Xem mẫu
- Nấm da, nấm móng
Ở người, nấm vào da qua các chỗ xây sát nhẹ như: vết gãi, rồi
từ đó lan từ giữa ra xung quanh thành hình tròn. Ở da đầu, nấm chui
vào sợi tóc rồi tiến dần lên. Đối với móng, thì bắt đầu từ bờ tự do hoặc
bờ bên đi vào mầm móng.
Ở người, nấm vào da qua các chỗ xây sát nhẹ như: vết gãi, rồi từ
đó lan từ giữa ra xung quanh thành hình tròn. Ở da đầu, nấm chui vào sợi
tóc rồi tiến dần lên. Đối với móng, thì bắt đầu từ bờ tự do hoặc bờ bên đi
vào mầm móng.
- Nấm vùng râu (tinea barbae): Bệnh ít gặp, thường gặp ở người làm
ruộng, chăn nuôi gia súc. Vị trí thường ở một bên cổ hoặc mặt. Có 2 hình
thái lâm sàng:
- Thương tổn mưng mủ, sâu: bệnh diễn biến chậm, có các thương tổn
mưng mủ thâm nhiễm lan rộng giống như kerion, lông rụng tại vùng tổn
thương, da xung quanh viêm tấy.
- Thương tổn bề mặt với các mụn mủ, vẩy tiết ở nang lông. Đôi khi
thấy hiện tượng tóc gãy.
Nấm vùng mặt (Tinea faciei): thương tổn da là đám đỏ da, bong vảy,
ranh giới đôi khi không rõ rệt, vì vậy chẩn đoán khó. Chẩn đoán xác định
chủ yếu dựa vào xét nghiệm soi trực tiếp nấm.
Nấm da nhẵn (Tinea corporis): gặp nhiều hơn so với nấm da đầu,
nấm da mặt, nấm vùng râu, nấm vùng tay chân và nấm bẹn. Vị trí thường
gặp ở chi trên, chi dưới và thân, thương tổn hình vòng cung có thể một
hoặc nhiều hình vòng cung, ranh giới rõ, màu hồng nhạt, khô, vẩy da,
thường có xu hướng nhạt màu ở giữa. Thương tổn thường nổi cao ở bờ, tiến
triển có xu hướng lành giữa vì vậy có tên ringworm. Thương tổn có thể lan
- rộng hình vòng cung 8-10 centimet. Thương tổn lan rộng có thể là một dấu
hiệu của bệnh AIDS.
Nấm bẹn (Tinea cruris): bệnh gặp nhiều ở nam giới khu trú ở nếp
bẹn, mặt trong đùi, gặp nhiều vào mùa nóng ẩm. Bắt đầu là những chấm đỏ
có tính chất viêm, có vẩy nhỏ, lan ra xung quanh thành mảng hình tròn, bờ
hơi nổi cao, trên bờ có mụn nước và vảy da. Dần dần các mảng nhỏ liên kết
với nhau thành mảng lớn có nhiều vòng cung , ở giữa nhạt màu và hơi xẹp
xuống.
Nấm tay và chân (Tinea of hand and feet): nấm da ở chân rất hay gặp
thường được gọi là bàn chân vận động viên. Thương tổn ban đầu là đám đỏ
da, bong vẩy da nhỏ, mỏng, đôi khi có mụn nước, nứt ở giữa và dưới ngón
chân. Bệnh gặp nhiều ở người ra mồ hôi chân nhiều hoặc người có bàn chân
bẹt, kẽ ngón khít và có thay đổi thành phần hoá học của mồ hôi .
Lâm sàng: có 4 hình thái biểu hiện:
Bong vảy: lòng bàn chân đỏ, bong vảy nhiều. Ngứa ít, thường ở một
bên, sau lan ra hai bên.
- Viêm kẽ: Xuất hiện kẽ ngón 3-4 một đường nứt giữa kẽ, da xung
quang kẽ bột và mủn, chảy nước ngứa nhiều và đau. Bệnh thường kéo dài,
đỡ về mùa đông, phát thành đợt cấp về mùa hè.
Tổ đỉa: Xuất hiện những mụn nước bằng đầu đinh ghim đến bằng hạt
đỗ, nằm sâu dưới da khó vỡ. Các mụn nước có thể liên kết thành bọng nước
lớn, vỡ ra để lại vết trợt, bề mặt lỗ chỗ. Bệnh nhân ngứa và đau nhiều.
Viêm móng: Căn nguyên gây bệnh là chủng nấm T.Mentagrophyte,
T.Rubrum.
Bệnh lang ben ( Pityriasis versicolor): thuộc nhóm bệnh nấm gây
bệnh ở lớp sừng. Bệnh xảy ra ở người tăng tiết mồ hôi và có những thay đổi
về thành phần hóa học của mồ hôi. Bệnh bắt đầu bằng những chấm hồng
nâu, hoặc trắng ở lỗ chân lông. Các chấm lớn dần lan rộng và liên kết với
nhau thành mảng, bờ nham nhở vòng vèo. Bề mặt tổn thương có vẩy da nhỏ,
cạo bong ra dễ dàng, gọi là dấu hiệu vỏ bào. Thương tổn không đau, không
ngứa hoặc ngứa ít lúc ra mồ hôi. Vị trí thường gặp ở ngực, lưng, cổ, bụng,
vùng nếp gấp, đôi khi có thể thấy ở da đầu, tay chân. Bệnh thường hay tái
phát. Sau khi khỏi để lại đám mất màu khá lâu, trông giống như bị bạch
biến. Bệnh thường gặp ở những nước nhiệt đới nóng ẩm.
- Bệnh vẩy rồng (Tinea imbricata): thuộc nhóm bệnh nấm gây bệnh ở
lớp sừng, bệnh gặp nhiều ở vùng nhiệt đới. Biểu hiện trên da không đỏ,
không viêm, thấy xuất hiện những đám hình tròn hoặc bồ dục màu nâu, bong
vảy bắt đầu từ giữa thương tổn nên bờ trong tự do còn bờ ngoài dính vào da.
Lại xuất hiện đợt bong vảy mới từ ở giữa nên nhìn thương tổn có nhiều vòng
bong vảy đồng tâm. Thương tổn lan vào các móng làm các móng dày lên và
dễ gãy. Ngứa dữ dội.
Bệnh nấm móng (Onychomycosis): Nấm móng là nhiễm trùng ở
móng do nấm, chiếm tới 30% các chẩn đoán bệnh nấm nông.
Nấm móng do Trichophyton rubrum thường bắt đầu chậm và âm ỉ, có
thể một hoặc nhiều móng, có thể nấm móng đơn thuần hoặc phối hợp với
thương tổn ở tay, chân. Bắt đầu với chấm trắng ở bờ tự do của móng, dần
dần móng dày lên, mủn, vàng bẩn, dễ gãy, bên dưới móng có một khối sừng
mủn.
Có 3 hình thái thương tổn móng:
+ Móng dày sừng: móng dày sừng, dưới móng có khối sừng mủn.
+ Móng teo: móng bị mủn, mòn dần từ bờ tự do đến chân móng.
- + Hình thái bình thường: móng bình thường có màu trắng hoặc màu
vàng.
Nấm móng do Trichophyton mentagrophyte cũng bắt đầu bằng chấm,
đường trắng từ bờ tự do hoặc bờ bên. Dần dần móng cũng dày lên và trở
thành màu vàng bẩn dễ mủn.
Nấm móng do Trichophyton violaceum cũng bắt đầu từ bề mặt móng,
không có biểu hiện viêm quanh móng .
Thương tổn móng gây nên bởi C.albicans thường biểu hiện viêm
quanh móng. Bệnh bắt đầu từ gốc móng, đôi khi có mủ ở gốc móng. Lớp da
xung quanh móng đỏ , sưng nề, đau nhức. Móng trở nên đen, sần sùi, tách
khỏi bàn móng. Viêm quanh móng do Candida thường gặp ở móng tay, ít
gặp ở móng chân. Bệnh gặp nhiều ở người làm nghề nội trợ, làm đậu phụ.
Điều trị
- Thuốc bôi ngoài da: Nếu bệnh nhân chỉ có 1 hoặc 2 tổn thương, chỉ
cần dùng thuốc bôi chống nấm tại chỗ như dung dịch màu Castelani,
- salicylic 5%, ketoconazole (Nizoral), terbinafine (Lamisil). Thuốc bôi dạng
kem hiệu quả hơn dạng dung dịch.
- Thuốc uống: Sử dụng thuốc chống nấm toàn thân dựa trên 3 tiêu
chuẩn
+ Phổ tác dụng của thuốc chống nấm.
+ Dược động học của thuốc.
+ Biểu hiện lâm sàng.
Ngoài ra phải xem xét tính an toàn, tính chịu thuốc và giá thành.
nguon tai.lieu . vn