Xem mẫu

Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (1), 2017

NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Ngô Ánh Hồng, Hoàng Trâm Anh*, Nguyễn Như Đạt,
Lê Thị Uyên Linh, Ngô Bình Dương
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
*Tác giả liên lạc: htramanh@gmail.com
(Ngày nhận bài: 06/03/2017; Ngày duyệt đăng: 08/05/2017)
TÓM TẮT
Bình đẳng giới là vấn đề mang tính toàn cầu và được đề cập t ừ thế kỷ XV. Tuy nhiên, từ
nhận thức đến hành động vẫn là một khoảng cách không nhỏ. Dù Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm, nhưng bất bình đẳng giới vẫn đang tồn tại trong xã hội. Một trong các
nguyên nhân sâu xa của vấn đề này chính là ở yếu tố văn hóa. Sinh viên trên địa bàn Hà
Nội đế n từ các vùng miề n trong cả nước. Họ là đối tượng sẽ bước vào hôn nhân, môi
trường công tác, và các hoạt động xã hội nên có vai trò quyết định thực hiện bình đẳng
giớ i. Do ít chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo nên nhận thức của sinh viên về vấn đề
này có nhiều thay đổi tích cực. Từ việc khảo sát lấy ý kiế n đại diện sinh viên 4 trường đại
học, nhóm nghiên cứu mong muốn đưa t ư tưởng bình đẳng giới đến những người được
phỏng vấn, đồng thời bước đầu đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của
sinh viên về vấn đề này.
Từ khóa: Bình đẳng giới, sinh viên, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
ENHANCE THE STUDENT'S AWARENESS OF GENDER EQUALITY
Ngo Anh Hong, Hoang Tram Anh*, Nguyen Nhu Dat, Le Thi Uyen Linh, Ngo Binh
Duong Hanoi University Of Culture *Corresponding Author: htramanh@gmail.com
ABSTRACT
Gender equality is a global problem and is mentioned in the XV Century. However, from
awareness to action is still a significant gap. Although the Party and State always
interested but gender inequality still exists in society. One of the root causes of this
problem is the cultural factor. Students in Hanoi came from all regions of the country.
They are objects will enter the marriage, work environment, and social activities so they
should be implemented decisive role of gender equality. Because the students are less
influenced by Confucianism, their awareness of this issue has many positive changes.
From the opinion survey represents 4 college students, my team wants to bring gender
equality ideology to those who were interviewed, at the same time initially proposed some
measures to raise the students’s awareness of this issue. Keywords: Gender equality,
student, Hanoi University Of Culture.
TỔNG QUAN
Trong nhi ều thế kỷ, s ự bất bình đẳng giới
đã bó hẹp vai trò của ngườ i phụ nữ khiến
họ mất đi rất nhiều quyền con người cơ bản.
Trải qua hàng trăm năm nhen nhóm và đấu
tranh với ba cột mốc quan trọng gồm Công
ước CEDAW (1979), Cương lĩnh hành
động Bắc Kinh (1995) và

1

Tuyên bố Thiên niên kỷ (2000) giúp bình
đẳng giới chính thức được toàn cầu công
nhận. Hiế n pháp đầ u tiên của nước Việt
Nam dân chủ C ộng hòa năm 1946 cũng thể
hiện rất rõ quan điểm nhất quán, xuyên suốt
về thúc đẩy bình đẳng giới.
Dù đạt được nhiều thành tựu như ng không
thể bỏ qua một thực tế rằng vấn đề

Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (1), 2017

bình đẳng giới ở Việ t Nam vẫn còn rất
nhiều thách thức. Với nền tảng là tri thức
khoa học, thanh niên nói chung và sinh viên
nói riêng là chủ nhân tương lai của đất nước
sẽ trở thành lực lượng quyết định trong
công cuộc thúc đẩy bình đẳng giới, xóa bỏ
định kiến giới.
Việc nghiên cứu về bình đẳng giới nhen
nhóm từ thế kỷ XV bởi nhà văn người Pháp
Christine De Pisan. Từ thế kỷ XVII
– XVIII, nước Anh ngày càng xuất hiện
nhiều công trình khoa học về nữ quyền và
giới mà tiêu biểu là cuốn “A vindication of
the rights of women” (Một sự bênh vực cho
quyền của phụ nữ) của tác giả Mary
Wollstonecraft (1759 - 1797) xuất bản năm
1792, hay cuốn “The subjection of women”
(Sự áp bức phụ nữ) của John Stuart Mill và
vợ ông là Harriet Taylor xuất bản năm 1896
là sự tranh luận theo hướng tự do cổ điển
cho quyền bình đẳng phụ nữ. Đến cuối thế
kỷ XX, thế giới ngày càng có nhiều công
trình nghiên cứu về giới ở mọi góc độ và
khía cạnh khác nhau, phong phú về thể loại,
đa dạng về nội dung như “Feminist and anti
feminist perspectives” (Quan điểm về phụ
nữ và chống nữ quyền) của Janet Sayer,
cuốn “Tương lai của gia đình” do các Giáo
sư, tiến sĩ xã hội học Charles L.Jones,
Lorne Tepperman, Susannah J.Wilson biên
soạn,...
Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước không
ngừng hoàn thiện khung luật pháp, chính
sách về quyền bình đẳng giới như: Luật
bình đẳng giới, Luật hôn nhân và gia
đình,... Các công trình nghiên cứu có thể kể
đến cuốn “Phụ nữ Việt Nam qua các thời
đại” của nhà dân tộc học Lê Thị Nhâm
Tuyết xuất bản lần đầu năm 1972. Tác
phẩm được xem là công trình khoa học đầu
tiên ở Việt Nam ghi dấu ấn quan trọng, khởi
đầu cho lĩnh vực nghiên cứu phụ nữ, nghiên
cứu giới và nó đã gây được tiếng vang trong
giới học giả và công chúng.
Năm 2011, Trung tâm nghiên cứu giới, gia
đình và môi trường trong phát triển

2

(CGFED) xuất bả n cuốn sách “Đặ c thù
giới ở Việt Nam và bản sắc dân t ộc”. Cuốn
sách ra đời nhằm mục đích tập hợp lại một
cách hệ thống những tác phẩm nghiên cứu
của nhà khoa học hàng đầu về nghiên cứu
phụ nữ và giới ở Việt Nam.
Ngoài các tác phẩm trên còn nhiều công
trình, luận văn, luận án nghiên cứ u như:
“Bình đẳng giới qua quảng cáo tuyển dụng
trên báo in” do Viện nghiên cứu kinh tế, xã
hội và môi trường công bố năm 2010; cuốn
“Bình đẳng giới, kỹ năng sống và các quyền
cơ bản trong cuộc sống và tại nơi làm vi ệc”
của nhóm tác giả Trần Thị Vân Anh, Đặng
Bích Thủy, Hồng Lê ra mắt năm 2007;
“Báo cáo đánh giá về nghề nghiệp và trả
công giữa lao động nam và nữ cho một
công việc ngang nhau” c ủa nhiều tác giả
nghiên cứu xuất hiện năm 2011,...
Thông qua phương pháp phân tích tổng hợp
tài liệ u, đặ c biệt là phương pháp điều tra
xã hội học, khả o sát lấy ý kiế n từ sinh viên
của 4 trường đại học ở Hà Nội, đại diện cho
các nhóm ngành về bình đẳng giới, đề tài sẽ
đưa ra một số khuyến nghị góp phần nâng
cao nhận thức của sinh viên về vấn đề này.
SINH VIÊN VÀ VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG
GIỚI
Cơ sở lý luận về bình đẳng giới
Luật Bình đẳng giới được Quốc hội nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩ a Việt Nam khoá
XII thông qua vào ngày 29 tháng 11 năm
2006 và có hiệu lực thi hành kể t ừ ngày 01
tháng 7 n ăm 2007. Tại chương 1 Điều 5,
Luật đưa ra gi ải thích thuật ngữ bình đẳng
giới và một số khái niệm liên quan như giới,
giới tính, bình đẳng giới, định kiến giới,
phân biệt đối xử về giới, chỉ số phát triển
giới (GDI),...
Theo luật quy đị nh, bình đẳng giới là việc
nam, nữ có v ị trí, vai trò ngang nhau,
được tạo đi ều kiện và cơ hội phát huy
năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ

Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (1), 2017

hưởng như nhau về thành quả của sự phát
triển đó.
Bình đẳng giới được thể hiện qua 8 lĩnh vực
chủ yếu và được trình bày rõ tại Chương II
của Luật Bình đẳng giới. Đó là việc nam
giới và nữ giới có quyề n lợi, nghĩ a vụ, và
cơ hội phát tri ển bình đẳng như nhau về
chính trị , kinh tế, lao động, giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, vă n hóa và thể
dục thể thao, y tế, gia đình.
Trong những nă m qua, quán triệt sâu sắc
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và
Nhà nước ta đã vận dụng và phát triển một
cách toàn diện tư tưởng của Người về vấn
đề bình đẳng giới trong công cuộc xây dựng
đất nước.
Ngày nay, quan điểm chỉ đạo c ủa Đảng,
Nhà nước về việc thực hiện tốt mục tiêu
bình đẳng giới và quản lý vấn đề này chính
là việc cần tập trung thực hiện tốt một số n
ội dung như xây dự ng và hoàn thiện các
quy định pháp luật, tă ng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình
đẳng giới đến các tầng lớp nhân dân.
Đặc điểm tâm lý lứa tuổi của sinh viên
Lứa tuổi sinh viên có nhữ ng nét tâm lý
điển hình. Đây là thế mạnh của họ so với
các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có
tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình
cảm trí tuệ phát triển.
Đặc trưng tâm lý lứa tuổi sinh viên có một
số nét chính như dễ dàng thích nghi với cái
mới, phát triển nhận thức và t ự ý thức, phát
triển tâm lý tình cả m và có khát vọng nghề
nghiệp. Nhưng lứa tuổi sinh viên không
tránh khỏi m ột số hạn chế chung như thiếu
chín chắn trong suy nghĩ , hành động, đặc
biệt là hạn chế trong việc tiếp thu, chọn lọc
những cái mới.
Nhận thức của sinh viên về bình đẳng
giới
Nhằ m đánh giá một cách đa chi ều những
vấn đề cơ bản trong nhận thức của sinh viên
về bình đẳ ng giới, nhóm nghiên cứu đã
thiết kế một bả ng hỏi gồm 31 câu hỏi liên
quan đến nội dung đề tài. Nhóm đã

3

tiến hành khảo sát 798 sinh viên đế n từ bốn
trường đại học trên địa bàn Hà Nội đại diện
cho các khối ngành nghề khác nhau gồm
Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Mỏ - Địa
chất, Học viện Nông Nghiệp Việt Nam,
Cao đẳng nghề Bách Khoa Hà Nội.
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành xử lý thông
tin trên nền của phần mềm SPSS (viết t ắt
của Statistical Package for the Social
Sciences) là một phần mềm máy tính phục
vụ công tác phân tích thống kê. SPSS là
phần mềm thống kê được sử dụng phổ biế
n cho các nghiên cứu điều tra xã hội học và
kinh tế lượng.
Hiểu biết của sinh viên về pháp luật liên
quan đến bình đẳng giới
Nhìn chung, đối t ượng sinh viên tham gia
khả o sát đa phần bày t ỏ sự quan tâm đến
vấ n đề bình đẳng giới khi có đến 96,2% số
sinh viên trả lời biết đến bình đẳ ng giới.
Đồng thời 93,9 người trả lời đây là vấn đề
cần quan tâm.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào khảo sát, sinh
viên bộc lộ vi ệc hầ u như chưa có ý thức
chủ độ ng tìm hiểu những văn bản pháp luậ
t về bình đẳng giới như là một công cụ hỗ
trợ cho cuộc sống của bản thân và gia đình.
Trong số 798 sinh viên tham gia khảo sát,
chỉ có 12,2% biết đến cả Luật Bình đẳ ng
giới và Luật Phòng chống Bạo lực Gia đình.
Về văn bản dưới luật liên quan, hiện có
3 Nghị định: Nghị định số 70/2008/NĐCP ngày 04 tháng 6 năm 2008 của Chính
phủ, Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày
19 tháng 5 năm 2009 và Nghị định số
55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009
của Chính phủ. Số sinh viên tham gia khảo
sát biết đến cả 3 Nghị định được dẫn ra
không nhiều với 4 bạn, chiếm 0,5%.
Nhận thức của sinh viên về các quan hệ
xã hội
Cùng với xu hướng mở cửa hội nhập, sự
biến đổi trong nhận thức của sinh viên về
bình đẳng giới trong các mối quan hệ xã hội
đã biến đổi theo chiều hướng tích cực.

Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (1), 2017

Điề u đó phản ánh chân thực qua những con
số với 75,8% sinh viên tham gia khảo sát
cho rằng trong tình yêu, cả nam và nữ đều
có thể chủ động.
Quan điểm về chọn ngành, môn học cũng
có sự bi ến đổi lớn về quan niệm khi 72,8%
số sinh viên được hỏi cho rằng bất luận là
nam hay nữ miễn thích và có năng khi ếu
nhóm ngành, khối nào thì học khối đó,
không nhất thiết nam phải chọn khối ngành
tự nhiên, kỹ thuật, nữ chọn ngành xã hội và
nhân văn.
Quan điểm của sinh viên về bình đẳng giới
trong gia đình cũng tiến bộ hơn khi 79,2%
cho rằng vai trò chăm sóc gia đình là công
vi ệc không c ủa riêng ai nên cả hai vợ
chồng cùng gánh vác, chia sẻ. Về việc dạy
con học tậ p trong gia đình, 83,2% số sinh
viên tham gia khảo sát cho rằng đó là trách
nhiệm của cả hai vợ chồng.
Vấn đề đóng góp tài chính cho gia đình
cũng cho thấy tín hiệu tích cực trong nhận
thức của sinh viên với 80,3% cho rằng đó
là trách nhiệ m của cả người vợ lẫn chồng,
thay vì quan niệm người chống phải là trụ
cột tài chính như trước kia.
Mặc dù có nhiều chuyển biến tích cự c của
sinh viên trong thời gian qua về bình đẳng
giới trong các mối quan hệ, tuy nhiên, trong
một số vấn đề, đa phần sinh viên được khả
o sát có cái nhìn chưa thực sự tích cực về
bình đẳng gi ới. Tiêu biểu là vấn đề sau ly
hôn, 70,6% số người được thăm dò t ỏ thái
độ thông cảm và chia sẻ với người phụ nữ
ly hôn mặc dù họ không cần biết ly hôn bắt
nguồn từ những nguyên nhân nào. Nhưng
chỉ có 6,3% cho rằng phụ nữ sau ly hôn có
cơ hội tái hôn cao. Trong khi đó, 62,8%
thông cảm và chia sẻ với người đàn ông ly
hôn với 22,8% cho rằng đàn ông sau ly hôn
có cơ hội tái hôn cao. Đó là tỉ lệ lớn hơn rất
nhiều nếu so với phụ nữ. Với vai trò nội trợ,
31,3% người được hỏi cho rằng trách
nhiệm đó thuộc người vợ trong khi chỉ có
1,6% cho rằng vai trò đó thuộc về người
chồng. Điều này cho thấy trong một số

4

vấn đề, quan niệm bất bình đẳng giới vẫn
còn tồn tại.
Giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Để thay đổi nhận thức của sinh viên về bình
đẳng giới không phải là chuyện của riêng
cá nhân, tậ p thể nào mà cần giải pháp đồng
bộ tác động từ cả ba phía gia đình, nhà
trường và xã hội.
Tại gia đình, cha mẹ phải làm gương cho
con cái trong vấn đề bình đẳng giới thông
qua việc đối xử công bằng với các con trong
mọi việc, tâm sự, chia sẻ, nói chuyện cởi
mở về vấn đề gi ới và những tình huống
bình đẳng giới. Sự chia sẻ chân thành hòa
lẫn với tình yêu thương của những người
sống chung một mái nhà sẽ là khúc nhạc dịu
dàng và sâu l ắng hơn bất c ứ lời giảng nào,
từ t ừ ngấm sâu vào từng ngóc ngách tâm
hồn con cái.
Nhà trường không chỉ là nơi diễn ra các
hoạt động giáo dục mà còn là môi trường
hình thành nhận thức cũng như định hướng
nhân cách mỗi cá nhân. Giải pháp từ nhà
trường cần mở rộng hơn các hình thức
tuyên truyền cho phù hợp với đặc thù sinh
viên như lồng ghép vào chương trình học
tập, tuyên truyền qua mạng xã hội, qua các
câu lạc bộ cùng sở thích hay các hội thi hội
diễn.
Nhóm giải pháp tuyên truyền giáo dục từ
môi trường xã hội sẽ được cụ thể hóa trong
6 nội dung bao gồm tuyên truyền qua các
phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là
qua phim ảnh và qua hình ảnh thần tượng
của giới trẻ.
KẾT LUẬN
Phong trào chống bất bình đẳ ng giới ở Việt
Nam được đánh giá là một bức tranh sáng
màu nhưng bên cạnh đó, vẫn còn những mả
ng t ối cần khắ c phục như tình trạng bạo
lực gia đình, bạo lực giới,...
Xuất phát từ góc nhìn của sinh viên, đề tài
bước đầu đề xuất những giải pháp tuy còn
đơn giản nhưng phù hợp với điều kiện cụ
thể và mong muốn của giới trẻ.
Để bình đẳng giới đi từ những điề u luật khô
khan vào cuộc sống cần một số nhóm

Chuyên san Phát triển Khoa học và Công nghệ số 3 (1), 2017

giải pháp cụ thể kết hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội. Thứ nhất, gia đình phải là
“pháo đài” đầu tiên chống l ại bất bình đẳng
giới. Thứ hai, nhà trường ngoài chức năng
giáo dục về kiến thức khoa học cần phải có
sự định hướng về mặt tư

tưởng xã hội, đặc biệt là bình đẳng giới.
Thứ ba, bình đẳng giới không phải là
chuyện của riêng cá nhân, t ổ chức hay tập
thể mà là vấn đề đòi hỏi sự chung tay góp
sức của toàn xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
LÊ VÂN ANH (2007), Luật bình đẳng giới nâng cao vai trò và vị thế của phụ nữ trong
đời sống xã hội và gia đình, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 306, tr.30-32.
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU GIỚI VÀ XÃ HỘI (2014), Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm
lồng ghép giới vào chương trình dạy học, 26/11/2014.
LÊ NGỌC HÙNG (2006), Phân tích và lồng ghép giới trong giáo dục, Tạp chí Khoa
học về phụ nữ, số 4, tr.3-11.
NGUYỄ N THỊ LAN (2006), Xác định cha, mẹ, con dưới góc độ bình đẳng giới, Tạp
chí Luật học, số 3.
TRẦN HÀN GIANG (2014), Về một số lý thuyết nữ quyền, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ
số 1, tr.11-19.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ (2012), Quyết định Phê duyệt chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
DOÃN THỊ THUẬN (2009), Một số vấn đề về tuyên truyền bình đẳng giới trên các
phương tiện thông tin đại chúng, Tạp chí Tuyên giáo số 12, tr.51.

5

nguon tai.lieu . vn