới
Tuấn (2004), Ngô Thị Phượng (2013)… chiều sâu tâm thức, tâm linh và kết quả là
55
- NGHIÊN CỨU TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TRÊN CHIỀU LỊCH ĐẠI …
đẩy những “không gian thiêng” ra phía sống thần linh; những cuộc lễ hôn phối tự
“duy tâm”, “mê tín” và 2/ tiếp nhận ở phạm do, lễ cuồng ẩm, lễ hội phồn thực, việc cày
vi đối lập mô hình thế giới theo hai đối ruộng của vua vào ngày thiêng... đều rập
cực: tiên/ âm phủ đối với tục/ cõi trần thế. khuôn những hành vi của các thần, tổ tiên.
Sự đối lập nhị nguyên này vô tình làm mờ Bên cạnh đó, truyện Nôm bác học
khuất yếu tố con người trong tính chiều sâu cũng có sự kết hợp xu thế dân gian và xu
nội giới của nó, đặc biệt là chưa soi sáng thế thế tục. Về xu thế dân gian, có hai
nó ở chiều mộng tưởng, chưa xem xét đúng nguồn ảnh hưởng, hai xu hướng: 1/ Sự trỗi
mức vị trí vũ trụ Tâm ở các bình diện như: sinh từ chính truyền thống văn học trước
các năng lượng tâm thần, các chiều kích đó và 2/ Tư tưởng phi Nho giáo được phát
của huyễn tưởng tâm linh - phần mơ tưởng triển trong giai đoạn loạn lạc của lịch sử.
của con người các thời đại, những ngưỡng Trong xu hướng thứ nhất, từ việc sưu tầm,
vọng của cộng đồng. ghi chép truyện dân gian từ trước thế kỉ
Cái nhìn về cuộc đời trong truyện XIV, đến thế kỉ XV, XVII có sự xuất hiện
Nôm nói chung và truyện Nôm bác học nói đặc biệt của Lê Thánh Tông (Thánh Tông
riêng cũng đồng thời đặt cá nhân trong di thảo) và Nguyễn Dữ (Truyền kì mạn
tương quan với các niềm tin của nó với xã lục). Rất dễ nhận ra xu hướng dân gian khi
hội mà nó tồn tại trong đó. Trong phạm vi các tác giả đã sử dụng các motif quen thuộc
chúng ta đang khảo xét, vấn đề này diễn ra có trong cổ tích như: lấy vợ kì dị (vợ là ma,
trong bối cảnh có nhiều cảnh giới hứa hẹn quỷ, tinh loài vật, tiên, thần…), phép thần
cho một sự yên ổn với cuộc sống trần thế phù trợ, gặp gỡ người chết, xuống thủy
như Tiên giới, Niết Bàn, Chân Như, miền cung, lên thiên tào, cứu vật vật đền ơn…
Tịnh Thổ/ Độ, cõi âm (những không gian Như vậy, truyện Nôm bác học tự bản
thiêng hiện diện trong xã hội trần tục)… Sự thân nó luôn hàm chứa nhiều giá trị và vẫy
lựa chọn nào đó có thể xẩy ra, trên nét lớn, gọi nhiều hướng nhìn. Nhìn từ lí thuyết tâm
là dựa trên cấu trúc hướng nội và hướng lí học các chiều sâu của C. Jung cũng đồng
ngoại. Từ yếu tố tâm thức, thời trung đại thời phác họa ra chiều rộng (hệ hình thế
Việt Nam, có thể nói tâm thức của “sự giới quan) và chiều sâu (hệ hình nhân sinh
tham dự thần bí” (Lévy Bruhl) luôn luôn quan) trong tư tưởng văn học trung đại
hiện diện, ví dụ, Kiều từ hội đạp thanh, gặp Việt Nam trong giai đoạn cụ thể (thế kỉ
“mồ vô chủ” và bị ám ảnh, tin thật sự vào XVII, XIX), từ thế giới quan tiên mộng,
sự liên hệ linh thiêng này với Đạm Tiên. mộng ảo, đến cái nhìn về cuộc đời với
Trong chiều kích này, với ý thức sơ khai, những tín ngưỡng riêng, từ đây, những cảm
kiểu kết hợp tiên - người, ma - người, quan riêng biệt về chính cuộc sống được
người - trời… không có giá trị biệt lập theo mở rộng, đi sâu vào chiều nội giới của sáng
kiểu những phản ứng trong những bộ máy tạo nghệ thuật.
hay cơ thể. Do đó, ý nghĩa của những hành
vi ấy không phải là sự kiện vật lí suông của Chú thích:
chúng, mà là sự lập lại hành vi nguyên
thủy, một mô phạm thần thoại, tức là (1)
Mỗi thể loại đặc thù, khi đã đi vào phát triển
những hành vi của đấng thiêng liêng xưa ổn định và kéo dài không đơn thuần là dấu
kia đã hành động. Đây là sự tham nhập hiệu chỉ hình thức của nó, mà còn là một cách
nhằm thức tỉnh và trông đợi những ban biểu hiện thế giới và nhân sinh đặc biệt. Ví dụ
Ngâm khúc là những bi cảm, bi ca của thân
phát từ thần linh. Ví dụ như việc ăn uống, phận trước hoàn cảnh, dấu hiệu đặc trưng của
dinh dưỡng, giao phối... không phải là tác nó là sự thể hiện tập trung vào thế giới nội
động thuần túy sinh lí, mà là tham dự với sự cảm như một đối đãi đặc biệt với thế giới
56
- NGUYỄN QUANG HUY
sống bên ngoài. Truyện Nôm là sự kết hợp vẫn cứ thích thú, nhân dân lao động vẫn tìm
giữa cái nhìn bên ngoài và cái nhìn bên trong, được trong đó những tiếng nói đồng điệu. Nhà
như một nhận thức dung hòa, hay ít nhất, nho cũng theo đó có cơ đi vào những tiếng
hướng về sự dung hòa về thế giới sống của nói, tâm tình của nông dân”(Trần Đình Hượu,
con người… 1990, pp. 66-67). Đó là sự thâm nhập về mặt
(2)
Trong các công trình như: Truyện Kiều và thể tư tưởng, tình cảm của hai dòng văn học.
loại truyện Nôm (Đặng Thanh Lê, 1979), Thi (5)
N.I. Niculin cho rằng sự hiện hữu của truyện
pháp truyện Kiều(Trần Đình Sử, 2005) đều sử thơ trong văn học Việt Nam đã làm cho nền văn
dụng song song hai thuật ngữ này. Nó chứng học này khác hẳn với truyền thống của Viễn
minh cho việc khu biệt thuộc về một hướng Đông mà nó gắn bó khăng khít. Về phương
đặt vấn đề khác mà chúng tôi không tập trung diện này, ông nói, thơ ca Việt Nam gần gũi với
ở đây. Có thể xem thêm những dẫn giải chi các nền văn học của các dân tộc khác ở Đông
tiết trong Truyện Nôm những nghiên cứu hình Nam châu Á: truyện thơ chiếm một vị trí quan
thái học (Nguyễn Phong Nam, 2008). trọng trong thơ ca của hai nước láng giềng Lào
(3)
Trong văn hóa đặc biệt là khi xuất hiện Nhà và Campuchia cũng như của đất nước Thái
nước, ý thức hệ chính thống… luôn tồn tại thế Lan; ở Việt nam, những truyện thơ dân gian có
lưỡng phân văn hóa: bác học và dân gian/bình nét hao hao giống các đa-xtan của Trung Á và
dân; chính thống (officiel) và dân gian xuất hiện ở người Mường, Tày, Nùng, Thái…
(populaire); giới tinh hoa và quần chúng; (Niculin, 2000, pp. 518-519).
trung tâm và ngoại biên… Các xu thế này (6)
Ngay từ đầu thế kỉ XX, Nguyễn Văn Vĩnh đã
luôn nằm trong thế hướng tới sự “giải tập phàn nàn về tình trạng này (tất nhiên là ông
trung”, “li tâm” để vươn đến sự hài hòa, đặc nhìn trong sự đối sánh với truyền thống
biệt là trong văn hóa Việt Nam trong truyền phương tây): Chỉ tiếc rằng các nhà học nước
thống. Các nỗ lực này ta có thể thấy rõ trong Nam không hay trọng lấy các bản thảo, và
các nhà văn lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn người làm văn hay cầu lấy tuyệt, phát ra cho
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du… thiên hạ coi rồi về sau lại sửa đi sửa lại, hoặc
(4)
Trần Đình Hượu cho rằng: “Trước thế kỉ XX, lại để cho người hay hơn sửa, cho nên những
văn học của ta có hai dòng cách biệt: bác học văn nhất bút không có, mà người coi sách
và bình dân. Mỗi dòng đều có người sáng tác, cũng không nệ tìm lấy nguyên thảo, thành ra
công chúng, đề tài, đời sống văn học, phương bấy giờ ai muốn khảo cứu những danh văn,
thức truyền bá riêng; đều được sáng tác theo không biết bằng cứ vào đâu(Nguyễn Văn
những quan niệm văn học, tư tưởng thẩm mĩ, Vĩnh, 2007, p. 344).
bằng những thể loại nhất định và không giống (7)
Cơ thể xã hội Đại Việt giai đoạn này, nếu nhìn
nhau. Văn chương bác học là của nhà nho, từ khía cạnh tâm lí và văn hóa, bộc lộ sự mệt
văn chương bình dân là của nhân dân lao mỏi và suy nhược, kết quả của cuộc tranh
động (chủ yếu là nông dân). Hai dòng tuy khá giành quyền lực và tranh đoạt lẫn nhau giữa
cách biệt nhau nhưng đều là sản vật nông các tập đoàn phong kiếm, các cuộc chiến
thôn; ở một mức độ nào đó, cả hai có khác với tranh nông dân, các cuộc lưu dân li tán… mà
bộ phận văn học cung đình nhỏ bé. Văn học sử gia Tạ Chí Đại Trường (Tạ Chí Đại
cung đình nói chung cũng xếp vào văn Trường, 2013) gọi là “cuộc nội chiến”. Cũng
chương bác học. Sự khác biệt đó đã có lúc có chính vì vậy, hệ thống các giá trị, các niềm
cơ được xóa nhòa. Đó là lúc xuất hiện truyện tin, các vị thế của con người tồn tại trong thế
Nôm, tôi muốn nói truyện Nôm tài tử giai cân nhắc mong manh. Những luồng tư tưởng
nhân. Khi những nhà nho, thuộc tầng lớp trong cơ thể xã hội có thể hình dung như
thượng lưu nhất, thậm chí xuất thân từ đẳng những xung lực. Nó chính là năng lượng nuôi
cấp quý tộc, sống ở kinh kì, một loại đô thị dưỡng phần hồn của cả một cộng đồng, thời
phong kiến, viết thơ ca, ngâm khúc, truyện đại trong đó các cá nhân, các tổ chức sinh
Nôm tỏ sự đồng tình với những người gặp hoạt và mơ tưởng. Những luồng tư tưởng này
cảnh bất công, ngang trái, chịu số phận hẩm phải được vận hành trong cơ thể ấy theo một
hiu với một thái độ nhân đạo chủ nghĩa, thì cách nào đó, bằng cách này hoặc cách khác,
tuy họ cũng chỉ mới nói đến những bậc tài hoặc ẩn chìm hoặc hiển hiện khi bị ức chế,
tình, những người tài sắc, nhân dân lao động phủ nhận hoặc khi có cơ hội thăng hoa.Chúng
57
- NGHIÊN CỨU TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TRÊN CHIỀU LỊCH ĐẠI …
tôi coi đây là sự thức tỉnh, phản tỉnh của hai lí, là kí ức - cái để lại sau khi một hành động
trung tâm nhận thức và tri giác về thế giới được thực hiện, ẩn chứa trong thức A lại da
sống: tâm và thể (thân/ thân thể). Văn học nói như một thứ năng lực tiềm tàng luôn sẵn sàng
chung và truyện Nôm bác học nói riêng thể hoạt động - (D.T. Suzuki, 1999).
hiện sâu sắc các chủ đề này. Nếu thể thể hiện (9)
(Phan Trọng Thưởng và các tác giả, 2007, pp.
sự nhận thức về một cơ thể sống cần được sự 180, 222, 223, 242).
để ý của hoàn cảnh xung quanh, nó đòi hỏi và (10)
Bài viết này in lần đầu trong Đông Dương tạp
cất lên tiếng nói cho quyền của mình thì thế
chí (9) 1913, tr9-10, Nguyễn Văn Vĩnh kí tên
giới tâm diễn ra phức tạp hơn, đa thanh hơn.
T.N.T (tân Nam tử. Vấn đề bàn luận của
Trên nét lớn, có hai môi trường tâm hướng
Nguyễn Văn Vĩnh ở chỗ ông cho rằng âm nôm
đến: tâm tín ngưỡng, tư tưởng (gồm tín
có tính cách hạn chế của một vị thế quốc âm,
ngưỡng bản địa, Nho giáo, Phật giáo và cả
cần có sự phối hợp với chữ Nho, tiếng Lang sa
Đạo giáo), và tâm tình cảm - tình yêu cá tính.
để gây dựng cho văn chương nước nhà phát
Cả hai yếu tố này làm nên chiều nhân sinh
triển(Nguyễn Văn Vĩnh, 2007, pp. 342-345).
quan của nó. Đây là một hệ quả quan trọng
của nhiều nguyên nhân xã hội: 1/ sự hiện diện
(11)
Chuyển dẫn từ (Phan Trọng Thưởng và các
của một “không khí dân chủ về đời sống tâm tác giả, 2007). Do những khó khăn nhất định
linh được tái tạo”; 2/ sự xuất hiện hàng loạt nên việc tiếp cận các tạp chí này hiện nay chỉ
các câu chuyện tình sử Đường - Tống, các có trên bản pdf điện tử. Trong tài liệu chúng
tiểu thuyết phong tình, tài tử giai nhân Minh - tôi vừa dẫn có thể coi là đầy đủ và có uy tín
Thanh; và 3/ theo khảo sát của chúng tôi trên để có thể nhận xét và đánh giá.
phương diện xã hội học văn hóa, chính các
quan hệ giao thương rộng mở và có sự chuyển TÀI LIỆU THAM KHẢO
di các dòng người trong giai đoạn hậu kì trung
đại này, do chiến tranh, do phân chia quyền 1. Hà Thị Bình (2005) (dịch và giới thiệu), Tử
lực, đã dẫn đến sự xác tín lại các niềm tin cố Thư - Văn Thậy, Nxb Khoa học Xã hội,
hữu và các trải nghiệm đô thị. Những chuyển Hà Nội.
biến này đã để lại trong cơ thể văn hóa Đại
2. Bồ Tát hộ pháp và các tác giả (2006) (Thích
Việt những tương tác văn hóa quan trọng.
Thiện Siêu dịch), Luận thành duy thức,
(8)
Tâm lí học Phật giáo chú trọng tới pháp Duyên Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp Hồ Chí Minh.
khởi. Trong kinh A-hàm nói: Cái này có mặt
3. Hà Như Chi (1951), Việt Nam thi văn giảng
thì cái kia có mặt/ Cái này sanh thì cái kia
luận, Nxb Tân Việt, Huế.
sanh/ Cái này không có mặt thì cái kia không
có mặt/ Cái này hoại diệt thì cái kia hoại diệt - 4. Crayssac, R. (2002), Truyện Kiều và xã hội
(Ấn Thuận, 2005, p. 16). Tâm con người tồn Á Đông. In trong Nguyễn Du về tác gia tác
tại trong thế tương quan tương duyên mật phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
thiết với vũ trụ, nhân sinh. Nếu chiều Vũ trụ, 5. Phạm Văn Diêu (1960), Văn học Việt Nam,
tâm tồn tại trong thế cộng thông với bốn đại Nxb Tân Việt, Huế.
chủng: đất, nước, lửa, gió thì chiều nhân sinh, 6. Xuân Diệu (2009), Các nhà thơ cổ điển
nó tồn tại trong thế cộng thông với các linh Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
hồn, tha nhân, nhân và quả trước và sau mình,
7. Durand, M. (1998), L’univers des truyện
vì giống hữu tình chứa các sắc sở tạo như
Nôm, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
thanh, hương, vị, xúc… (Bồ Tát hộ pháp và
các tác giả, 2006, p. 102). A lại da (Àlaya) 8. Cao Huy Đỉnh (2003), Tìm hiểu tiến trình
chính là Thức chứa (tàng) những dấu ấn do văn học dân gian Việt Nam, in trong Tác
suy nghĩ, cảm thọ, ước muốn và hành động để phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh tr 365-
lại, hoặc tốt hoặc xấu. A lại da là thức thứ tám 581, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
(các thức trước gồm theo thứ tự phân chia: 9. Lê Quý Đôn (2013) (Nguyễn Trọng Điềm
Xúc, Tác, Thọ, Tưởng, Tư, Mạt na thức - ý dịch), Kiến văn tiểu lục, thiền dật (tập 2),
thức, Mạt na - ý, và A lại da). Thức này liên Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
quan đến khái niệm Tập khí, theo diễn giải 10. Thạch Trung Giả (1973), Văn học phân tích
của D.T. Suzuki, về mặt vật lí cũng như tâm toàn thư, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.
58
- NGUYỄN QUANG HUY
11. Dương Quảng Hàm, (2005). Việt Nam truyện thơ của các dân tộc Thái ở Việt Nam
văn học sử yếu, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. có cùng đề tài với truyện thơ nôm dân tộc
12. Kiều Thu Hoạch, (2007), Truyện Nôm - Kinh, Luận án tiến sĩ, thư viện học viện
Lịch sử phát triển và thi pháp thể loại, Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
Nxb Giáo dục, Hà Nội. 26. Riftin, B. L. (2012), “Văn xuôi cổ Viễn
13. Trần Đình Hượu (1990), Thực tại, cái thực Đông”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, tr.66-81.
và vấn đề Chủ nghĩa hiện thực trong văn 27. Từ Sơn (2008) (chọn và giới thiệu),
học Việt Nam trung cận đại, In trong Viện Hoài Thanh bình thơ và nói chuyện thơ,
Văn học, Văn học và hiện thực (tr. 66-67), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 28. D.T. Suzuki (1999) (Thích Chơn Thiện
14. Jauss, H, R. (2007). Lịch sử văn học như là dịch), Nghiên cứu kinh Lăng già, Nxb
sự khiêu khích đối với khoa học văn học. In Thuận Hóa, Huế.
trong (Lộc Phương Thuỷ biên soạn) Lí luận 29. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp truyện Kiều,
phê bình văn học thế giới thế kỉ XX (tr. 799- Nxb Giáo dục Hà Nội.
846), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Đặng Việt Thanh, (1957). “Tìm hiểu giá trị
15. Nguyễn Bách Khoa (2003). Văn chương tập “Sãi Vãi” của Nguyễn Cư Trinh”,
Truyện Kiều. In trong Nguyễn Bách Khoa, Văn - Sử - Địa (10), tr.32-42.
Khoa học văn chương (tr. 399-516), Nxb
31. Đàm Quang Thiện (1965), Ý niệm bac mệnh
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
trong đời Thúy Kiều, Nxb Nam chi Tùng
16. Nguyễn Tiến Lãng (2012) (Hà Xuân Liêm thư, Sài Gòn.
dịch), Nét đẹp Hoa tiên-truyện thơ An Nam. In
32. Ấn Thuận (2005) (Thích Quảng Đại dịch),
trong BAVH tập XXV, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Tìm hiểu Duy thức học, Nxb Tôn giáo Hà Nội.
17. Thanh Lãng (1953), Văn chương chữ Nôm,
33. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca
Nxb Văn Hợi, Sài Gòn.
Nguyễn Du, Nxb Kinh thi, Sài Gòn.
18. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học
34. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam
Việt Nam, Nxb Trình bày, Sài Gòn.
nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn hóa
19. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể thông tin, Hà Nội.
loại truyện Nôm, Nxb Khoa học Xã hội,
35. Phan Trọng Thưởng và các tác giả (2007),
Hà Nội.
Mười thế kỉ bàn luận văn chương (tập 1),
20. Nguyễn Phong Nam (2008), Truyện Nôm Nxb Giáo dục, Hà Nội.
những nghiên cứu hình thái học, Nxb
36. Tạ Chí Đại Trường (2013), Lịch sử nội
Đà Nẵng, Đà Nẵng.
chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Nxb Tri
21. Phạm Thế Ngũ, (1963, 1997), Việt Nam văn thức, Hà Nội.
học sử giản ước tân biên, Nxb Đồng Tháp.
37. Vũ Anh Tuấn (2004) Truyện thơ Tày -
22. Nguyễn Thanh Nhã (2013) (Nguyễn Nghị nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp
dịch), Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỉ thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
XVII-XVIII, NxbTri thức, Hà Nội. Hà Nội.
23. Niculin, N. I. (2000) (Nhiều người dịch), 38. Lê Tuyên (1964, 2000), Thể tánh của thi ca,
Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế, Nxb Seacaef California.
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Phạm Việt Tuyền (1965), Văn học miền
24. Nguyễn Hồng Phong (2005) (Nhóm biên Nam, Nxb Khai trí, Sài Gòn.
soạn), Một số công trình nghiên cứu khoa
40. Nguyễn Văn Vĩnh (2007), Văn chương
học xã hội và nhân văn (tập 2), Nxb Khoa
An Nam, in trong Nhiều tác giả, Mười thế kỉ
học Xã hội, Hà Nội.
bàn luận văn chương (tập 1, tr. 344),
25. Ngô Thị Phượng (2013), Nghiên cứu một số Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 17/8/2015 Biên tập xong: 15/9/2015 Duyệt đăng: 20/9/2015
59
nguon tai.lieu . vn