Xem mẫu

  1. Ngành Du Lịch có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam - Trần Bình Phần I : Bối cảnh phát triển và Vị thế Kinh tế Công nghiệp không khói, tên gọi không chính thức của ngành du lịch, giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Theo tài liệu Chỉ số Cạnh tranh Du lịch 2009 ( Travel & Tourism Competitiveness Index – TTCI 2009 ), do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) ấn hành, ngành “du lịch và lữ hành hiện chiếm khoảng 9,9 GDP, 10,9 % xuất khẩu, và 9,4 đầu tư của thế giới " (1). Tầm quan trọng của ngành du lịch cũng được nhấn mạnh qua báo cáo tóm lược hoạt động du lịch của Liên Hiệp Quốc (World Tourisrm Organization -Tourism Highlights 2008: WTO-HL2008 ): “Ngày nay, nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu ( export income ) từ dịch vụ du lịch trên thế giới chỉ đứng thứ tư sau nhiên liệu, hóa chất và ngành ô tô”. Năm 2008, doanh thu du lịch trên thế giới đạt 1100 tỷ USD, hay khoảng 3 tỷ USD mỗi ngày (2). Ngành du lịch còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của các nước đang phát triển. Tổ chức Du lịch Thế giới Liên Hiệp Quốc nhận định rằng: “tại nhiều quốc gia đang phát triển, du lịch là nguồn thu nhập chính, ngành xuất khẩu hàng đầu, tạo ra nhiều công ăn việc làm và cơ hội cho sự phát triển” (WTO-HL2008). Trên Diễn đàn Du lịch Thế giới vì Hòa bình và Phát triển Bền vững họp tại Brazil năm 2006, ông Lelei Lelaulu,
  2. Chủ tịch Đối tác quốc tế, một tổ chức hoạt động vì mục đích phát triển nhân đạo đã phát biểu: “du lịch là phương tiện chuyển giao của cải tự nguyện lớn nhất từ các nước giàu sang các nước nghèo… Khoản tiền do du khách mang lại cho các khu vực nghèo khổ trên thế giới còn lớn hơn viện trợ chính thức của các chính phủ” (3). Đối với nền kinh tế Việt Nam, nguồn ngoại tệ du lịch trong những năm gần đây lớn dần và trở nên đáng kể. Trong các tài liệu nghiên cứu kinh tế Việt Nam ấn hành đầu năm nay, Thay đổi cơ cấu: giải pháp kích thích có hiệu lực duy nhất của nhóm Harvard, hay Một năm của những tin đồn của Ayumi Konishi - Ngân hàng Phát triển Châu Á, nguồn ngoại tệ du lịch đã bắt đầu được đề cập đến như là một trong những thành phần quan trọng của cán cân thanh toán khi các tác giả phân tích về cuộc khủng hoảng tài chính Việt Nam và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Là điểm đến mới, với nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa khá phong phú, và giá cả thấp, ngành du lịch Việt Nam phát triển khá nhanh trong thập niên qua, và có tiềm năng, triển vọng tiến xa hơn. Song tương lai của ngành du lịch Việt Nam sẽ còn tùy thuộc vào hiệu quả của chính sách phát triển du lịch, việc bảo tồn, phát huy nguồn tài nguyên, nhân lực, và sự đánh giá đúng mức hiện trạng và tiềm năng. Các đánh giá dựa theo cảm quan, thiếu cơ sở nghiên cứu, dễ dẫn tới sự lạc quan thái quá. Chẳng hạn, lòng hiếu khách của dân chúng, an ninh an toàn, và chính sách du lịch thông thoáng thường được giới truyền thông trong nước mô tả như những lợi thế thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Thế nhưng theo kết quả cuộc điều tra các chỉ số cạnh tranh du lịch năm 2009 của WEF thì đây chính là những mặt yếu của các ngành du lịch Việt Nam cần phải được chấn chỉnh. Từ góc độ khác, hoạt động du lịch còn thể hiện nét văn hóa và nếp sống văn minh của một xứ sở. Do đó, ngành du lịch còn là phương cách quảng bá hữu hiệu hình ảnh của một xứ sở. Song, nó cũng có thể phản tác dụng, gây phương hại đến uy tín đất nước nếu như tình trạng kinh doanh theo lối ăn sổi ở thì, nạn chèo kéo du khách, và việc quốc doanh hóa, thương mại hoá các cơ sơ tôn giáo tôn nghiêm xảy ra một cách phổ biến. Tiềm hiểu bối cảnh phát triển và vị thế của ngành du lịch trong nền kinh tế việt Nam và trong khu vực (Phần I), năng lực cạnh tranh và văn hoá du lịch
  3. (Phần II) là những chuyên đề sẽ được thảo luận trong bài viết. I. Bối cảnh Phát triển và Vị thế Kinh tế 1. Bối cảnh - Thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương Các dữ kiện và phân tích từ bối cảnh phát triển cho ta góc nhìn tổng quan và xu hướng phát triển của ngành du lịch trên thế giới và khu vực. Các quốc gia phát triển trên thế giới và các nước trong khu vực vừa là nguồn tiêu thụ chính yếu, vừa là đối thủ cạnh tranh và mô hình phát triển có thể đối chiếu, tham khảo. Mục đích viếng thăm và phương tiện di chuyển (WTO-HL 2008). Quảng cáo tiếp thị là một trong những khâu quan trọng của hoạt động du lịch. Hiểu rõ được động lực viếng thăm của du khách, các nhà quản lý có thể hoạch định chiến lược quảng bá và kinh doanh hữu hiệu hơn. Ví dụ, dự báo của UNWTO qua ấn bản cập nhật 1/2009 (UNWTO World Tourism Barometer: WTB-01/2009) phân tích rằng du lịch vì công việc, hội nghị sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng trước tình hình kinh tế suy thoái, trong khi đó các cuộc thăm viếng nhân nhân, khách trở lại, sẽ không suy giảm đáng kể (4). Số liệu về các phương tiện di chuyển do khách du lịch sử dụng cũng không kém phần quan trọng vì chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông, sự tiện lợi và an toàn, là mối quan tâm của du khách, và đồng thời cũng là một trong những tiêu chuẩn đánh giá năng lực cạnh tranh ngành du lịch của mỗi quốc gia.
  4. Ngành du lịch không ngừng tăng trưởng “Kể từ sáu thập niên qua, ngành du lịch đã không ngừng phát triển, trở thành một trong những khu vực kinh tế tăng trưởng lớn nhất và nhanh nhất trên thế giới”. Từ năm 1950 đến 2007, lượng du khách tăng từ 25 lên đến 903 triệu, và doanh thu (receipts) năm 2007 đã vượt quá 1000 tỷ USD. Trong thập niên qua, mặc dù bị ảnh hưởng từ các vụ khủng bố và dịch SARS, song mức tăng triển của ngành du lịch vẫn khả quan, tăng 4% giai đoạn 1995-2007 và 6.6% năm 2007 (WTO-HL2008). Tuy nhiên, theo ấn bản cập nhật của UNWTO tháng 6/2009 (UNWTO World Tourism Barometer: WTB-06/2009), đà phát triển bắt đầu chậm từ năm 2008 lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảnh kinh tế. Mức tăng trưởng năm 2008 chỉ đạt 1.9%, tăng 16 triệu du khách, nâng tổng số du khách hàng năm lên 922 triệu (5).
  5. Phạm vi hoạt động du lịch ngày càng mở rộng Theo thời gian, các điểm đến của hoạt động du lịch ngày càng mở rộng, đã chuyển ngành du lịch đương đại trở thành động lực then chốt cho sự phát triển kinh tế xã hội”. Năm 1950, 15 điểm đến lớn nhất chiếm 98% lượng du khách. Tỷ lệ này giảm xuống còn 57% vào năm 2007 do sự gia nhập của nhiều điểm đến mới (WTO-HL2008). Châu Á - Thái Bình Dương nằm trong số các điểm đến mới này, đã trở thành khu vực đón nhận khách quốc tế quan trọng thứ hai, chiếm tỷ phần 20%, sau khu vực Châu Âu 53% (WTB-6/2009).
  6. Nguồn khách du lịch . Hai đặc điểm đáng lưu ý về nguồn khách du lịch. Thứ nhất, có đến 80% du khách đến từ các nước trong vùng; tuy nhiên, tỷ lệ gia tăng hoạt động du lịch giữa các vùng có xu hướng tăng mạnh hơn (8% - 2007) so với mức tăng trưởng du lịch trong khu vực (6% - 2007). Thứ hai, mặc dù các quốc gia phát triển vẫn chiếm phần lớn nguồn lượng du khách, trong những năm gần đây, lượng du khách đến từ các nước đang phát triển tăng mạnh hơn, đặc biệt các vùng Đông Bắc và Đông Nam Á, Đông và Trung Âu, Trung Đông, Nam Phi và Nam Mỹ. Theo bảng thống kê dưới đây, ngành du lịch khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang trên đà phát triển nhanh, tăng 319% trong giai đoạn 1990-2007, vượt xa mức tăng trưởng của hai khu vực lớn khác: Châu Âu 193%, và Châu Mỹ 148% (WTO-HL2008).
  7. Nguồn thu nhập . Nguồn thu của ngành du lịch lệ thuộc vào số lượng khách đến và mức chi tiêu (du lịch) bình quân theo đầu người (expenditure per capita). Nước Đức và Vương quốc Anh giữ vị trí thứ nhất và thứ ba về chi tiêu du lịch ở nước ngoài năm 2007 do mức chi tiêu du lịch bình quân theo đầu người của hai nước này trên 1000 USD, cao hơn khoảng bốn lần mức chi tiêu du lịch bình quân đầu người của Hoa Kỳ. Ngược lại, với sức chi tiêu du lịch đầu người chỉ tương đương với khoảng 2% của Đức Quốc, nhưng do số lượng người đi du lịch lớn, Trung Quốc đã vượt lên chiếm vị trí thứ 5 trong danh sách 10 quốc gia chi tiêu nhiều nhất cho dịch vụ du lịch ở nước ngoài. Vị trí của Trung Quốc và Liên Xô trong bảng của 10 nước dẫn đầu chi tiêu ngành du lịch (WTO-HL2008) biểu hiện cho xu hướng gia tăng nguồn khách du lịch đến từ các quốc gia đang phát triển. Theo tài liệu cập nhật tháng 6/2009 của WTO, các nước dẫn đầu chi tiêu du lịch năm 2008 hầu như không thay đổi (WTB-06/2009).
  8. Xu hướng phát triển Trong bức tranh bao quát, xu hướng phát triển của ngành du lịch có thể tóm lược theo biểu đồ dưới đây. Các dữ kiện từ biểu đồ cho thấy, từ 1995 đến 2020, mức tăng trưởng tại các quốc gia phát triển đạt mức bão hòa, chậm dần. Tỷ phần khách quốc tế của khu vực dẫn đầu Châu Âu giảm từ 59.8% (1995) xuống 45.9% (2020), Châu Mỹ từ 19.3% xuống 18.1%. Trong khi đó tỷ phần từ các khu vực các nước đang phát triển tiếp tục tăng dần, với tỷ phần của Châu Á - Thái Bình Dương trong cùng giai đoạn tăng từ 15.1% lên 26%. (WTO-HL2008). Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và dịch H1N1, mức tăng trưởng của ngành du lịch trong đoản kỳ sẽ bị chậm lại so với dự báo trên. Mức tăng trưởng sáu tháng cuối năm 2008 mang số âm -1%, và -8% trong bốn tháng đầu năm 2009 (WTB-06/2009).
  9. 2. Vị thế ngành du lịch Việt Nam : Ngành du lịch non trẻ Việt Nam được ghi nhận tăng trưởng khá nhanh trong những năm gần đây. Vậy quá trình và vị thế của ngành trong nền kinh tế Việt Nam và trong khu vực hiện như thế nào? Quá trình phát triển Hoạt động của ngành du lịch non trẻ Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) ghi nhận từ năm 1995, bắt đầu với con số khiêm tốn 1.35 triệu khách quốc tế, tăng lên 4.2 triệu du khách với doanh thu 3.5 tỷ USD vào năm 2008 (6). Trong tiến trình phát triển này, số lượng chỉ bị suy giảm vào năm 1998, thời điểm xảy do cuộc khủng kinh tế Châu Á.
  10. Theo xu hướng chung trên thế giới, phần lớn nguồn khách quốc tế đến Việt Nam từ các quốc gia trong vùng. Bảng tổng kết dưới đây bao gồm các nước có lượng khách du lịch đến Việt Nam trên 100 ngàn năm 2007. Hoa Kỳ là một ngoại lệ của các quốc gia ngoài khu vực có số lượng khách quốc tế lớn đứng hàng thứ tư, do số lượng Việt kiều chiếm tỷ lệ quan trọng trên tổng số du khách đến từ quốc gia này (7). Mức tăng trưởng trong thập niên qua của ngành du lịch khá cao. Việt Nam được xếp vào danh sách “Các điểm đến mới hàng đầu thế giới giai đoạn 1995-2004“ (8), và là một trong số các nước có mức tăng trưởng cao của Châu Á - Thái Bình Dương, vốn là khu vực có mức tăng trưởng ngành du
  11. lịch cao hơn hầu hết các khu vực khác trên thế giới. Triển vọng phát triển của ngành du lịch Việt Nam được đánh giá là khả quan, theo như dự báo của WEF cho giai đoạn 2009-2018 (10). Tuy nhiên, vì dự báo này được soạn thảo vào đầu năm 2008, khi cuộc khủng hoảng kinh tế giới chưa thực sự khởi đầu, do đó, mức tăng truởng sẽ thấp hơn các số liệu trong bảng dưới đây. Vị thế của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc gia Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam yếu kém và thiếu ổn định, với mức thâm hụt 12 % GDP năm 2008 (11), do lệ thuộc nặng nề vào nguồn
  12. xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, và vì sự thâm hụt của cán cân thương mại. Sự thâm hụt này được bù đắp bằng các nguồn ngoại thu khác, trong đó có du lịch, hiện đang bị đe dọa bởi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Biểu đồ dưới đây cho thấy được sự đóng góp đáng kể của nguồn thu nhập du lịch vào sự quân bình của cán cân thanh toán. Cán cân thanh toán quốc tế năm 2008 (tỷ USD) Nguồn: do tác giả tự lập (12) Từ góc độ khác, vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam còn biểu hiện qua tỷ phần doanh thu của ngành trên tổng sản lượng quốc gia (GDP) và tỷ lệ số lượng lao động hoạt động trong ngành trên tổng lực lượng lao động của cả nước.
  13. Vị thế ngành du lịch Viêt Nam trong khu vực . Mặc dù đạt được mức tăng trưởng khá cao, số liệu về tỷ lệ lượng du khách đến của mỗi nước trên tổng số khách đến trong khu vực cho thấy thành quả của ngành du lịch Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, đặc biệt so sánh với hai nước láng giềng Thái Lan và Malaysia - là những quốc gia có lợi tức trung bình, đối thủ cạnh tranh lớn, và cũng là những đối tượng Việt Nam muốn bắt kịp trong trung và dài hạn của những thập niên tới.
  14. Tính theo tỷ phần doanh thu của mỗi quốc gia trên tổng thu của ngành du lịch trong khu vực, vị trí của ngành du lịch Việt Nam còn thấp hơn. Có thể lý giải sự tụt hạng này, một phần nào đó do giá cả của Việt Nam thấp, song quan trọng hơn nữa là những mặt hạn chế của các dịch vụ du lịch về giải trí và mua sắm. Khi so sánh hai biểu đồ về tỷ phần lượng khách quốc tế và doanh thu trong vùng trên đây, có thể lấy Philippines như một trường hợp điển hình đáng lưu ý. Nhờ thu nhập bình quân từ mỗi du khách cao hơn, doanh thu của Phillippines đã vượt Việt Nam đáng kể (2.2% - 1.8%), mặc dù lượng khách quốc tế của nước này thấp hơn Việt Nam khá nhiều (1.7% - 2.3%).
  15. Nguồn: do tác giả tự lập từ tài liệu WNWTO (15) (1) The Travel & Tourism Competitiveness Report 2009 - Managing in a Time of Turbulence TTCI 2009 - p. 3 The World Travel & Tourism Council (WTTC) estimates that, from direct and indirect activities combined, the T&T sector now accounts for 9.9 percent of global GDP, 10.9 percent of world exports, and 9.4 percent of world investment. (2) UNWTO Tourism Highlights, Edition 2008 WTO-HL2008 (3) Global Tourism drives history's greatest shift of wealth from rich to poor - Counterpart (4) UN World Tourism Barometer - January 2009 - Volume 7, Issue 1 WTB-01/2009 (5) UN World Tourism Barometer - January 2009 - Volume 7, Issue 2 WTB-06/2009
  16. (6) TTCI p. 376 (7) Khách quốc tế đến Việt Nam tăng "kép" – VnEconomy - Dương Ngọc (8) World's Top Emerging Tourism Destinations for period 1995-2004 - UNWTO (9) WTO-HL2008 (10) TTCI - Tổng hợp từ trang County/Economy Profiles (11) IMF Statements at Donor Meetings (12) FDI thực hiện ròng sau khi trừ phần đầu tư trong nước được uớc tính dựa con số chính thức của Việt Nam 11.5 tỷ USD và tỷ lệ chênh lệch giữa hai con số của UNCTAD & Việt Nam năm 2007. ODA giải ngân và kiều hối – VNEconomy. Du lịch – WEF p.376. Nhập siêu – VNEconomy. FII (đầu tư nước ngoài gián tiếp) ước tính dựa vào vốn gián tiếp tháng 2/2008 – Kinh tế Sài Gòn và vốn gián tiếp đầu năm 2009 – Lao Động (13) TCCI - Tổng hợp từ trang County/Economy Profiles (14) Tổng hợp từ WTO-HL2008(15) Tổng hợp từ WTO-HL2008 Phần II: Năng lực cạnh tranh và văn hóa du lịch Các công trình nghiên cứu được thực hiện một cách khoa học và qui mô trên thế giới có thể giúp việc thẩm định các vấn đề kinh tế của Việt Nam được khách quan và thấu đáo hơn. Cuộc điều tra “Chỉ số cạnh tranh du lịch năm 2009” (Travel & Tourism Competitiveness Index - TTCI 2009) do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) thực hiện hàng năm, đánh giá năng lực cạnh tranh ngành du lịch của 133 quốc gia là tài liệu rất hữu ích cho việc tìm hiểu năng lực và tiềm năng của ngành du lịch Việt Nam (1). Bên cạnh phương diện kinh tế, hoạt động du lịch còn thể hiện nét văn hóa và văn minh của một xứ sở, vì thế cũng là khía cạnh không thể không đề cập đến khi phân tích và đánh giá ngành du lịch Việt Nam.
  17. II. Năng lực Cạnh tranh và Văn hóa Du lịch: 1. Năng lực Cạnh tranh: Kết quả của cuộc điều tra TTCI2009 cho thấy vị thứ chỉ số cạnh tranh ngành du lịch Việt nam trên thế giới thây đổi không đáng kể trong ba năm qua (84/124, 96/130, 89/133). Ở phạm vi khu vực Châu Á Thái Bình Dương, vị thứ về chỉ số cạnh tranh của Việt Nam phản ảnh khá trung thực vị trí kinh tế trong khu vực được trình bày ở phần I. Vị thế kinh tế và năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam (cũng như trên nhiều địa hạt kinh tế khác) hiện có thể so sánh với các nước có nền kinh tế chậm phát triển trong vùng như Philippines và Indonesia, nhưng vẫn ở vị trí thấp trong bức tranh bao quát của nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Cuộc điều tra của WEF được thực hiện trên ba lãnh vực chính của ngành du lịch: Nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa và nhân lực – cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh – Khuôn khổ luật định. Ba lãnh vực này bao gồm 14 hạng mục chính, và các hạng mục chính được xây dựng trên 70 hạng
  18. mục phụ thuộc. Trong khuôn khổ của bài viết, chúng tôi chú trọng vào các hạng mục quan trọng nhất, được đề cập nhiều trong các phân tích của tài liệu TTCI2009. Các quốc gia được chọn lựa, so sánh và phân tích phản ảnh mối tương quan cạnh tranh và đại diện cho các nền kinh tế có trình độ phát triễn khác nhau trong khu vực. 1.1 Nguồn Tài nguyên Thiên nhiên, Văn hóa và Nhân lực ( thứ hạng 76/133 ): Nguồn tài nguyên thiên nhiên và nét văn hóa đặc sắc, đặc thù của mỗi dân tộc là một trong các yếu tố hàng đầu thu hút du khách quốc tế. Nguồn nhân lực xác định chất lượng dịch vụ cung ứng. Và Sự yêu thích và thái độ cởi mở của xã hội đối với hoạt động du lịch và khách quốc tế ảnh hưởng không nhỏ đến lượng du khách viếng thăm. Nguồn tài nguyên và nhân lực là địa hạt ít chịu ảnh hưởng bởi trình độ phát triễn của mỗi quốc gia, do đó, có thể là lợi thế của các quốc gia đang phát triển như biểu đồ cho thấy. Trung Quốc và Malaysia chẳng hạn là quốc gia đang phát triển, còn thu kém xa các nước phát triển trên nhiều phương diện, song đã đạt được vị thứ khá cao: 12 và 14 trên 133 quốc gia.
  19. Vị thứ của hạng mục nguồn tài nguyên nhiên của Việt Nam (52/133) tổng hợp kết quả bảng xếp hạng của ba hạng mục phụ thuộc: số lượng các di sản thiên nhiên - thứ hạng 23, số lượng các loài động vật tìm thấy - 21, tỷ lệ diện tích các khu vực được bảo tồn về sinh thái, thiên nhiên và văn hóa trên tổng diện tích quốc gia - 101, và chất lượng môi trường thiên nhiên - 122. Sự đánh giá hạng mục nguồn tài nguyên văn hóa (68/133) dựa vào số lượng địa điểm di sản văn hóa và các công trình văn hóa phi vật thể - thứ hạng 45, tỷ lệ chỗ ngồi của các sân vận động trên dân số - 119, số hội chợ và triển lãm quốc tế tổ chức hàng năm - 47, và tỷ lệ xuất khẩu các sản phẩm mang tính sáng tạo như hàng thủ công nghệ và điêu khắc, phim ảnh, ấn bản (không có thứ hạng, có lẽ vì không đủ dữ kiện). Nguồn nhân lực của Việt Nam có vị thứ thấp hơn (82/133). Một trong hai hạng mục phụ là nguồn lao động phục vụ cho ngành du lịch, qua việc xem xét các thủ tục thu dụng và sức khoẻ của lực lượng lao động, được đánh giá tương đối khả quan với thứ hạng 45. Song, vị thứ 93 của hạng mục phụ thứ hai thẩm định chất lượng ngành giáo dục và đào tạo thể hiện mặt yếu kém của nền giáo dục Việt Nam trong cộng đồng thế giới. Hạng mục thứ tư không kém phần quan trọng là Sự yêu thích ngành du lịch đo lường độ mở của xã hội đối du lịch và du khách quốc tế (81/133). Sự đánh giá của hạng mục này dựa vào tỷ lệ chi tiêu của dân chúng đối với dịch vụ du lịch và thu nhập từ khách quốc tế trên GDP – thứ hạng 66, thái độ của dân chúng đối với khách quốc tế - 92, và việc các doanh nhân trong nước có sẵn sàng giới thiệu các đối tác nước ngoài đi du lịch sau chuyến
  20. công tác - 93. Tóm lại, Kết quả cuộc điều tra trên các hạng mục chi tiết của lãnh vực tài nguyên và nhân lực của ngành du lịch Việt nam cho thấy nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hoá, và nhân lực tương đối phong phú qua số lượng của các di sản thiên nhiên, di sản văn hoá, các loài động vật, và nguồn nhân lực. Song, thế mạnh này đã chưa được phát huy do những hạn chế trong việc bảo tồn và phát triễn nguồn tài nguyên, môi trường, sự yếu kém về mặc đào tạo nhân lực, và độ mở của xã hội đối với hoạt động du lịch và khách quốc tế. Tuy là lãnh vực đạt vị thứ khả quan nhất trong ba địa hạt nghiên cứu, Việt Nam đang đứng sau khá xa các đối thủ cạnh tranh trong vùng: sau Philippines sáu bậc, Indonesia 36 bậc, Singapore 53, Thailand 57, Malaysia 62, China 64, và Australia 73. 1.2 Cơ sở Hạ tầng và Môi trường Kinh doanh (Thứ hạng 85/133): Khác với lãnh vực tài nguyên và nhân lực, cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh của ngành du lịch tùy thuộc khá nhiều vào trình độ phát triển của mỗi nước. Đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nó vừa là lợi thế, vì giá cả là một trong những yếu tố quan trọng, song cũng vừa là yếu điểm do tình trạng yếu kém của cơ sở vật chất, phương tiện di chuyển và thông tin của ngành du lịch.
nguon tai.lieu . vn