Xem mẫu

NGHỀ TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN NUÔI
TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI HÀN
Đăng ngày: 1-10-2014, 04:19 | Danh mục: Bài viết Tạp chí » Năm 2009 » So 9
Một trong những điểm chung nổi bật dễ nhận thấy trong lĩnh vực văn hóa đảm bảo đời sống giữa
hai dân tộc Hàn và Việt chính là điểm xuất phát từ nền kinh tế “dĩ nông vi bản”. Trong quá trình
tìm hiểu nền kinh tế nông nghiệp truyền thống của hai dân tộc, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh
những điểm tương đồng, có cả những điểm dị biệt liên quan tới lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi.
Cho nên, để giới thiệu về ngành nông nghiệp truyền thống của hai dân tộc Hàn và Việt, chúng tôi
bước đầu đã đặt nó trong sự đối sánh giữa hai dân tộc để tìm ra những điểm giống và khác nhau
trong lĩnh vực nói trên, với hy vọng qua đó sẽ góp phần tăng cường mối quan hệ hiểu biết lẫn
nhau giữa hai dân tộc và thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước Việt
Nam và Hàn Quốc.
So với các lĩnh vực khác, cho tới nay, nền kinh tế nông nghiệp truyền thống ở người Hàn vẫn
chưa thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của giới nghiên cứu Việt Nam. Điểm qua một số công
trình bài viết đã công bố như Nguyễn Bá Thành (1996), “Tương đồng văn hóa Việt Nam – Hàn
Quốc”; Nguyễn Long Châu (2000), “Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc”; Mai Ngọc Chừ (2002), “Vài
nét về sự tương đồng các yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam – Hàn Quốc” trong Những vấn
đề Văn hóa, Xã hội và Ngôn ngữ Hàn Quốc,… cho tới nay, vẫn chưa có một nhà nghiên cứu nào
đi sâu phân tích một cách chi tiết về nền kinh tế nông nghiệp truyền thống của dân tộc Hàn và
đối sánh nền kinh tế này với dân tộc Việt. Song, các công trình nghiên cứu trên chính là nguồn
tài liệu tham khảo quý báu để chúng tôi thực hiện vấn đề nêu trên.
1. Trong lĩnh vực trồng trọt
Ở Hàn Quốc, vào thời kỳ nước Triều Tiên cổ, với việc sử dụng đồ sắt đã tạo ra vô số thay đổi
trong đời sống sinh hoạt của người Hàn. Trước tiên, trong lĩnh vực nông nghiệp đã có sự phát
triển một cách rõ rệt.
Điều này được khẳng định từ sự xuất hiện về các nông cụ như lưỡi cày và lưỡi hái. Hầu hết, các
cánh đồng đã được chuẩn bị trồng cấy bằng các nông cụ như cái cày gỗ cầm tay và cái bừa sắt.
Theo phương thức này, sản lượng lương thực gia tăng đáng kể so với đồ đồng. Cho đến thời kỳ
thành lập của những vương quốc liên minh Puyõ, Koguryo và Chin, nông nghiệp là nguồn cung
cấp lương thực chính yếu của người Hàn. Điều này được thể hiện qua sự việc các đời vua Puyõ
phải chịu trách nhiệm về mùa màng thất bát, hậu quả xảy ra là họ có thể phải thoái vị, hoặc bị
giết. Cũng trong thời kỳ này, việc trồng lúa nước ở các thung lũng đã trở nên phổ biến ở các nhà
nước Shamhan (Tam Hàn) và người ta tin rằng, các hồ chứa nước dẫn thủy nhập điền cũng được
xây dựng trong thời gian này. Ngoài việc trồng lúa, người Hàn còn trồng các loại ngũ cốc ở đồng
khô.
Tương ứng với giai đoạn này của Hàn Quốc, ở Việt Nam vào thời đại Hùng Vương nghề trồng
lúa nước cũng đã từng bước trở thành một nghề chính và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,

tạo ra nền “văn minh lúa nước”, hay “nền văn minh sông Hồng”. Với những nông cụ bằng sắt,
ngành nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển thêm một bước. Khi đã thuần dưỡng được cây
lúa và đưa nghề trồng lúa lên vị trí trội hơn trồng rau củ cũng là lúc cư dân Việt chuyển sang một
hệ sinh thái chuyên biệt mang tính nhân văn trên cái nền của hệ sinh thái phổ quát và nghề trồng
vườn. Do đó, khắp nơi trên đất Việt hình thành một phức thể canh tác: ruộng/rẫy, ruộng/nương,
ruộng/vườn,… trong nghề trồng lúa. Từ cuộc cách mạng đá mới đến những phát minh ra hợp
kim đồng thau chính là bước nhảy vọt về kỹ thuật nhằm đáp ứng những nhu cầu nông nghiệp.
Việc dùng trâu, bò để kéo cày, bừa đất đã nâng cao được hiệu quả làm đất, do vậy cũng đã loại
trừ dần phương pháp “hỏa canh”.
Người Việt đã biết dùng phân để tăng thêm độ phì nhiêu của đất, nên nông nghiệp lúa nước cũng
có điều kiện để chuyển hướng sang thâm canh tăng vụ. Người Việt đã biết trồng lúa hai mùa.
Lúa hai mùa được gọi là “lúa Giao Chỉ”. Việc trồng lúa hai mùa trong thời kỳ này đã khẳng định
người Việt là một trong những dân tộc trồng lúa hai mùa sớm nhất. Theo kết quả nghiên cứu về
nguồn gốc cây lúa dựa trên các vỏ trấu được bảo lưu trong đồ gốm, Giáo sư Nhật Bản Watabe
Tadayo kết luận rằng, ở Đông Nam Á tiền sử có hai trung tâm lúa là Vân Nam (Trung Quốc) và
Assam (Ấn Độ), sau đó nó được di chuyển theo hai hướng và dần dần thích nghi với môi trường
xuống đồng bằng vùng ngập nước ta mới có cây lúa nước với phương thức gieo mạ rồi cấy; lên
vùng khô có cây lúa cạn với phương thức gieo thẳng. Lúa là một loại cây trồng ưa nước, do đó
hình thức trồng lúa nước có thể có trước, còn việc đưa cây lúa cạn lên vùng cao là có sau. Bởi vì,
để thuần dưỡng cây lúa nước trở thành cây lúa cạn phải mất một thời gian thuần hóa lâu dài.
Người ta cho rằng, có ba loại lúa: Indica, Joponica và Javanica và được phân bố như sau: Indica
có mặt ở hầu khắp các vùng trồng lúa, có tuổi xưa nhất, Japonica chủ yếu ở Bắc và Đông Á, còn
Javanica và các biến thể của nó có quan hệ chặt chẽ về mặt sinh học với các giống lúa nương, là
chủng trẻ nhất có vai trò quan trọng ở vùng hải đảo, kể cả Madagasca. Quá trình hội tụ văn hóa
được đẩy mạnh mở đầu rất sớm cho sự hình thành các dân tộc, các quốc gia trên cơ tầng một xã
hội truyền thống kiểu tổ chức mường của người Thái, mà cơ sở là các gia đình hạt nhân được tập
hợp lại thành những tế bào làng, bản do một đẳng cấp quân sự cầm đầu nhà nước, tạo thành bộ
máy chính trị, vận hành trong một phương thức sản xuất mà C.Mác đã gọi là “phương thức sản
xuất Châu Á”[[1]].
Từ những điều đã dẫn ở trên, chúng tôi đưa ra những điểm tương đồng và khác biệt dưới đây
trong ngành trồng trọt ở hai dân tộc Hàn và Việt.
Điểm chung dễ nhận thấy trong nền kinh tế nông nghiệp truyền thống Hàn, Việt chính là nông
nghiệp trồng lúa. Trồng lúa đóng vai trò chủ đạo trong kết cấu kinh tế của người Hàn và người
Việt. Nông nghiệp trồng lúa nước phát triển đòi hỏi thực hiện công tác thủy lợi, đắp đê phòng
lụt, chống hạn. Nếu như người Hàn có hệ thống các hồ chứa nước phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp, ở người Việt cũng có hệ thống thủy lợi như kênh, mương,… phục vụ cho việc tưới và
tiêu nước. Bởi vì, việc trồng lúa nước đối với người Việt và người Hàn có tầm quan trọng số
một, song họ lại phải thường xuyên đối phó với hai tình trạng thiếu và thừa nước. Vì vậy, những
biện pháp thủy lợi như be bờ, đắp đập, khơi mương, tát nước, tạo hồ chứa nước,… đã ra đời. Dù
các hình thức thủy lợi của hai dân tộc Việt và Hàn có đa dạng đến đâu, “mẫu số chung” vẫn là
dựa trên nguyên tắc dùng nước mưa trên mặt sông, suối, ao hồ. Việc dùng nước tưới từ sông,
suối, ao hồ, kênh của người Hàn và người Việt hoàn toàn khác với hình thức tưới nước ngầm lấy
từ dưới giếng lên của người Hán để phục vụ cho nông nghiệp khô vùng Trung Nguyên.

Điểm tương đồng có thể nhận thấy trong nông nghiệp truyền thống Hàn và Việt là đều gắn với
nền kinh tế tiểu nông, mà gia đình là chủ thể. Các gia đình riêng lẻ đảm đương việc sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở lao động gia đình hơn là chế độ nông nghiệp, nông trang như chế độ
nông nô, hay đồn điền quy mô lớn ở phương Tây. Họ sinh hoạt ở làng xóm với quy mô tương tự
nhau và tự túc toàn bộ nhu yếu phẩm sinh hoạt thường ngày.
Bên cạnh đó, người Việt và người Hàn luôn sống trong sự lệ thuộc vào tự nhiên, nên trước thiên
nhiên bao la và sức mạnh huyền bí, con người nhỏ bé run sợ, thần thánh hóa các lực lượng siêu
nhiên, chỉ biết cầu khẩn nhờ trời, nói theo kiểu người Việt: “Ơn trời mưa nắng phải thì”, “Người
ta đi cấy lấy công. Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề. Trông trời, trông đất, trông mây. Trông
mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm. Trông cho chân cứng đá mềm. Trời yên biển lặng mới
yên tấm lòng”. Ở người Hàn, với bằng chứng về tầm quan trọng của nông nghiệp là các lễ hội
nhằm cầu xin mùa màng phong nhiêu sau khi gieo mạ vào tháng Năm và lễ mừng được mùa diễn
ra vào tháng Mười. Ngoài ra, trong khâu trồng lúa nước của người Hàn và người Việt đều giống
nhau ở những công đoạn như gieo mạ, nhổ mạ, cấy và làm cỏ lúa,…
Còn một điều trùng hợp nữa trong nông nghiệp Hàn Quốc và Việt Nam là ngoài trồng lúa và hệ
thống cây trồng phụ, cư dân Việt và Hàn còn phát hiện một hệ thống cây dược liệu rất phong phú
và quý giá để phòng bệnh và chữa bệnh. Hàng ngàn năm trôi qua, con người ở hai nước thuộc
“nền văn minh thảo mộc” đã tìm ra một kho tàng cây thuốc, những bài thuốc gia truyền, cách chế
biến, phương pháp điều trị phù hợp với con người và tự nhiên ở hai nước Việt Nam và Hàn
Quốc. Chẳng hạn, ở Hàn Quốc cây sâm được trồng tại khu vực Kaesõng nhằm mục đích xuất
khẩu. Ở người Việt cũng có rất nhiều cây thuốc quý có giá trị như tam thất. Ngoài ra người Việt
và người Hàn đều trồng cây thuốc lá và trồng bông để dệt vải. Tại Hàn Quốc, cây thuốc lá được
trồng vào khoảng thế kỷ XVII, sau đó cũng được gieo trồng rộng khắp và được xuất khẩu sang
Trung Quốc. Theo người Hàn, lợi nhuận từ cây thuốc lá nhiều hơn từ lúa gạo, vì thế người Hàn
đã giành một phần đất đai màu mỡ nhất dành để trồng cây thuốc lá. Đối với người Hàn và người
Việt, việc trồng bông không chỉ để dùng trong gia đình, mà còn dùng để xuất khẩu.
Bên cạnh những điểm giống nhau trong lĩnh vực trồng trọt của người Việt và người Hàn vẫn có
những điểm khác nhau - ngay từ thời Bắc thuộc, ở những vùng thấp, do chưa có máy móc để cày
ruộng, người Việt đã biết dùng sức kéo của trâu bò thay cho sức kéo của con người, với phương
thức: “con trâu đi trước cái cày đi sau”. Nhờ việc sử dụng trâu, bò làm sức kéo trong nông
nghiệp đã kéo theo diện tích trồng trọt được mở rộng dần. Ở Việt Nam, các vua nhà Lý rất quan
tâm đến việc bảo vệ trâu, bò. Dưới thời Lý, tội trộm cắp trâu, bò bị trừng trị rất nặng. Tháng Hai
năm 1117, vua định rõ lệnh cấm giết trộm trâu. Hoàng Thái hậu nói: “gần đây ở kinh thành,
hương ấp có nhiều người trốn tránh, lấy việc ăn trộm trâu làm nghề nghiệp, trăm họ cùng quẫn,
mấy nhà cày chung một con trâu. Trước đây ta đã từng nói đến việc ấy, nhà nước đã có lệnh
cấm. Nay giết trâu lại càng nhiều hơn trước. Bấy giờ vua xuống chiếu, kẻ nào mổ trộm trâu thì
phạt 80 trượng, đồ làm tang thất phụ và bồi thường trâu, láng giềng mà không tố cáo, phạt 80
trượng”[[2]]. Lúc này, các công trình thủy lợi cũng có điều kiện mở mang. Dọc các con sông lớn
như sông Hồng, sông Mã đã có đê phòng lụt. Nhiều kênh ngòi mương máng được đào thêm, hay
nạo vét hàng năm. Giao Châu kí có ghi chép việc huyện Phong Khê (trung tâm Cổ Loa) có đê
phòng lụt. Hậu Hán thư có ghi lại sự việc “sửa sang kênh ngòi”[[3]]. Những biện pháp kỹ thuật
nói trên được đưa vào sản xuất nông nghiệp góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất trong
nông nghiệp. Ở Giao Chỉ, mỗi năm lúa được trồng hai vụ chiêm và vụ mùa. Theo một số tài liệu

cũ thì “lúa mỗi năm được trồng hai lần về mùa hè và mùa đông sản xuất từ Giao Chỉ”. Năm
1248, vua Trần Thái Tông đặt cơ quan Hà đê có phó/chánh sứ phụ trách việc sửa, đắp đê ở các
lộ, phủ. Vua còn xuống chiếu đắp đê Quai Vạc. Nhà nước còn chi phí một khoản tiền lớn vào
việc đắp đê, nếu vào ruộng của nông dân thì sẽ được bù tiền. Việc đắp đê là một công việc quan
trọng trong việc thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp. Thời Trần, cùng với việc đắp đê ở bãi biển
đã hình thành hàng loạt điền trang. Khi có lũ lụt, cần hộ đê thì cả học sinh Quốc Tử Giám và con
đại thần, quý tộc cũng phải đi hộ đê. Có năm nước sông lên to, vua Trần Minh Tông đích thân đi
hộ đê. Việc xây dựng các công trình thủy nông cũng được nhà Trần đặc biệt chú ý. Ở những
vùng Thanh Hóa, Nghệ An là nơi có nhiều công trình thủy nông. Năm 1231, vua Thái Tông sai
hoạn quan Nguyễn Bang Cốc đào kênh từ Thanh Hóa đến Diễn Châu (Nghệ An), sau được
phong làm phụ quốc Thái úy. Năm 1248, vua Nhân Tông lại cho đào sông Mã[[4]]. Tương ứng
với giai đoạn này ở Việt Nam, tại Hàn Quốc dưới thời Silla (Tân La), thời Cao Ly, với việc tạo
ra chiếc lưỡi cày từ thời các vương quốc liên minh là một bước đột phá trong lao động, nhưng
đến giai đoạn này người Hàn vẫn chỉ sử dụng sức kéo của con người, mà không không sử dụng
sức kéo của trâu bò. Ngoài ra, do đặc thù là một nước có nhiều hòn đảo, nên người Hàn không
đắp đê ngăn lũ như người Việt, mà họ chỉ xây dựng các hồ chứa nước để dẫn thủy nhập điền.
Một khác biệt lớn trong nông nghiệp của Việt Nam và Hàn Quốc – cho đến thời kỳ xã hội lưỡng
ban, người nông dân Hàn mới biết đến kỹ thuật gieo mạ và cấy lúa. Cho đến thế kỷ XVII, kỹ
thuật nông nghiệp Hàn Quốc mới có những tiến bộ đáng kể. Lúc này, người Hàn mới biết gieo
lúa giống trên những luống mạ trước khi được cấy ra một thửa ruộng nhỏ. Kế đó, khi lúa đạt tới
một mức độ thích hợp nào đó, người ta nhổ lên rồi cấy lại trong ruộng lúa. Như vậy, cũng một
thửa đất có thể được sử dụng cùng lúc cho vụ lúa mạch mùa đông. Về kỹ thuật này cho phép
gieo mạ trên một lô đất nhất định trong khi các lô khác đang chờ mùa lúa mạch mùa đông chín
tới. Hệ thống mùa gối vụ như vậy cần nguồn cung cấp nước đầy đủ, do đó những hồ nước phục
vụ tưới tiêu được xây dựng nhiều hơn. Cuối thế kỷ XVII, người ta đã thống kê được khoảng
6.000 hồ chứa nước, đánh dấu sự gia tăng sản lượng nông nghiệp đáng kể. Trong khi đó, người
nông dân Việt đã biết đến kỹ thuật trồng lúa ngay từ thời Hùng Vương. Kết quả khai quật của
các nhà khảo cổ học đã cho thấy một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước ở Việt Nam khá
phát triển dưới thời văn hóa Đông Sơn. Ở di tích làng Vạc, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy
những hạt thóc nằm trong nồi gốm, vỏ trấu. Ở làng Cả cũng có vết tích vỏ trấu. Nhiều công cụ
gặt hái lúa tìm thấy trong các di tích văn hóa Đông Sơn như liềm, dao gặt, nhíp bằng đồng.
Nhiều nhà khảo cổ học còn căn cứ vào cảnh người giã gạo bằng chày tay được khắc họa trên mặt
trống đồng để chứng minh cho nghề trồng lúa nước lúc bấy giờ.
Ngoài ra còn phải kể đến một sự khác biệt lớn trong việc tìm ra giống lúa nước của người Hàn và
người Việt, đó là cây lúa nước của người Hàn không phải do chủ nhân người Hàn tìm thấy, mà
do quá trình tiếp xúc văn hóa giữa các dân tộc trong vùng Đông Á. Mặt khác, theo các nhà
nghiên cứu con đường truyền lúa nước vào Hàn Quốc lại bao gồm hai nhánh: một nhánh từ biển
Nhật Bản truyền lên, một nhánh từ Thái Bình Dương truyền sang vào khoảng thế kỷ IV trước
công nguyên[[5]]. Với Việt Nam, tuy không nằm trong khu vực xuất phát đầu tiên của giống lúa
Oryza satival, mà theo quan niệm hiện nay là các vùng rộng lớn từ Bắc Ấn Độ đến Tây Nam
Trung Quốc, nhưng ít nhất Việt Nam cũng thuộc vào khu vực thuần dưỡng và phổ biến cây lúa
trồng thuộc loại Oryza japoni, hay Oryza sinica. Ở Việt Nam, nền nông nghiệp trồng lúa có mặt
từ xa xưa, mà những dữ kiện khảo cổ học biết được cho tới nay cho thấy là từ thời hậu kỳ đá
mới. Đó là chưa kể những dự đoán của các nhà nghiên cứu thời kỳ xuất hiện lúa trồng còn lùi xa

hơn tới các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, cách ngày nay gần mười nghìn năm [[6]]. Như vậy, ở
Hàn Quốc cây lúa nước xuất hiện muộn hơn so với ở Việt Nam. Điều này có thể khẳng định, chủ
nhân của người Hàn đã tiếp nhận giống lúa của cư dân Đông Á, trong đó có cư dân Việt cổ.
Điểm khác biệt trong trồng trọt của người Việt và người Hàn – người Việt ngoài trồng lúa tẻ còn
trồng lúa nếp. Dựa vào các kết quả nghiên cứu của ngành khảo cổ học, nền nông nghiệp trồng
lúa đã sớm xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến từ cư dân tiền Đông Sơn. Cư dân lúc bấy giờ
trồng nhiều loại lúa tẻ và lúa nếp. Người Đông Sơn rất thích ăn gạo nếp, sử dụng nhiều trong các
ngày lễ hội, trong nghi lễ thờ cúng. Một số truyện cổ tích như chuyện “bánh chưng, bánh dày”,
các dấu tích văn hóa như nhiều chiếc chõ gốm để đồ xôi ở văn hóa Đông Sơn đã cho thấy điều
đó. Ở Hàn Quốc, trong các tài liệu nói về ngành trồng trọt của Hàn Quốc chúng tôi không thấy
đề cập đến việc người Hàn trồng cây lúa nếp.
Một điểm khác biệt nữa trong kỹ thuật trồng trọt của người Việt và Hàn đó là cho đến thế kỷ
XVII, kỹ thuật trồng lúa khô của người Hàn mới được chú trọng phát triển. Còn đối với người
Việt, nhất là cư dân sống ở các vùng trung du miền núi, kỹ thuật trồng lúa khô đã được đưa vào
nông nghiệp ngay từ thời Bắc thuộc. Bên cạnh đó, nhờ sự hiểu biết về thời tiết hai mùa khô, mưa
và với nhu cầu tăng vụ, người Việt đã đưa cây lúa lên cao, vào bãi, lên nương và nhờ mưa để
cung cấp đủ độ ẩm cho cây sinh trưởng.
Điểm khác biệt lớn nữa trong khâu trồng trọt của người Việt và người Hàn là cư dân Việt được
coi là những cư dân bầu bí và rau củ. Việc trồng rau, củ của người Việt nhằm đáp ứng yêu cầu có
thức ăn bột và rau quả bổ trợ cho cuộc sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên. Bởi vì, người phương
Đông, trong đó có người Việt luôn coi mình là “nhân sinh tiểu vũ trụ”. Vì vậy, ở những vùng
duyên hải Việt Nam, cư dân Việt nơi đây vẫn coi khoai lang với cá là bữa ăn truyền thống của
họ. Cây khoai lang trở thành lương thực chính, có năng suất cao, vì khoai lang rất phù hợp với
đất pha cát:
“Trăng rằm đã tỏ lại tròn
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi”
(Ca dao Việt Nam)
Ngoài khoai lang, người Việt còn trồng các loại khoai môn, khoai sọ, môn riềng, môn nước, bầu
bí… Trong khi đó, người Hàn không phải là cư dân nông nghiệp trồng bầu bí, mà là cư dân trồng
các loại rau như cải củ, hành tây,…
Bên cạnh những đặc điểm khác nêu trên, ở người Hàn và người Việt còn có một điểm khác biệt
nữa trong nông nghiệp: vào những tháng mùa màng cày cấy, gặt hái, Nhà nước đình hoãn mọi
công dịch để tập trung sức lao động vào sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, vào năm 1435, triều
đình ra lệnh cho các quan địa phương “hễ công việc gì có hại đến nghề nông thì không được kinh
động sức dân”.
Khi nói đến ngành trồng trọt của người Việt và người Hàn, không thể không nhắc đến chế độ
ruộng đất. Ruộng đất ở Việt Nam và Hàn Quốc đều gồm hai bộ phận chủ yếu: ruộng đất thuộc sở

nguon tai.lieu . vn