Xem mẫu

TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 67 - 74

NGHỀ LÀM CÖC BƢỚM (MÁK PÉM) CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN
XÃ CHIỀNG NGẦN - THÀNH PHỐ SƠN LA
Lê Văn Minh9
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Bài viết đề cập tới nghề làm cúc bướm - một nghề thủ công truyền thống đang được duy trì và
phát triển tại địa bàn xã Chiềng Ngần - thành phố Sơn La, từ đó chỉ ra các giá trị của nghề như: Giá trị vật
chất, giá trị tinh thần, giá trị thẩm mĩ đặc biệt là quy trình chế tác, các loại khuôn và dụng cụ được người thợ
sáng tạo trong quá trình hình thành và phát triển của nghề. Bài viết khẳng định nhu cầu sáng tạo - hưởng thụ
những thành quả trong lao động, sáng tạo văn hóa đã tồn tại, phát triển bao đời nay, đóng góp vào di sản văn
hóa Thái ngày càng phong phú, đa dạng làm cho văn hóa giàu bản sắc, mang đậm tính tộc người. Đồng thời đề
xuất với chính quyền địa phương một số giải pháp cơ bản góp phần phát triển nghề truyền thống giúp đồng bào
bảo tồn giá trị văn hoá đồng thời tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Từ khóa: Nghề làm cúc bướm, nghề thủ công, cúc bướm, mắk pém.

1. Những vấn đề chung
Chiềng Ngần là một trong 12 xã, phƣờng của thành phố Sơn La, cách trung tâm thành
phố 15km về phía Tây Bắc. Phía Đông và Đông Nam giáp 2 xã: Mƣờng Bú (huyện Mƣờng
La), Mƣờng Bằng (huyện Mai Sơn); phía Tây giáp các phƣờng: Quyết Tâm, Quyết Thắng và
Chiềng Sinh (thành phố Sơn La); phía Nam giáp xã Chiềng Mung (huyện Mai Sơn); phía Bắc
giáp xã Chiềng Xôm, phƣờng Quyết Thắng, phƣờng Chiềng An (thành phố Sơn La). “Năm
2014, Chiềng Ngần có 1.583 hộ gia đình với 6.714 nhân khẩu sở tại và 3.468 dân tạm trú. Xã
có 7 dân tộc cùng sinh sống, bao gồm: Thái, Kinh, Mường, Mông, Tày, Hoa, Lào. Người Thái
đen định cư ở địa bàn từ lâu đời có số dân đông nhất, chiếm 95,3% dân số toàn xã” [1]. Căn
cứ vào các đặc trƣng về trang phục, ngôn ngữ văn hóa mà các nhà khoa học chia ngƣời Thái
thành 2 ngành Thái Đen và Thái Trắng.
Vùng Chiềng Ngần có nhiều nét đặc trƣng của văn hóa Thái đặc biệt là cộng đồng
ngƣời Thái Đen đƣợc thể hiện từ trang phục đến cách xây dựng nhà ở, tổ chức các lễ hội, ẩm
thực,... trong đó trang phục truyền thống của ngƣời Thái Đen đƣợc làm từ sợi bông tự nhiên
do bà con trồng, dệt thành vải, nhuộm và tự cắt may quần áo. Phụ nữ Thái Đen có áo lửng
(xửa cỏm) màu tối, cổ tròn, đứng, thân áo ngắn bó sát khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy dài
màu đen không trang trí họa tiết, hoa văn, gấu váy đắp cạp đỏ, dây thắt làm bằng vải tơ tằm
nhuộm màu xanh/tím, dây xà tích cuốn trễ quanh eo, ngoài ra còn có khăn piêu đội đầu đƣợc
thêu chỉ màu rực rỡ, rất cầu kỳ thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ của ngƣời phụ nữ. Đi cùng với
chiếc áo cóm, trên đƣờng nẹp xẻ dọc giữa khuôn ngực có đính hai hàng cúc có hình bƣớm,
ong, ve sầu (thƣờng gọi chung là cúc bƣớm), đƣợc các nghệ nhân chế tác từ bạc, nhôm, đƣợc
ngƣời Thái Đen lựa chọn, ƣa chuộng và gìn giữ nhiều đời nay.
9

Ngày nhận bài: 8/5/2017. Ngày nhận đăng: 10/8/2017
Liên lạc: Lê Văn Minh, e - mail: leminhctct@gmail.com

67

Cúc bƣớm (tiếng Thái gọi là mắk pém - nghĩa là quả dính/dính sát vào) vừa là vật dụng
để nối 2 tà áo cóm với nhau, vừa là đồ trang sức trang trí cho chiếc áo cóm thêm phần nổi bật
- trở thành nét đặc trƣng rất riêng có thể nói là đặc sắc của trang phục ngƣời Thái bởi cúc
bƣớm gắn với bộ trang phục của ngƣời phụ nữ/ trang phục là nhu cầu mặc không thể thiếu của
cộng đồng. Nhìn vào trang phục là dấu hiệu nhận diện và phân biệt giữa ngƣời Thái và các tộc
ngƣời khác. Cúc đƣợc ngƣời thợ làm thủ công với nhiều công bằng đôi bàn tay, khối óc, tính
cần cù, sáng tạo và những giá trị văn hóa trong chiếc xửa cỏm của dân tộc mình. Hiện nay,
nghề làm cúc bƣớm vẫn đang đƣợc đồng bào gìn giữ, bảo tồn và phát triển.
Trên địa bàn thành phố Sơn La, nghề làm cúc bƣớm đang đƣợc đồng bào Thái Đen
duy trì phát triển tại xã Chiềng Ngần trở thành nghề truyền thống mang lại những giá trị vật
chất và giá trị tinh thần nổi bật, giúp đồng bào bảo đảm cuộc sống của mình, đồng thời bảo
tồn đƣợc nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Thái.
2. Giá trị của nghề làm cúc bƣớm
2.1. Giá trị vật chất
Nghề làm cúc bƣớm hiện nay có ý nghĩa quan trọng về mặt vật chất, nghề giúp bà con
có thu nhập khá ổn định, thƣờng xuyên duy trì và phát triển. Cúc đƣợc làm từ nhôm nguyên
chất bởi giá thành rẻ, có độ bền cao mà vẫn giữ đƣợc nét đẹp vốn có của nó. Qua nghiên cứu,
ghi chép của tác giả tại gia đình ông Quàng Văn Tƣơng ở Tiểu khu I xã Chiềng Ngần, thì
nghề đã thu hút hàng chục lao động, mỗi ngƣời phụ trách một khâu, phụ nữ có thể làm tất cả
các khâu, chỉ có tạo khuân và đúc phôi ban đầu thì cần cánh tay của đàn ông. Cúc bƣớm đƣợc
làm quanh năm theo nhu cầu đặt hàng của các tiểu thƣơng trên địa bàn và các vùng lân cận.
Theo ông Tƣơng cúc đƣợc phân phối tại thành phố Sơn La, Hòa Bình, Điện Biên thậm chí sang
tận nƣớc bạn Lào. Mỗi bộ cúc hoàn thiện đƣợc bán tại nơi sản xuất từ 10.000 - 12.000 VNĐ.
Với mỗi mẻ 30 kg nhôm nguyên chất bán đƣợc 10.000.000 VNĐ với thời gian 10 ngày liên
tục. Mỗi mẻ cúc hoàn thiện trừ chi phí nhƣ than đá, chảo, nhân công thì cơ sở thu đƣợc 60%
tiền bán cúc. Hiện nay, trên địa bàn TP. Sơn La có 3 hộ gia đình tham gia sản xuất cúc bƣớm,
tạo thu nhập cho hàng chục nhân khẩu và giải quyết việc làm cho các hộ dân vùng ven
thành phố.
Theo các tiểu thƣơng, cúc có hai nguồn cung cấp chính: Một là chuyển từ dƣới xuôi lên,
hai là của các cá thể tại địa phƣơng sản xuất, nhƣng ngƣời dân thích và ƣa chuộng loại cúc
đƣợc làm thủ công hơn bởi có độ bền cao, ít bị gãy, ôxi hóa... còn cúc nhập dƣới xuôi mỏng
hơn, dễ gẫy, độ bền thấp.
2.2. Giá trị tinh thần
“Cúc bướm được bắt nguồn từ một truyền thuyết về mối tình dang dở của một đôi trai
gái người dân tộc Thái, yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Khi mất đi, 2 người biến
thành đôi bướm trắng dập dìu, luôn luôn quấn quít bên nhau. Từ truyền thuyết đó, người dân
tộc Thái đã chế tác ra những con bướm trắng đính khâu vào 2 vạt áo “cóm” cài lại ở nơi trái
tim mình để nhớ mãi mối tình sắt son chung thủy này” [2].
68

Ông Quàng Văn Tƣơng, ngƣời làm cúc bƣớm xã Chiềng Ngần cho biết hàng cúc là
điểm nhấn không thể thiếu trong trang phục phụ nữ với hai hàng song song, một bên là hàng
cúc đực có đầu tù, tròn dùng để đơm/đan vào hàng cúc cái có phần đầu tròn rỗng, hai hàng
cúc đan xen thắt lại với nhau nhƣ một biểu tƣợng cho tình yêu đôi lứa, không thể có đực mà
không có cái hoặc tạo đóng (xọn) và mở (khay). Đó cũng là ý nghĩa phồn thực với mong
muốn sinh sôi nảy nở, phát triển mà bao đời nay ngƣời Thái Đen vẫn sử dụng, giữ gìn và
phát huy.
2.3. Giá trị thẩm mĩ
Nói đến nghề thủ công và nghề làm cúc bƣớm thì không thể không nói đến tính thẩm mĩ
bởi áo cóm là trang phục truyền thống của ngƣời Thái. Là biểu tƣợng cho cả tộc ngƣời, thông
qua cách tạo hình của con bƣớm, ong, ve sầu, ngƣời thợ tự tay chế tạo khuôn bằng những
đƣờng nét, hình khắc đơn giản nhƣng không thiếu phần tinh tế. Có những nét dài, thanh xen
lẫn bằng nhát chấm quanh cánh của con bƣớm tạo bố cục chắc chắn cho hình con bƣớm.
Đồng thời hàng cúc trắng là điểm nhấn quan trọng trong tổng thể chiếc áo của ngƣời phụ nữ.
Qua đó thể hiện “... nghệ thuật cắt may của phụ nữ Thái đạt đến trình độ trang phục
hiện đại. Kín vì váy áo che kín toàn bộ thân thể, nhưng lại hở vì cách cắt may sát vào từng
đường cong trên cơ thể phụ nữ thể hiện khiếu thẩm mĩ truyền thống tộc người ăn sâu vào tiềm
thức họ, khiến họ tự giác thực hiện và sáng tạo ra sản phẩm không lẫn với các tộc người
khác. Vì vậy phong cách ăn mặc truyền thống đã được bảo tồn trong niềm tự hào của cộng
đồng” [3] hoặc “... chính những hình dạng khác nhau của từng loại bướm trên hàng cúc đã
làm cho chiếc áo Thái được trang trí hoa văn. Đồ án hoa văn này thật trang nhã và đầy sức
hấp dẫn” [4].
3. Các loại khuôn và dụng cụ làm cúc
Làm cúc bƣớm bằng nguyên liệu nhôm nguyên chất ở Chiềng Ngần đòi hỏi ngƣời thợ
phải tập trung cao độ, tỉ mỉ, chăm chút, khéo léo, tinh tế trong quan sát, sáng tạo trong từng
khâu để tạo ra chiếc cúc đặc trƣng, đƣợc đông đảo ngƣời dân đón nhận. Để quy trình chế tác
có hiệu quả phải trải qua các khâu từ chuẩn bị các loại khuôn, lò nung nguyên liệu... cho đến
kỹ thuật đúc, dập, cắt thì ngƣời thợ phải có bộ đồ nghề chuyên dụng, đa dạng tƣơng ứng với
từng khâu trong chuỗi quy trình làm cúc.
3.1. Lò nung
Lò đƣợc xây bằng gạch đỏ đắp bùn pha trấu, lò dùng để nung cho nguyên liệu nhôm
nóng chảy, lò trƣớc kia to so với hiện nay do để đốt bằng củi. Ngày nay đã chuyển sang dùng
than đá, với diện tích lò cao 80 cm, rộng 70 cm, cửa lò rộng 30 cm, có tác dụng khi nung chảy
ngƣời thợ dùng muôi sắt múc nguyên liệu, lò đƣợc ngăn thành 2 lớp, lớp dƣới cao 20 cm rộng
70 cm, để thoáng có tác dụng đƣa không khí vào hoặc để quạt (dùng bễ quạt) và chứa phần sỉ
than. Phần trên đƣợc ngăn cách một tấm phên đan, ghép bằng sắt ngăn không cho than rơi
xuống phía dƣới, trên tấm phên là một lớp than bùn rồi đến than đá trên than đá đặt chiếc chảo
gang, dày đủ để nung 30 kg nhôm nguyên chất, trên cùng là nắp lò đƣợc gia công từ tấm bìa
sắt cứng.
69

3.2. Khuôn đúc
Khuôn đƣợc làm bằng đất nung, theo quan niệm và kinh nghiệm 30 năm làm nghề thì
khuôn đƣợc tạo bởi đất sét đƣợc nung đỏ qua lửa sẽ chịu đƣợc nhiệt độ cao, có độ bền, dễ sửa
chữa. Khuôn dùng để đúc phôi, phần cúc thô ban đầu là khâu đầu tiên trong tạo hình cúc
bƣớm, diện tích khuôn rộng 10 cm, dài 25 cm, cao 5 cm, một đầu hở để đổ nguyên liệu.
Khuôn gồm hai mặt ốp/ghép vào nhau, một chiếc trơn, một chiếc đƣợc ngƣời thợ gia công 24
con tƣơng ứng mỗi con một cúc, độ dày của cúc dao động từ 1 - 1,5 mm, khi đúc 2 chiếc
khuôn ốp vào nhau để chắc và không chảy nguyên liệu ra ngoài ngƣời ta dùng 2 chiếc kẹp tre
vam dài 0,7 cm, dài 40 cm cố định một đầu và đầu còn lại đƣợc khóa bằng dây thép để đúc
xong tháo dây thép ra và lấy phôi. Để tránh nóng ngƣời ta thƣờng tạo đế bằng gỗ và mặt trên
đƣợc lót bằng bằng vải ƣớt sao cho khi đúc, tháo kẹp tre/vam không bị cháy thanh tre và tránh
nóng cho ngƣời đúc. Khuôn đƣợc làm thủ công bằng các vật liệu tự nhiên tuy khá đơn sơ
nhƣng lại có độ bền, chắc chắn, nhẹ và dễ di chuyển.
3.3. Khuôn dập
Khuôn dập đƣợc làm thủ công trên đoạn sắt đặc có đƣờng kính 6 cm hình trụ một đầu
đƣợc gắn vào thanh gỗ để làm đế hoặc gắn phần đế gỗ xuống đất sao cho khoảng cách giữa
mặt đế lên mặt dập là 10 cm. Mặt khuôn đƣợc khắc chìm/âm bản hình con bướm đực và bướm
cái, đƣợc ngƣời thợ dùng các thanh, đoạn sắt nhọn khắc trực tiếp bằng tay, tạo hình con bƣớm
rồi khắc các đƣờng hoa văn, họa tiết trên thân con bƣớm, sao cho độ dày mỏng, nông, sâu
phải đảm bảo đến tạo hình, chất lƣợng của cúc. Mỗi một chiếc khuôn khoảng 1,5 - 2 năm là
phải khắc lại cho họa tiết chìm sâu xuống bởi đúc phôi xong chuyển qua dập ngƣời thợ dùng
búa và phôi đặt lên khuôn đập mạnh tạo hình cúc bƣớm. Khi dập phôi và khuôn với nhau qua
tác động bằng búa nhiều lần và liên tục khuôn mòn đi dẫn đến phần cổ họa tiết bướm cái
mỏng khi sử dụng áo cóm dễ bị gãy.
3.4. Khuôn cắt
Khuôn cắt đƣợc gia công bằng thanh sắt đặc, khuôn nhỏ ở phần cán và phình to phần
đầu, khuôn dài 10 - 12 cm, một đầu cán và một đầu đƣợc tạo hình khá cung phu khoét sâu vào
thân khuôn tạo hình gờ, đƣờng bao hình cúc để cắt đập lên phần khuôn dập đã tạo ra. Khuôn
không có đủ các chi tiết nhƣ thân, đầu, họa tiết,.. mà chỉ có hình diềm hay còn gọi là hình bên
ngoài/đường bo, hình bao quanh. Đặc biệt hình cắt khi cắt phải khớp với hình khuôn dập. Thợ
dùng khuôn cắt đặt lên trên sao cho khớp với hình khuôn dập đã tạo rồi dùng búa đập nhằm
loại bỏ phần nguyên liệu thừa xung quanh hình cúc.
3.5. Các dụng cụ khác
Búa cầm tay với nhiều kích cỡ dùng để đập khi cắt, dập, chỉnh sửa hoàn thiện. Đục bằng
sắt nhọn đầu dùng để đục lỗ trên thân cúc, mỗi chiếc cúc đục 4 lỗ để đơm cúc vào áo, một
thanh gỗ dài 80 cm dày 15 cm dùng để tì cúc khi đục, một trụ gỗ tròn đƣờng 35 cm cao 50 cm
dùng cho khuôn cắt hình cúc bƣớm, mỡ động vật dùng để nhúng khuôn cắt và bôi khuôn dập
cho trơn dễ làm và chống dính, muôi/thìa múc nguyên liệu...
70

4. Quy trình chế tác
4.1. Nguồn nguyên liệu
Cúc đƣợc làm bằng nhôm, loại nguyên liệu tốt nhất là các loại nhôm dẻo, nguyên chất,
mềm không pha gang hoặc các loại chất khác. Nhôm là nguyên liệu khá thông dụng trong sinh
hoạt hiện nay vì vậy nguồn nguyên liệu khá dồi dào, đa số từ các dụng cụ đã hỏng hoặc không
sử dụng đến, đƣợc thu mua từ các hộ gia đình hoặc các cơ sở thu mua phế liệu, nếu nhôm bị pha
tạp khi dập, cắt sẽ giòn dễ gãy, độ bền của cúc không cao. Mỗi lần có đơn đặt hàng ngƣời thợ
mua hàng 100 kg nhôm về ngâm, rửa thật sạch rồi mới chuẩn bị đƣa vào chế tác.
4.2. Quy trình chế tác
Nhôm đƣợc làm sạch bằng nƣớc để khô cắt vụn hoặc dùng búa đập vụn/nhỏ cho vào nồi
gang đã đặt trên lò nung rồi đậy nắp lò lại tránh bụi bẩn bám vào nguyên liệu. Đốt lò, dùng bễ
quạt cho ngọn lửa bắt vào than đá, nung liên tục trong 2 giờ đến khi nhôm tan chảy thành chất
lỏng rồi mới múc nguyên liệu để đúc phôi cúc. Theo chủ cơ sở sản xuất thì lúc nhiệt độ than
đá làm nóng và tan chảy nhôm thì nhiệt độ lên đến 600C.
Để đúc trƣớc tiên là chuẩn bị khuôn, kẹp chặt khuôn và lót bằng đế tránh nóng khi đổ
rồi để miệng khuôn hƣớng lên trên dùng dụng cụ múc nhôm đã tan chảy. Dụng cụ là chiếc
muôi đƣợc gia công bằng thép, dùng muôi múc một lƣợng nhôm vừa đủ đổ vào khuân trong
vòng 15 giây thì dỡ khuôn bằng cách gỡ phần dây thép kẹp giữa hai thanh tre lấy phôi ra khỏi
khuôn rồi lại ghép khuôn đổ tiếp cứ liên tục nhƣ vậy trong nhiều giờ đồng hồ đến khi nào hết
nguyên liệu trong chảo gang thì tắt lò nung. Đây là công đoạn khá vất vả cần độ chính xác cao
bởi nhiệt độ cao ảnh hƣởng đến năng suất lao động, nếu không cẩn thận dẫn đến đổ nguyên
liệu ra ngoài bám bụi bẩn lại phải qua xử lý và cho vào nung lại.
Mỗi lần làm cần 2 thợ chính và một thợ điều chỉnh bễ quạt, làm trong 8 - 10 giờ với
30 kg nhôm thì đúc đƣợc 800 bộ phôi cúc, phôi cúc hình thành, định hình diện tích ban đầu,
độ dày mỏng của cúc, mỗi bộ 24 con tƣơng ứng với hai hàng, mỗi hàng 12 cúc. Làm xong
phôi thì chuyển qua khâu dùng khuôn dập để in hình con bƣớm lên phôi, đặt phôi lên khuôn
dập, dùng búa đập. Mỗi lần dập cần dứt khoát tay búa để hình đƣợc chuẩn xác. Dập khuôn tạo
hình mỗi ngày một ngƣời làm đƣợc 40 - 50 bộ cúc, khi tạo hình bằng khuôn dập xong chuyển
qua khâu tạo lỗ ở cúc.
Ngƣời thợ dùng đục sắt nhọn kê cúc lên thanh gỗ dài 80 cm dày 15 cm dùng để tì cúc
khi đục. Chiếc cúc bƣớm đục 4 lỗ thủng trên thân cúc vừa với lỗ của chiếc cúc áo thông
thƣờng để khâu, đính bằng chỉ vào áo. Khâu này khá đơn giản và đỡ tốn sức hơn so với khâu
đúc, dập bởi cúc đã thành hình và nguyên liệu nhôm mềm dễ tạo lỗ.
Tiếp theo là khâu cắt hình, ngƣời thợ kê cúc đã dập khuân và đục lỗ trên một cục gỗ
trắc, tròn đƣờng kính 35 cm, cao 50 cm không mút khuôn bởi vì khuân cắt rất sắc lại đục nhát
một cần độ chính xác loại bỏ phần thừa của cúc, dùng khuôn cắt và búa cắt bỏ phần thừa bên
ngoài hình con vật đã dập, đặc biệt ở khâu này khuôn cắt phải khớp với khuôn dập nếu không
sẽ bị mất hình hoặc thừa những phần không cần thiết với tạo hình con vật ở khuôn dập. Ngƣời
thợ đục dứt khoát làm đứt phần ngoài hình con vật nếu không dứt khoát hoặc để khuôn khô
không tra mỡ động vật sẽ không đứt hẳn hoặc đứt nhƣng để lại các gai nhọn sắc ảnh hƣởng
71

nguon tai.lieu . vn