Xem mẫu
- Nghệ Thuật Kiến Trúc MUGHAL
Delhi. Thành đỏ, thời kỳ Shd Jahan,
sau năm 1638. Bức họa hiện thực bởi một nghệ nhân Delhi,
khoảng năm 1820, thư viện văn phòng Ấn Độ, Lon Don
Được khắc lên trên những bức tường cẩm thạch của Diwan - i -khas tại Pháo
Đài Đỏ ở Đề Li là một câu bằng tiếng Ba Tư mà người đời gán cho vua
Jahan: “Nếu những ở trên đời này từng có một Vườn Địa Đàng hạnh phúc,
thì nó đây, nó đây, nó đây!” .
Vua Jahan cố gây phấn khích cho kỳ được đối với hậu thế tính ương ngạnh
của một vị quân vương hùng mạnh. Ông là con cháu của một đế quốc xâm
lược chỉ tự hài lòng với những gì tráng lệ nhất mà truyền thống nghệ thuật
của Ấn Độ có thể tạo tác được. Dòng họ Mughals một cách tài tình đã biến
truyền thống đó phù hợp với những sở thích riêng biệt của chính họ. Tính
chất Trung Á và nghệ thuật thời đại của họ phô diễn những ảnh hưởng tương
tác của các nền văn hóa, sự thể nghiệm táo bạo và sự canh tân tự tin. Nói
riêng, qua nền kiến trúc của họ, dòng họ Mughals bày tỏ công khai sự tìm
kiếm một cá tính nghệ thuật độc đáo để làm vẻ vang cho đế quốc họ.
Do vị trí địa lý của nó, Ấn Độ đã luôn luôn là một nơi dung chứa những
truyền thống nghệ thuật đa dạng bắt nguồn từ Tây Á và Trung Á. Nhưng
- khác với những kẻ xâm lăng Trung Á trước đây, họ Mughal ngoại hạng
trong sự đánh giá nhạy bén về những truyền thống nghệ thuật bản xứ. Nhằm
mục đích làm bóng bẩy hơn nữa tài nghệ phong phú của người Ấn Độ thời
đó, các thợ thủ công người Ba Tư trốn thoát những biến động tại quê hương
của họ ào ạt đổ xô tới Ấn Độ và nhận sự bảo trợ nhân từ tại triều đình
Mughal. Các nhà quý tộc tị nạn và những văn sĩ từ Trung Á cũng nhập vào
thêm cộng đồng đa tạp ngoài các linh mục dòng Tên và những người phiêu
lưu của nước Ý. Sự thịnh vượng về ảnh hưởng sáng tạo cuối cùng dẫn tới sự
nở rộ một phong cách cực kỳ phong phú và quan trọng của nghệ thuật Ấn
Delhi, Thánh đường Hồi giáo Jami Masjip.
Mughal, thời Shad Jahan, niên đại 1644-58
Độ – là “phong cách Mughal”.
Những nguồn gốc thật sự của nền kiến trúc Ấn – Âu ung dung bên trong các
tàn tích của ngôi đền Hồi giáo đầu tiên của Ấn Độ thuộc thế kỷ thứ 12, được
xây vào thời đại vua Đề Li.
Đền Hồi giáo Quwat-ul-Islam, được hoàn chỉnh năm 1196, có nét đặc sắc ở
các hàng hiên Ấn Độ giáo mọc rải rác xung quanh một sân trong. Do sự
khan hiếm các thợ thủ công được đào tạo theo kiểu thức người Hồi vào thời
đó, ngôi đền Hồi giáo được ráp lại một cách ngẫu nhiên từ những tàn tích
của các ngôi đền Ấn Độ giáo và đạo Jain, các cột trụ của công trình kiến
trúc, được khắc chạm với nhiều hình tượng không có diện mạo cụ thể nhưng
lại có đường nét Ấn Độ giáo rõ rệt; bờ thành bao quanh cái sân đi mô phỏng
theo một kiểu của những ngôi đền được chống đỡ bằng cột trụ của miền
Nam Ấn Độ. Những cố gắng sau này trong việc mở rộng khuôn viên ngôi
đền Hồi giáo đã làm cho nó đẹp thêm với một cái cổng ra vào cực kỳ vĩ đại
vẫn còn đứng vững tới bây giờ. Bên trong khu vực của ngôi đền là tháp nhỏ
Qutab của quốc vương Iltumish. Đó là một cái tháp có đường rãnh máng rõ
rệt bằng những câu khắc phức tạp, những phần chạm trỗ trang trí và những
bao lơn. Theo lối tô điểm rực rỡ và tính chất kiến trúc phức tạp của nó, tháp
- nhỏ Qutab có nguồn gốc từ di sản của nghệ thuật Ấn Độ bản xứ hơn là từ
những kiểu thức kiến trúc Hồi giáo. Nhìn một cách toàn thể, các kiểu thức
khác nhau dường như cộng tồn trong một ý tưởng lộn xộn không thuần nhất.
Nó phản ánh thực tế hay thay đổi chỗ ở vào thế kỷ thứ 12 ở xứ Đề Li.
Những công trình
Mughal vĩ đại đầu tiên
Babur, một hậu duệ của
cả Tamerlane lẫn Thành
Cát Tư Hãn, lúc được
mười lăm tuổi, đạt được
tham vọng của mình
trong việc soán ngôi của
Tamerlane Afghanistan
và vùng Samarkand tơ
lụa sẵn lòng mở cổng cho
ông. Tâm trí của Babur
được thấm nhuần bởi một
nền học vấn Ba Tư cổ
điển tại nơi sinh quán của
ông là Heart, đã ôm ấp vẻ
tráng lệ của các tòa nhà
tuyệt mỹ của Samarkand,
những vườn hoa và sân
chơi của nó. Được nung
nấu bởi những ý nghĩ
chiếm hữu món quà tặng
của Ấn Độ, ông chuyển
sự chú ý của ông sang
hướng Nam và vào năm
năm 1525 đã thu tóm
Agra. Thành lũy. Được cẩn những lớp Pietra dura được đế quốc Hindu rộng
lớn.
(kỹ thuật tạo nên các tấm bằng đá
Babur cuốn hút vào
nhiều màu sắc và kiểu hoa)
những cố gắng của triều
trong bộ phận Musamman Burj.
Mughal, thời kỳ Shab Jahan, khoảng năm 1637 đại là cố tạo nên một dấu
ấn kiến trúc có ý nghĩa,
nhưng người chiến sĩ vĩ đại này vô cùng đam mê những vườn hoa. Những
vườn hoa của Babur được chăm sóc một cách chu đáo, kết hợp ba khía cạnh
của nền kiến trúc Hồi giáo: tính chặt chẽ, sự cân bằng và tính đối xứng. Phần
lớn những đặc điểm của vườn hoa là việc sử dụng nước, điều xa xỉ tối hậu
- đối với những con người đi tới Ấn Độ từ những vùng sa mạc Trung Á.
Trong tinh thần cố bảo tồn chu đáo một nguồn nước dồi dào theo mùa, nước
chảy qua các vườn hoa được tái sinh và giữ trong tình trạng chuyển động
bằng những phông - ten được thiết kế đơn giản và chúng được cung cấp
nước bằng những kênh nhỏ hẹp. Các vườn hoa tạo nên một cảm giác đang
hiện diện trong một thế giới riêng tự có trang hoàng bông hoa và cây ăn trái,
và dòng nước làm êm dịu giác quan bằng âm thanh chuyển động của nó.
Những toà nhà của Babur được tu sửa lại rộng rãi bởi các vị hoàng đế sau
ông, nhưng vườn hoa của ông là diện mạo tiêu biểu của những thành tựu
thuộc kiến trúc Mughal. Cả Jahangir cũng say s ưa trong cái đẹp của thiên
nhiên và những vườn hoa Nishat và Shalimar của ông tại Kashmir. Có lẽ là
những ví dụ mỹ lệ của nghệ thuật xây dựng vườn hoa và công viên
Mughal.
Mặc dù Babur có công mang vào
Ấn Độ sự khát khao đến mức đã
trở thành ám ảnh về những vườn
hoa của cư dân ở sa mạc, nhưng
mãi tới khi ngôi mộ của con trai
ông được xây dựng thì lối kiến
trúc Mughal mới bắt đầu khẳng
định cho nó một cá tính riêng
biệt. Những kiểu thức Ba Tư, Ấn
Độ và những kiểu thức đa dạng
của các địa phương tỉnh lẻ hòa
nhập nhau để tạo nên một công
trình lịch sử đồ sộ, mà ở đó là nỗ
lực thu tóm cho kỳ được những
phẩm chất ưu việt là sự an bình
và thanh thản. Với chất liệu sa
thạch đỏ hòa lẫn với cẩm thạch
được đẽo gọt qua loa, công trình
chịu ảnh hưởng Ba Tư đáng kể là
ở hình thể hình chữ nhật, bọc
Bức tiểu họa xuất xứ từ tác phẩm
tường và được xây dựng trên một
Akbar-nama của Abul Fazl.
chân tường nâng cao, phần trên
hết ở trung tâm là một mái vòm Basawan vẽ và Chatai tô màu trên giấy;
cao ngất. Quần thể kiến trúc Mughal, thời kỳ Akbar, khoảng năm 1595.
35,2x22,2cm.
được hoàn chỉnh bằng những
vườn hoa trang trọng với những Bảo tàng Victoria và Albert, Lon Don
phông – ten nước và những vòm nhỏ nhô ra che mát. Công trình được khởi
- công ngay trong lúc ông còn sống và có lẽ, đó là dự tính để lại cho hậu thế
một công trình có giá trị đáng kể. Như thể là ông muốn đền bù lại những
năm tháng ông đã trải qua làm kẻ đào tẩu nghèo hèn trong triều đình Ba Tư
sau khi ông bị tước quyền bởi quan nhiếp chính Sher Khan Sur.
Trong lúc nắm quyền đế chế, Sher Khan đã làm thanh tú và đẹp lên những
công trình kiến trúc bằng vữa hồ và gạch trần của những vị quốc vương của
Đề Li có trước ông, mà kiểu thức bắt nguồn từ ngôi mộ có thành rào trổ tinh
tế của quốc vương Iltutmish. Lên ngôi tại Purana Kila vào thế kỷ 14, ông
xây lên một đài quan sát, như là kiến trúc báo trước cho công trình lịch sử
Mughal có mái vòm phồng ra xuất hiện về sau, và một đền thờ Hồi giáo có
những cổng xây rộng hướng về thánh địa Mecca. Phá vỡ kiểu thức Hồi giáo
cổ truyền vốn rất chú trọng về tính đối xứng hình học tuyệt đối, ngôi đền
được tạo hình dạng sao cho một khối lượng ánh sáng lớn nhất có thể chiếu
vào cái sân lúc bình minh và hoàng hôn. Khi hạ bộ Sher Khan, chính
Humayun bị công trình Purana Kila mới mẻ và có nhiều cải cách này gây ấn
tượng mạnh đến độ ông chọn nó làm nơi cư trú mãi cho đến khi ông mất
sớm sau khi bị ngã trên những bậc thềm trơn trợt của đài quan sát Sher
Khan.
Là con trai của Humayun, bản thân Akbar Đại vương là một con người khôn
ngoan và khoan dung vì ông là người kém chữ nghĩa văn chương nên ông
khuyến khích các học giả, các nhà thơ, họa sĩ và nhạc sĩ và biến triều đình
của ông thành một trung tâm văn hóa, tôn giáo trí thức và tự do tư tưởng. Sự
trị vì của ông là một ví dụ về một triều đình mà vua chúa đặt tiền đề trên một
nhận thức khôn ngoan là cai trị một quốc gia rộng lớn về mặt địa lý và đa
dạng về mặt văn hóa như Ấn Độ đòi hỏi sự khoan dung. Và rất nhiều sự hiểu
biết giữa các nền văn hóa với nhau. Sinh ra trong một túp lều trong suốt thời
kỳ cha ông bị lưu đày tại xứ Ba Tư, Akbar nhận thức sâu sắc ve những
nhược điểm của vận may và liên tục tìm kiếm một chân lý tôn giáo riêng cho
chính mình. Lối kiến trúc của thời đại Akbar – gồm có những công trình
Fatehpur Sikri, pháo đài Đỏ tại Đề Li và pháo đài Agra – dường như đã phản
ánh việc đi tìm sự hoàn thiện tuyệt hảo một cách say s ưa trong sự phối hợp
mạnh mẽ của kiểu thức Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Những công trình của
Akbar đã đạt tới sự biểu tượng hóa quá trình tiếp cận những nền văn hóa mà
ông luôn khích lệ và nuôi dưỡng.
Người vợ chính của Akbar là Jodha Bai và cung điện của nàng đặt tại Agra
với sự bày biện lớp lang các hiên nhà có mái che và các cây cột được chạm
khắc mang tính chất thuần tuý Ấn Độ giáo về cấu trúc và hoa văn. Cung điện
của hoàng thái hậu, hiện trường của những năm tháng hình thành của
Jahangir, có sự đóng góp về mặt kiến trúc của nó qua việc giữ lại ảnh hưởng
Ấn Độ giáo với các sân trong được bao bọc bởi các dãy cột, các bao lơn có
- rầm chìa và các kiểu mẫu trang trí công phu được chạm khắc thành dải.
Cung điện nghỉ ngơi của ông tại Agra minh họa điều nầy một cách gây ấn
tượng. Trớ trêu thay việc xây dựng ngôi mộ của ông tại Lahore là hành động
khuất phục cuối cùng của ông đối với chính quyền giới nữ của hoàng hậu
Nur Jahan. Bà đã sáng tác ra công trình bất chấp cả kiểu thức ưa thích Ấn
Độ giáo của ông lẫn những truyền thống tập tục Hồi giáo.
Dưới thời đại vua
Jahan, kiến trúc
Mughal đạt tới cực
điểm của nó. Lên
ngôi sau một cuộc
chiến dai dẳng và
đẫm máu với bào
đệ xứng đáng hơn
của ông là Hoàng
tử Khusrau, vua
Jahan nhanh chóng
đặt sự thống trị của
ông vượt hơn
những vị hoàng đế
trước ông. Chính
sự tài hoa sáng
chói của ông với tư
cách là một kiến
trúc sư, cuối cùng
Dehil. Ngôi mộ của vua Humayun. Kiểu thức Mughal, đã đưa kiểu thức
kiến trúc Mughal
thời kỳ Akbar, niên đại 1565-72
phôi thai sang một
độ chín muồi mang tính chất dứt khoát và cụ thể. Được sự trợ giúp phong
phú của ngân khố ở Aga, triều đại cai trị của ông mở ra thời đại hoàng kim
của nền nghiên cứu Mughal, hòa hợp những nét đặc sắc thích đáng nhất của
các kiểu thức Ấn Độ giáo và Hồi giáo cũng như đã sử dụng đầy đủ những
vật liệu quý hiếm lộng lẫy. Mái vòm, một di sản do nền kiến trúc La Mã để
lại cho người Hồi giáo, luôn luôn là một nét đặc sắc trung tâm, và hay làm
tầm thường hóa các khía cạnh khác của một tòa nhà. Cẩm thạch được cẩn
với xà cừ và cacnelian; trần nhà được tăng thêm lá vàng và những tiểu họa
được sơn phết bằng bột đá quý nghiền nát. Hoàng đế làm việc từ Pháo đài
Đỏ, được chỉnh trang mới và ông đặt tên là Shahjahanabad. Đích thân ông
ngồi trên ngai vàng hình con công cẩn đầy ngọc thạch, kim cương, hồng
ngọc và ngọc trai.
- Vua Jahan xây dựng công trình theo sở thích của mình. Ông đã tô điểm Pháo
Đài Đỏ, làm cho nó sinh động và đàn ông tính như ông cha c ủa ông. Ông ký
thác sa thạch đỏ cho đống rác rưởi, cùng với các viên ngói láng bóng và kiểu
tranh khảm bị hạn chế. Rút nguồn cảm hứng từ thế giới hiện thực, việc trang
hoàng đối với ông ít mang tính chất hình học hơn và nặng về đề tài thiên
nhiên hơn, mô tả cây cỏ và bông hoa chứa sự sống động nhịp nhàng mà ông
nổi tiếng là một người sành điệu. Để minh chứng cho tài năng nghiên cứu
của ông và sánh kịp với trách nhiệm của ông với tư cách là một người bảo vệ
tín ngưỡng, ông khôn khéo làm dịu bớt tính chất xa xỉ của những cung điện
khi ông xây dựng công trình Jame Masjid tại Đề Li, là một điện thờ công
cộng. Đó là một công trình to lớn bằng đá, bệ vệ và trang nhã chứa những
đặc thù của kiến trúc Hồi giáo ban sơ.
Một kiệt tác Mughal Kiến trúc xa xỉ nhất của ông là công trình hoàn toàn
bằng đa cẩm thạch tinh khiết màu trắng. Vật liệu nầy lấy được từ vùng
Rajasthan và được các Rajputs sử dụng để trang trí mà Akbar cũng đã sử
dụng cho công trình Fatehpur Sikri. Đối với con mắt của Shah Jahan, cẩm
thạch trắng có một tính chất siêu phàm nhưng hiển hiện sự dịu dàng nữ tính
gần như được đồng nhất với sắc đẹp của người quý phi sủng ái của ông là
Mumtaz Mahal. Làm nhỏ loại tất cả những ngôi lăng tẩm vua chúa khác về
cái đẹp, kích thước và giá cả, công trình Taj Mahal là kiệt tác của phong
cách kiến trúc Mughal. Tính rực sáng của chất liệu cẩm thạch cho thấy rõ
một công trình có màu sắc tinh khiết nhưng khi tới gần để nhìn kỹ thì sẽ phát
hiện một sự giản dị phóng khoáng với các câu chữ rút từ kinh Coran và
những hoa văn trang trí uốn lượn được chạm trổ bông hoa bằng đá mã não,
cacnelian, ngọc thạch và ngọc lam. Người ta bảo rằng sự đối xứng duyên
dáng của mái vòm vĩ đại này có lẽ sẽ không có gì có thể so sánh được trong
thời đại của chúng ta. Trình độ nghệ thuật đạt đến mức tài hoa của công
trình nằm ở cả việc chọn lựa vật liệu lẫn khả năng tính toán chu đáo để thực
hiện việc xây dựng nó.
Agra, Taj Mahal. Mughal,
- thời kỳ Shad Jahan, hoàn chỉnh năm 1653 việc kế
Công
hoạch hoá thực sự của công trình đã được gán cho nhiều người khác nhau:
Ustad Isa, một người Thổ Nhĩ Kỳ của vùng Shiraz, kiến trúc sư người Vơ-
ni-dơ tên là Jerome Veroneo và hai người vô danh nước Ba Tư mà về sau bị
Hoàng đế làm cho mù mắt để ngăn ngừa khả năng dùng kiểu thức công trình
Taj Mahal để tái tạo các công trình tương tự cho một vị quốc vương khác.
Mặc dù không chắc chắn, nhưng rõ ràng là Taj Mahal đã thừa hưởng từ
những nghệ nhân thuộc các trường phái có truyền thống khác nhau, và tất cả
hòa hợp lại một cách dễ dàng trong quan niệm và thiết kế mang tính chất Ba
Tư thuần tuý. Giấc mơ của Shah Jahan là xây dựng một công trình giống
như đúc khác bên kia sông Yamuna. Nhưng bấy giờ các điều kiện thực tế đã
khác: một là giá cả, và kế đó giai cấp nông dân ngày càng bất mãn và b ị
đánh thuế quá mức: cuối cùng sự lật đổ ông do người con trai khổ hạnh của
ông là Aurangzeb thực hiện.
Sự trị vì của Aurangzeb đánh dấu cho sự kết thúc vẻ rực rỡ ngôi nhà Babur.
Cơn thịnh nộ đã phá tín ngưỡng của ông vua này đã dẫn tới việc phá huỷ
phần lớn các nền nghệ thuật được xem là phát huy sự sùng bái thần tượng và
những công trình kiến trúc của chính ông đều quá sơ sài và thiếu sinh
động.
Trong một khoảng chốc ngắn ngũi, các kiểu thức kiến trúc khác nhau gặp gỡ
nhau trong một toàn cục mang tính chất chặt chẽ. Các nghệ nhân Ấn Độ đã
luôn luôn chứng tỏ một khả năng đáng lưu ý là họ hấp thụ các ảnh hưởng
ngoại quốc vào trong nhãn quan sáng tạo của họ hơn là chối bỏ chúng. Điều
nầy năm vị hoàng đế Maghal đầu tiên đã khai thác triệt để. Lấy cảm hứng từ
vẻ đẹp của các ốc đảo của vùng sa mạc và ngôi vườn hoa đẹp tựa thiên đàng
của xứ Ba Tư, các kẻ xâm lược mưu trí nầy đã cố gắng phá vỡ truyền thống,
tái tạo lại nghệ thuật Ấn Độ và thể hiện óc tưởng tượng của cá nhân họ về
cái nguy nga vĩ đại. Nếu như các nền nghệ thuật đã từng tiến gần đến sự nắm
bắt cái khung cảnh Vườn Địa Đàng trên trái đất thì có lẽ thực sự đó chính là
giây phút này.
nguon tai.lieu . vn