Xem mẫu

  1. Mỹ thuật thời Lý I. Tình hình xã hội thời lý 1. Sự trưởng thành của ý thức dân tộc Một nghìn năm Bắc thuộc cũng là nghìn năm chống Bắc thuộc. Cuối thế kỷ III trước CN nước Âu Lạc bị xâm lược và đô hộ, người Việt cổ bị cưỡng bức trực tiếp nhận văn hoá phương Bắc, song với truyền thống Đông Sơn, ý thức dân tộc không những không bị xoá bỏ mà còn cố kết mọi người trong các làng quê. Trên cơ sở đó, từ đầu thế kỷ thứ nhất Hai Bà Trưng đã đàon kết được nhân dân cả nước, nhanh chóng đánh thắng quan Hán, " đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Nhà nước độc lập đầu tiên ấy tuy chỉ đững vững có nghìn ngày ( 40 – 43) song đã khẳng định sự hình thành và phát triển bước đầu của ý thức dân tộc. Trong giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 2, bên cạnh quý tộc Việt, một số quý tộc Hán sang ta nhiều đời đã Việt hoá. Các hào trưởng này ngày càng có uy thế , thực chất họ là các thủ lĩnh địa phương, giữ vai trò lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập. Đồng thời, phất giáo vào nước ta một cách hoà bình, lại hoà nhập với tín ngưỡng bản địa, truyền bá tư tưởng yêu nước thương yêu đùm bọc nhau, trở thành ngọn cờ tập hợp mọi người nổi dậy chống cường quyền. Lý Bí đã phát động cuộc khởi nghĩa từ một ngôi chùa, nhanh chóng thắng lợi, lập nên nhà nước Vạn Xuân vào năm biểu hiện sức bật mạnh mẽ của dân tộc. Nước Vạn Xuân tồn tại trong tình hình mâu thuẫn nội và ngoại đều rất phức tạp, song đã kéo dài được gần 60 năm ( 544 – 603), khẳng định sự gắn bó cảu ý thức
  2. dân tộc với độc lập và tự do. Sau đây, lịch sử lại thử thách dân tộc ta nhiều lần nứa. ý chí thà hy sinh chứ không chịu làm nô lệ đã dấy lên nhiều phong trào đấu tranh cả vũ trang và chính trị, bác bỏ dưới nhiều hình thức sự thống trị của phong kiến phương Bắc trên đất nước ta. Sau những thắng lợi tạm thời ở các thế kỷ VII – VIII – IX, từ đầu thế kỷ X trên thực tế nhân dân ta đã giành được quyền tự chủ. Thế rồi, với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938, Ngô Quyền đã chính thức giương cao ngọn cờ độc lập, chấm dứt hẳn đêm trường Bắc thuộc. Độc lập đã có, nhưng chưa thoát ly được tính chất địa phương mà các thủ lĩnh muốn hùng cứ, nên ngay sau khi Ngô Quyền mất ( 944) đất nước lại rơi vào tình trạng hỗn loạn mười hai sứ quân. Phất cao ngọn cờ thống nhất, năm 968 Đinh Bộ Lĩnh thu giang sơn về một mỗi, lập nên nước Đại Cồ Việt với kinh đô Hoa Lư. Độc lập và thống nhất đã xác lập song đều bị đe doạ, sau khi Đinh Tiên Hoàng bị ám hại, nhà Tống lại lăm le xâm lược. Lê Hoàn vừa được suy tôn lên ngôi hoàng đế đã tổ chức ngay cuộc kháng chiến và giành thắng lợi rực rỡ vào mùa xuân năm 981, gây niềm tự hoà dân tộc và niềm tin chắc chắn ở tiền đồ đất nước. Nhưng sau khi Lê Đại Hành mất, nội tình triều đình lục đục và mất niềm tin trong nhân dân thì tầng lớp trí thức xã hội đã tạo dư luận để chuyển chính quyền hoà bình sang nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng đất nước đàng hoàng ngay sau khi lên ngôi đã chuyển kinh đô từ vùng Hoa Lư thủ hiếm ra giữa đồng bằng lấy tên là Thăng Long để " mưu toan nghiệp lớn". Năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt thể hiện ý thức tự tôn, bình đẳng với Đại
  3. Tống khi phát hiện âm mưu xâm lược của quân Tống, Lý Thường Kiệt đã hành động tự vệ tích cực là tấn công triệt phá hậu cần địch rồi rút về phòng ngự ở tư thế chiến thắng, sau đó ngay trong chiến đấu đã dõng dạc tuyên bố " Nam quốc sơn hà Nam đế cư" khẳng định chủ quyền đất nước với quyết tâm của dân tộc bảo vệ chủ quyền ấy, có giá trị là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên cảu dân tộc. Thắng lợi quân sự rồi, trên cơ sở trưởng thành của dân tộc về mọi mặt, nhà Lý tiếp tục đấu tranh ngoại giao đòi độc lập cả về pháp lý : Vua Lý Anh Tông không chịu nhận chức " Giao chỉ quận vương", buộc nhà Tống thừa nhận là " An Nam quốc vương", cũng có nghĩa phải công nhận nước ta là một vương quốc độc lập. Như vậy ngay trong buổi đầu Bắc thuộc, ý thức dân tộc đã hình thành để luôn trườn khỏi mọi sự đồng hoá văn hoá và dân tộc, từng bước đấu tranh với nhịp điệu ngày càng dồn dập, đi từ thắng lợi tạm thời đến thắng lợi dứt khoát. ý thức dân tộc lại đòi hỏi Độc lập phải gắn với thống nhất, khắc phục mọi trở lực bên trong và từ bên ngoài, ý thức áy ngày càng trưởng thành càng đòi hỏi nhà nước luôn đặt dân tộc ở thế phát triển, thế chủ động, được bình đẳng cả trong thực tế và pháp lý với quốc gia và mọi dân tộc khác. Đó là chân lý không thay đổi, cũng là cơ sở để xây dựng đất nước cường thịnh. 2. Sự cường thịnh của nước Đại Việt. Trong ngàn năm Bắc thuộc, sức sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Những thời gian độc lập ngắn ngủi trước thế kỷ X luôn bị phương Bắc đe doạ. Các nhà nước Ngô - Đinh – Tiền Lê quá ngắn ngủi, xã hội chưa ổn định, chính quyền trung ương chưa đủ sức với tới cả nước, luôn tập
  4. trung cho sự nghiệp giữ nước nên công cuộc dựng nước chưa làm được bao nhiêu. Sang thế kỷ XI với vương triều Lý, nhà nước trung ương tập quyền hoàn toàn thắng thế, liên tục phá Tống bình Chiêm, đưa uy tín nước Đại Việt lên đỉnh cao. Đối với dân tộc, nhà Lý đóng vai trò rất tích cực, có nhiều chính sách toàn diện để xây dựng một quốc gia độc lập vững chắc. Chính sách khuyến nông được đặc biệt chú ý như giải phóng nô tì, gửi quân đội vào nhà nông ( ngự binh ư nông), bắt người đào cong về quê nhận ruộng sản xuất, tổ chức khẩn hoang, xây dựng công trình thuỷ lợi, chăm sóc trâu bò để có sức kéo. Chính vua Lý Thái Tông đã trực tiếp cày tịnh điền " để có xôi gạo cũng tổ tiên và nêu gương cho thiên hạ", thân đi xem xét thuỷ lợi .... Do đó mặc dầu kỹ thuật nông nghiệp còn thấp kém, song nông nghiệp phát triển khá mạnh, sử cũ ghi nhiều lần được mùa to, lại còn những hiện tượng lạ như mua ra thóc, mua ra gạo, lúa 9 bông, cau chín 9 buồng và chim thú quý xuất hiện liêu tục đều biều hiện xã hội thái bình thịnh trị. Trái lại, về việc mất mùa đói kém, triều Lý chỉ xảy ra có 4 lần và đều thuộc vào giai đoạn cuối ( các năm 1156, 1181, 1199, và 1208). Chẳng những vào những năm đại hạn hay lụt lội, mà cả những năm được mùa lớn, nhà nước cũng xá tô thuế cho nhân dân, có khi tới 3 năm " để yên ủi sự lặn lội khó nhọc". Chính vì thế nông dân rất yên tâm làm ăn, không có yêu cầu khởi nghĩa, một vài cuộc nổi dậy là của các dân tộc ít người và ở miền biên viễn. Thủ công nghiệp cũng có nhiều tiến bộ ... Các nghề gắn với xây dựng như làm gạch, ngói và chạm khắc gỗ, đá phát triển mạnh. Đồ gốm đạt
  5. tới trình độ cao, nhất là gốm men ngọc. Công nghiệp khai thác thiếc, bạc, đồng, vàng ... và kỹ thuật đúc đồng đạt được nhiều thành tựu. Theo thư tịch và truyền thuyết, thời Lý có bốn khí vật cực lớn ( tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, phật Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh hay Phả Lại) đều được đúc bằng đồng. Với sự phát triển của nghề dệt, các vua Lý thưởng tỏ ý không dùng gấm vóc của Tống nứa. Nhiều sản phẩm thủ công đã trở thành hàng hoá. Nông thôn khắp nơi có chợ, kinh đô Thăng Long phố xã tấp nập. Ngoại thương cũng được mở rộng, lập cảng Vân Đồn để đón tàu buồn các nước. Và nhờ đó Việt Nam được tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau, càng có điều kiện tiếp nhận ảnh hưởng bên ngoài để làm giàu văn hoá của mình. Cơ sở kinh tế ổn định là nền tảng cho sự phát triển xã hội. Với nền kinh tế lúa nước, người nông dân luôn phải " trông trời", thì trong thời Bắc thuộc đã hoà nhập tín ngưỡng thờ các hiện tượng thiên nhiên với phật giáo, tạo ra một hệ thống các chùa " Tự Tháp". Cho đến thời lý, trong phật giáo ngoài hai dòng Thiền đã có là Tì NI Đa Lưu Chi và Quang Bích, giờ thêm dòng Thảo Đường gắn kết được cả nho giáo với phật giáo, như vậy vừa tập hợp được toàn dân vừa phục vụ được sự quản lý của triều đình. Vì thế nhà Lý ngay từ đầu và trong suốt cả vương triều đã cho xây dựng rất nhiều chùa tháp. Bên cạnh đó, nhà Lý cũng coi trọng Nho giáo, xây Văn Miếu, lập trường Quốc Tử Giám và mở khoa thi cấp cao để đào tạo và tuyển lựa nhân tài cho bộ máy cai trị. Năm 1042 vua Lý Thái Tông cho ban hành bộ Hình Thư là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, làm cơ sở để xây dựng một thiết chế xã hội ổn định.
  6. Chính ý thức dân tộc trưởng thành đã thôi thúc xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật dân tộc đặc sắc và toàn diện. Mong muốn của toàn dân và cảu triều đình nhà Lý lại được sự cường thịnh của đất nước tạo điều kiện để biến hoài bão thành hiện thực. II. Đặc điểm mỹ thuật thời Lý 1. Nghệ thuật kiến trúc. Trên cơ sở" thức kiến trúc Đông Sơn" đã hoàn chỉnh trong thời Bắc thuộc, nhân dân ta lại tiếp thu Phật giáo và đi kèm với nó là việc xây dựng chùa tháp. Hẳn trình độ xây dựng của thợ Việt có tay nghề cao, nên thái thú Tôn Tú đã bắt hơn nghìn thợ thủ công Giao Chỉ đưa về Bắc để giúp vua Ngô xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp. Ngay khi đất nước giành được độc lập, công việc hàng đầu là phải " an cư" và cũng để thể hiện diện mạo nhà nước, nên sau khi đã định đô thì phải dựng đô. 1.1. Kiến trúc thành Thăng Long Nếu Ngô Vương Quyền mở đầu nên chính thống, để có chỗ làm việc ngay đã dùng lại kinh đo Cổ Loa vốn xây dựng từ hơn nghìn năm trước; Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước xây dựng kinh đô Hoa lư ở gần quê hương có núi sông hiểm trở, và vua Lê Đại Hành vừa thắng ngoại xâm vẫn cần đến Hoa Lư để thủ thế, thì vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng một quốc gia đàng hoàng, sau khi hỏi ý kiến và được quần chúng đồng tình, đã quyết định xây dựng kinh đô mới là Thăng Long. Kinh thành Thăng Long được khởi dựng từ mùa thu năm 1010 đến mùa xuân năm 1011 xong cơ bản, về sau được bổ xung vào năm 1029 và
  7. 1203. Với dấu tích hiện còn bờ đê và những đoạn thành cao, nối lại cho vòng thành khép kín dài trên 20km, được xây dựng ở vị trí trung tâm của đất nước nơi giữa đồng bằng, các núi sông lớn đều chầu về, dễ dàng liên hệ với cả nước bằng đường bộ hoặc bằng đường thuỷ, có thể tấn công hay phòng ngự đều thuận lợi, từng được khai thác từ đầu thời đại đồ đồng và đến thế kỷ X đã trở thành trung tâm kinh tế – văn hoá " muôn vật cực kỳ giàu tịnh đông vui". Vòng thành đất đắp trên là giới hạn hoàn bộ kinh thành cũng là phòng thành chống lụt và ngăn địch từ xa mới tới. Bốn phía có bốn ngôi đền thờ các vị thần bảo hộ cho kinh thành : phía Nam có đền Kim Liên thờ Cao Sơn đại vương là thần núi, phía Tây có đền Voi Phục thờ Linh Lang đại vương là thần sông. Các thần núi, thần sông là linh khí đất nước, và do đó Núi Sông chính là biểu hiện củaTổ Quốc. Phía Đông có đền Bạch Mã thờ thần Ngựa Trắng là biểu trưng của mặt trời, được tiếp nhận từ văn hoá ấn Độ, phía Bắc có đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trần Vũ có nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa có tài trừ ma quỷ. Bên trong phòng thành chia làm hai phần lồng nhau là Hoàng thành và khu dân cư ngăn cách bởi bức tường xây gạch, mở bốn cựa về bốn phía mang các tên nhằm cầu phúc cho dân tộc : cửa Tường Phù ở phía đông, cửa Quang Phúc ở phía tây, cửa Đại Hưng ở phía nam và cửa Diệu Đức ở phía bắc. Trong hoành thành, ngay lần mới xây dựng đầu đã có trung tâm là điện Càn Nguyên làm nơi vua coi chầu, hai bên phải trái có các điện Tập Hiền và Giảng Võ là nơi làm việc của vua. Phía sau dựng điện Long An và Long Thuỵ làm chố nhà vua nghỉ ngơi, hai bên phải trái có điện Nguyệt Minh và điện Nhật Quang.Phía sau là các cung Thuỷ Hoa
  8. và Long Thuỵ để cung nữ ở. Năm 1029 làm lại điện Càn Nguyệt và bị sét đánh, đổi tên là điện Thiên An, hai bên phải trái có điện Diên Phúc và Tuyên Đức, phía đông có điện Văn Minh và phía tây có điện QuảngVũ, hai bên có gác chuông để dân kêu việc thì đánh. Trước thềm rồng có lầu Chính Dương ở trên điện Phụng Thiên để báo giờ giấc. Đằng sau xây điện Trường Xuân, bên trên có lầu Long Đồ để ngắm cảnh. Giữa điện Thiên An và điện Trường Xuân là dựng điện Thiên Khánh để vua nghe chính sự. Đợt xây dựng năm 1203 xây một loạt cung điện ở phía tây tẩm điện, có cả ao nuôi cá dưỡng ngư nước thông với dòng sông. Lần bổ sung này, các cung điện được " chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ xưa chưa từng thấy" ( Việt sử lược). Trong Hoàng thành còn có đài Chúng Tiên lợp ngói vàng và ngói bạc, có chùa Hưng Thiên với quả chuông bằng 310 lạng vàng, chùa Vạn Tuế, chùa Chân Giáo ... và nhiều hồ ao, vườn ngự để vừa tôn cảnh trí vừa điều hoà khí hậu, đảm bảo môi trường xanh, đẹp. Ngoài Hoàng thành là nơi sinh hoạt cảu đủ tầng lớp xã hội, về cơ bản cũng quy hoạch theo bốn phía. Phía bắc có hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây) là thắng cảnh nổi tiếng với đền Đồng Cổ tổ chức hội Thề hàng năm, đền Quáng Thánh, cung Từ Hoa để công chúa cùng các cung nữ trồng dâu nuôi tằm, có các làng hoa Nhật Chiêu, Nghi Tàm, Quảng Bá cung cấp hoa cho kinh thành. Phía nam có phủ đệ của các thái tử, hoang tử và quan lại, doanh trại của quân đội, Văn miếu và trường Quốc Tử Giám, chùa Thắng nghiêm với lầu Thiên Phật và quả chuông 800 lạng bạc, đàn Xã Tắc để cầu được mưa và đàn Hoàn Khâu để tế giáo, có trường bắn để đua ngựa, bắn cung và tập võ. Phía Đông là nơi buôn bán nhộn
  9. nhịp, có hồ Lục Thuỷ với tháp Báo Thiên là đài chiến thắng, sông Hồng thường mở hội đua thuyền. Phía Tây là khu nông nghiệp, có 13 trại mới được khai thác, nhiều dinh thự trên những gò đồi, các vua Lý thường tổ chức lễ mừng sinh nhật ở đây. Khi thành Thăng Long khi xây dựng đã bám theo thuyết phong thuỷ, coi sông To Lịch là con rồng vươn mình từ sông Nhuệ, ngoi lên sông Hồng đón ánh dương và nhận nước, có rốn là núi Nùng tập trung khí thiêng, có chân đạp vào hồ Trúc Bạch và hồ Gia Ngư. Trong Hoàng thành các cung điện đều hướng tâm vào nơi vua coi chầu, phân bố cân đối hai bên. Ngoài Hoàng thành, mỗi hạng dân ( sĩ – nông – công – thuông ) có một hku vực hoạt động riêng, khu nào cũng đan xen nhiều thắng cảnh và di tích, nhiều sinh hoạt văn hoá của triều đình. 1.2. Kiến trúc tôn giáo Kiến trúc Phật giáo thời Lý được thư tịch nói đến nhiều và một số nơi còn để lại dấu tích chùa tháp, mà tháp mới là công trình trung tâm. a. Tháp phật Tháp thời Lý là đền thờ phật giáo, trong lòng có pho tượng Phật như tháp phật Tích, tháp Chương Sơn, tháp Tường Long ... Riêng tháp chùa Báo Thiên với tên Đại Thắng Tư Thiêm lại mang tư cách đài chiến thắng báo công với trời. Tháp vốn từ kiến trúc trải rộng diễn biến thành kiến trúc cao tầng bình diện vuông, tầng dưới các cửa có tượng Kim Cương đứng trấn giữ. Các tầng càng lên cao càng thu nhỏ dần, theo những hình tháp in trên gạch và tháp thời Trần thì chiều cao tháp thường bằng chu vi chân tháp. Một
  10. số tháp đã khai quật có cạnh chân dài từ 8m đến hơn 19m, như thế tháp có thể cao từ hơn 30 m đến hơn 70m, phù hợp với tháp cảu BảoThiên được sử cũ ghi là cao vài mươi trượng và văn học xây dựng thành hình tượng cột trụ chống trời. Nền móng tháp phải vững chắc, xây tường dầy và dất cấp, trong nền trộn đất sét với sỏi đá. Các tháp thờ Phật thường có số tầng lẻ biểu thị sự phát triển, dấu tích hiện vật và thư tịch cho biết thương là 5 – 7 – 9 thậm chí 13 tầng, riêng tháp đài Chiến thắng có số tầng chắn ( 12 hay 30 tầng) lại biểu thị sự ổn định. Vật liệu xây tháp rất phong phú, tuỳ tháp mà thuần gạch, thuần đá hoặc xem kẽ gạch với đá, cả đồng nữa, có cả tháp gốm men. Mặt ngoài tháp được khắc rạnh, những hình rồng, vòng sánh đức phật. Những bộ phận nhô ra được gắn tượng người chim, và kết thúc đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc. Những cây tháp này hoà vào thiên nhiên mà vẫn nổi trội, là điểm tựa tâm linh cảu mọi người. b. Chùa Thời Lý dựng nhiều chùa nhưng không ngồi nào còn đến nay, một số ít chỉ để lại nền móng ( như các chùa phật Tích, Vĩnh Phúc, chùa Dạm ở Bắc Ninh, chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng Yên, chùa Long Đọi ở Hà Nam... ), số khác chỉ sót ít di vật (như chùa Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim Hoàng và chùa Thầy ở Hà Tây, chùa Sùng Nghiêm Diêm Thánh ở Thanh Hoá), chùa Một Cột ( Hà Nội) đến thời Nguyễn đã làm lại thu nhỏ rất nhiều, chỉ có thể biết qua thư tịch và ý đồ kiểu thức kiến trúc. Nhà Lý chia các chùa trong nước làm ba loại là Đại – Trung và Tiểu danh lam, dựa trên cơ sở số ruộng và số người giúp việc nhàchùa, song dưới góc độ nghệ thuật có thể chia làm bốn loại:
  11. - Chùa dựng trên một cột: Sử cũ cho hay Thăng Long có " Lầu chuông một cột, sáu cạnh, hình hoa sen " trong điện Linh Quang, chùa Linh Xứng (Thanh Hoá) có toà sen trối lên mặt nước, trong có tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng rực rỡ". Đặc biệt chùa Một Cột tức Diên Hựu tự được bia và sử cũ miêu tả: chùa được dựng giữa hai lần hồ, có hành lang bao quanh và cầu cong đi vào, riêng cây cột đã cao tới mười trượng chạm đủ ngàn cách sen. Đỉnh cột dựng ngôi chùa mang hình bông sen là " y theo mưu mới, lại đưa vào dấu tích xưa". Dấu tích xưa là là kiểu nhà mái tròn khắc trên trống đồng Đông Sơn, là cây hương dựng trên đầu trụ, là cái chòi trên cành cây ... Trên cơ sở đó đã sáng tạo theo mưu mới là giấc mơ cảu vua Lý Thái Tông được Quan Âm dắt lên đài sen. Truyền rằng riêng cây cột đá đã cao hơn 20m, vậy ngôi chùa trên đó phải lớn và toàn cảnh rất rộng. - Chùa kiêm hành cung: loại chùa này gắn với hoàng gia, thường được nhà vua ghé thăm, để lên chùa, tổ chức cùng quân thần đối cảnh làm thơ. Được xây ở nơi thắng cảnh, gần với núi sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng thời cũng hay có tháp phật để trải rộng lại vươn cao.Hình điêu khắc ở những chùa này phổ biến là rồng để vừa gợi nguồn nước vừa tượng trưng cho vua. Tiêu biểu là các chùa Phật Tích, Tường long, Long Đọi, Chương Sơn. - Chùa gắn với cả quý tộc và dân làng : Các bà Hoàng thương tham gia đóng góp, có thể dựng ở các sườn núi ( như chùa Vĩnh phúcm chùa Tĩnh Lự ở Bắc Ninh) nhưng phổ biến là ở cánh bãi đầu làng ( như chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng Yên), mặt bằng khá rộng, điều khắc không có hình rồng, thường có tượng con sấu trên thành bậc
  12. cửa và sư tử đội toà sen mà dân gian gọi là " ông Sấm" gắn liền với việc cầu đảo cần cho nông nghiệp lứa nước. - Chùa làng: dựng ở cùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại ( như chùa Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim Hoàng ở Hà Tây), quy mô nhỏ, dấu vết còn lại hiếm hoi, không được thư tịch đề cập. Có thể lúc đầu đây chỉ là thảo am hay mái đá. Đôi khi có sự tham gia cảu quy tộc nhưng ở miền núi khuất nẻo. Kiến trúc chùa thời Lý tuy không còn, song thư tịch đương thời đôi khi có miêu tả, chẳng hạn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh cho biết : cầu nhà cong cong như cầu vồng nhô ra sau cơn mua tạnh, mái đắp uyên ương xập xoè múa lượn trong gió, nóc nhà uốn như chim trí xoè cánh, hình phạm trên đầu như phượng múa lại chầu, mái cong lấp lánh dưới nắng và hiên quanh co trước gió, hành lang bao quang tường vách sạch bụi ... Lại sắm chiếc giường cho khách lỡ đường nghỉ trọ, còn xây bếp núc giúp người phương tiện. Thực là cảnh chùa ngăn nắp, tượng phật trang nghiêm. Kết hợp dấu tích còn lại với thư tịch, ta thấy tháp thời Lý có quy mô lớn, được xây dựng ở nơi cảnh trí đẹp, kết hợp thắng cảnh ở danh lam tạo ra một tổng thể kiến trúc sơn thuỷ hữu tình bố cục cấn đối, hoà nhập với môi trường để hài hoà với tự nhiên và nâng quy mô lên nhiều lần. Những công trình này gắn với quý tộc cũng gắn với toàn dân, cầu chúc hoàng đồ củng cố và nhân dân an lạc. 2. Nghệ thuật điêu khắc Bia chùa Phân Tích cho biết tại đây năm 1057 vua Lý Thánh Tông dựng cây tháp cao ngàn trượng trong tháp có pho tượng bằng đá thếp
  13. vàng cao 6 thước, trước thềm bày mười con thú cũng bằng đá. Một số chùa thời Lý cũng có bia đề cập tới tượng tròn và chạm khắc trang trí. 2.1. Tượng tròn Tượng tròn thời Lý hiện còn có tượng Phật, Kim Cương người chim và tượng thú. Mỗi loại còn được vài pho a. Tượng phật Thế Tôn Các chùa Phật Tích, Ngô Xá ( Chương Sơn) và Kim Hoàng đều chỉ để lại mỗi chùa một pho tượng Phật. Các chùa Thầy, chùa Chèo và chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh không còn tượng nhưng còn bệ tượng và toà sen thích hợp với một pho tượng Phật ngồi trên.Các chùa Một Cột, Long Đọi, Linh Xứng được văn bia xác nhận có tượng Phật. Tượng Phật chùa Phật Tích vốn được gọi là đức Thế Tôn ở thế ngồi thiền cao 1m85 ( tương đương 6 thước thời Lý). Phần bệ không còn nguyên và đã làm lại toà sen cao thêm 0m84 nữa, vốn xưa ở trong lòng tháp và được thếp vàng. Đã từ lâu phần sơn thếp bong hết để lộ đầy đủ phần lõi được chạm rất cẩn thận và hoàn chỉnh. Tượng được bố cục theo khối nón vững vàng, ngồi thiền khuỳnh hai đầu gối, lưng thẳng đứng, mắt hơp cúi xuống, do đó từ trên cao có sự giao cảm với các Phật tử đang chiếm bái. Toàn thân tượng khuôn trong đường viền khép kín, nhưng do mảng khối óng chuốt nên cứ chập chờn – nhất là khi được chiếu sáng. Tượng mang vẻ đẹp quý phái cảu người phụ nữ Việt Nam. Mặt trái xoan, cổ cao 3 ngấn, thân hình dong dỏng, mình mỏng. Đỉnh đầu có nhục kháo nhô cao, tóc xoăn, tai dài là những quý tướng. Đôi mắt đăm chiêu khép hở, cặp lông mày thanh cong giao tế nhị, các ngón tay thon thả. Tấm áo dài óng ả có đường gân cuộn xoáy ở bả vai phải,
  14. rồi lượn theo các nếp áo như trôi chảy vào không gian, chỉ đọng lại ở thân mình vì bị " vướng". Tượng được tạo bằng những mảng khối óng mượt, đường nét minh triết, từng chi tiết tao nhã và trí tụê. Tất cả toát lên vẻ đẹp cổ điển về một tâm hồn từ bi, vị tha. Khối tượng tính lặng, trang nghiêm nhưng được đặt trên toà sen nửa khối cầu lại toạ ấn tượng chao đảo. Toà sen này làm lại ở thời sau, hơi nhỏ so với khuỳnh chân ngồi thiền. Đối chiếu với bức bệ tượng các chùa khác cùng thời kỳ dưới toà sen còn thiếu khối tượng sư tử hay đôi lân chầu ngọc. Phần dưới cùng là bệ bát giác khối nón gồm nửa dưới là những lớp sóng vừa dàn ra lại vươn lên, từng đợt mênh mông vô tận, nửa trên là hai tầng bậc cấp thu vào, có mặt nằm chạm hoa dây như cúc cuống hoa có người bé tí leo trèo, có mặt đứng chạm rồng rắn thoắt đuôi nhau, Ngược với khôi tượng trơn, phần bệ phủ kín hoa văn với kỹ thuật tỉ mỉ, chính xác như chạm vàng bạc. Chùa Ngô Xá ở chân núi cũng có pho tượng Phật đưa từ phế tích tháp Chương Sơn ở đỉnh núi xuống, lớn bằng người thực, cấu tạo chung giống như tượng chùa Phật Tích, nhưng khuôn mặt thực hơn với người Việt ( long mày không giao nhau, mũi hơi gãy, mặt hơi xếch, tai không chảy). Tượng Phật chùa Kim Hoàng bị mất đầu, thân hình cso thô hơn tượng Phật Tích một chút nhưng về tổng quát lại rất gần gũi. b. Tương Kim Cương Thư tịch nói rõ bốn cựa tháp chùa Báo Thiên có bốn cặp tượng Kim Cương trấn giữ. Tượng Kim Cương chùa phật Tích dược đưa về Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam. Tượng Kim Cương chùa Long Đọi còn 6 pho gắn vào tường chùa, là tượng tròn nhưng sau lưng gắn liền vào đá tấm.
  15. Tượng to băng người thực, đẹp khoẻ mạnh, dáng ung dung cương nghị, khuôn mặt đồn hậu, là võ tướng nhưng không ở các thế võ, cơ bắp thả lỏng, đứng nghiêm chống kiếm trước bụng, trên y phục được chạm nhưng bông hoa nhiều cánh xoè nở gây cảm giác toàn thân tượng như phập phồng thở. Tấm đá nền sau tượng, ở diềm đứng chạm các ô tròn hoa sen to và nối với nhau bằng hình người bé ti trong ô tròn nhỏ. c. Tượng người chim Trong phế tích các tháp Phật Tích, Long Đọi và Chương Sơn đã tìm được một số tượng người chim vốn xưa đậu trên những đấu chạc dưới các tâng mái. Đây là nhân vật thần thoại, nửa trên là người nhưng ngoài đôi tay còn thêm đôi cánh, nửa dưới hoàn toàn là chim. ở Long Đọi, người chim đánh chũm choẹ, còn ở Phật Tích có người chim đánh trống cơm, có người chim gẩy đàn nguyệt. Là nhân vật thần thoại song từng phần lại rất thực, hoạt động nghệ thuật sôi nổi, nét mặt tập trung vào âm thanh cảu những nhạc cụ đang biểu diễn, đôi canh cũng như vỗ theo và những túm lông đuôi uốn lượn bay lên mềm mại. Có thể xem đây là những nhạc công thiên thần. d. Tượng thú Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội toà sen mà dân gian gọi là " ông Sấm", thì ở thềm tầng bậc thứ 2 cảu chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú dàn thành một hành ngang hai bên cửa đối nhau. ông Sấm ở chùa Bà Tấm chỉ có phần đầu, hai con đội chung một toà sen, ở thế nằm cao 1m, rộng 1m36, còn ở chùa Hương Lãng (Hưng Yên) chỉ có một con chạm cả phần đuôi, dài 2m30 còn phần đầu như ở
  16. chùa Bà Tấm. Hình dáng là con sư tử phủ phục đội toà sen, trán có chữ Vương là chúa rừng xanh. Ngoài những lông xù cuộn xoáy, dọc chân và quanh mép còn có hang hoa văn dấu hỏi tựa nhau, quang miệng có những bông hoa nhiều cánh, phần đuôi được trang trí rất kỹ, có lẽ do sư tử gầm như tiếng sấm, lại cũng do ước vọng cần mưa nên địa phương gọi sư tử là " ông Sấm" Còn 5 cặp tượng thú chùa Phật Tích, từ giữa toả ra là sư tử – voi – trâu – tê giác – ngựa, tất cả đều to bằng trâu ngựa thực và đều nằm trên toà sen, là những con vật thiêng cảu thế giới nhà Phật. Tượng và bệ liền khối đá. Trang trí phần bệ đáng chú ý hơn cả là con vật thần thoại gần giống như người nhưng đươi lại uốn lượn như mình rồng, chạm tinh tế, thống nhất phong cách nghệ thuật Lý. Song phần tượng, cả 5 loại thú đề là những con vật thực, từ con vật rất thân thuộc ( trâu) đến những con vật hầu như không có ở Việt Nam ( sư tử) nhưng đều được chạm rất thực, khối hình to mập, dáng khoẻ chắc, cso phần xa với phong cách Lý mà đến thời Trần mới phát triển. 2.2. Chạm khắc trang trí Trong điêu khắc Lý đặc biệt phải kể đến mảng chạm nổi trên đá với sự tinh khéo như chạm vàng, bạc. ở đây nổi lên một số đề tài là rồng, nhạc công, vũ nữ và hoa lá. a. Hình rồng rắn Có một số con rồng rất lớn, thân đuôi ra dài vài mét ( như ở cột đá chùa Dạm, đế bia chùa Long Đọi và chùa Chương Sơn, trong ao rồng cảu Phật Tích), song phần lớn là những con rồng nhỏ dài mười phân nằm trong một số đồ án gọn xinh theo các hình tròn, thoi, chữ nhật, lá đề,
  17. nửa lá đề ... nhưng luôn thống nhất về cấu tạo : đầu to với bờm tóc mượt bay, răng nanh cuộn xoắn với môi trên lại có thêm đường viền thành chiếc mào phập phồng như ngọn lửa, mũi như đoạn vòi co dãn, lông mày cuộn vòng lên cả hai đầu và cạnh đó là hình trang trí chứ S không bao giờ thiếu vắng, là dấu hiệu về nguồn nước. Thân rồng tròn trịa, dài nhỏ, uốn thắt túi thoăn thoắt như chiếc lò xo ẩn tàng sức bật mạnh, cứ thế thu nhỏ về đuôi, nếu không để ý đến chân thì không phân biệt được thân với đuôi, dọc lưng có đường vây nhưng vảy cá và dưới bụng là dãy nếp gấp như bụng rắn để dễ di chuyển. Rồng có 2 chân trước mọc lệch chố và2 chân sau mọc cùng chố, chân sau cũng dài hơn hẳn, chân nào cũng như múa rất dẻo, mỗi chân có ba ngón với móng cong nhịn sắc như của chim. Một số người quên gọi là rồng giun, nhưng ngay ở đương thời người xưa đã nhiều lần gọi là long xà tức là rồng rắn, lấy con rắn làm cơ bản rồi thêm vào một số hoạ tiết khác, làm cho con vật thần thoại mà thân thuộc như con vật thực. Nền rồng là mây trời nhưng cũng có khí là hoa lá. Trong cấu tạo, con rồng có cả yếu tố âm và dương, nó lưỡng cư và lương tĩnh, tuy đã gần với triều đình, nhưng về bao quát vẫn là con vật biểu trưng nguồn nước, là chố dựa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước, cảu cư dân gắn vận mệnh với sông nước, và phần nào cũng nhắc nhở nguồn gốc dân tộc và con rồng cháu tiên. Hình rồng Lý là hình trạng trí đạm chất Việt Nam, có tiếp nhận mộ số yếu tố văn hoá Đông Sơn và văn hoá phương Nam, rất khác rồng Trung Quốc trước và cùng thời với nó.
  18. b. Nhạc công và vũ nữ Chùa Phật Tích có một số chân tảng đá kê cột cảu thời Lý được dừng lại, mặt trên chạm thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mắt bên là bốn dàn nhạc giống nhau. Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm cao 13cm, người xưa tạo ra một khung hình cách mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phái trên là dải dấu móc tựa lưng nhau như cách hoa, còn viền phía dưới là dải song hai loại chồng chất như ở bệ tượng Phật, giành ra khoang giữa dài 70cm cao 9,5cm để chạm dàn nhạc : chính giữa là một vòng sáng lá đề bên trong có vài bông hoa như hoa cúc, tất cả được đặt trên một bông sen, hẳn là hình tượng trưng cho đức Phật. Hai bên có mười nhạc công chia đôi, dàn thành hàng ngang múa tiến vào vòng sáng, động tác múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn những nhạc cụ khác nhau, từng cặp từ hai đầu vào giữa là trống cơm và trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và sáo, đàn tranh và đàn thập lục, cặp phách nở và chập. Từng người đều chân thấp chân cao, mình uốn vặn ba khúc, từ búi tóc cao và cổ chân còn toát ra nhưng dải lụa bay lượn nhịp nhàng, phục trang đẹp gọn làm nổi các đường lượn của thân thể tròn lẳn. Bức chạm đông người mà không che khuất nhau, ai cũng ở chính diện với độ lớn bằng nhau, ở đây như có cả tính dân chủ công đồng làng xã. Đề tài vũ nữ còn được thể hiện ở tay vịn thành bậc cửa tháp Chương Sơn, cả 2 mặt giống nhau : lớp trên chạm bảy vũ nữ, lớp dưới chạm băng hoa. Băng hoa mặt trong chia ra các ô tam giác vuông cân để ứng với các đầu bậc thì để trơn, và do đó bức chạm phải để dốc 450 hình người mới đứng. Băng hình vũ nữ cao 0m27 và dài 2m15, từng hình
  19. đều to, rõ và dáng chung như các nhạc công Phật Tích nhưng hai tay đaư lên cao dâng hiến, tay trước cầm cả hoa và lá sen cuộn tròn. c. Hình hoa lá Trên nhiều mặt phẳng cảu kiến trúc và của bệ tượng người xưa thường chạm hoa lá theo từng băng dài, phần lớp là cúc sen đan xen nhau. Dây hoa với nhữg lá nhỏ toả về hai bên là chung cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy từng bông hoa tròn. Hoa được cách điệu nhưng có thể nhận ra sen và cúc, có khi chỉ là hoa cúc nhưng nhìn góc độ khác nhau, đều lớn như nhau. Hai loại hoa này thường được gán cho hai tính chất thanh cao ( sen) và ẩn sĩ ( cúc), song trong văn hoá tâm linh nó còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn. Nhà thơ Trần Nguyên Đán ở thời Trần đã nhận ra ở hoa cúc có khí mạnh và tài năng cảu trời đất, nó coi thường cả uy của sương và sự lấn của tuyết. Cúc còn tượng trưng cho mặt trời để đôi rồng chầu vào, là biểu hiện của khí dương. Còn sen ở nước,cả trong Phật thoại và triết lý dân gian đều xem là dấu hiệu yếu tố âm, gợi hình mặt trăng. Hình chạm hai thứ hoa này đan xen nhau còn là sự hoà hợp âm dương để tạo phúc cho cuộc sống cả xã hội, và do đó gắn với cuống hoa thường có hình người bé tí trèo sống động. 3. Nghệ thuật hội hoạ Trang thời Lý cách ngày nay rất xa, thường vẽ trên tường vách cảu công trình kiến trúc, một số tranh độc lập có thể vẽ trên gỗ hoặc giấy,
  20. vải nên rất khó bảo quản và bảo dưỡng. Tường đổ, nhà cháy, nấm mốc, nắng mưa .... do con người và thời tiết gây ra đã cướp đi tất cả. Tuy nhiên, qua thư tịch có thể chút ít về tranh, và một phần hình vẽ trên gốm có thể cho biết thêm yếu tố hội hoạ đương thời. Thư tịch xưa cho hay các vua Lý " ở trên lầu bốn tầng .... Tất cả cung điện ở Thăng Long đều sơn son, cột vẽ rồng, hạc và tiên nữ". Các chùa lại càng hay dùng tranh vẽ để trang trí và giáo dục Phật tử. Chùa Phật Tích có " cung sơn điện vẽ san sát trong núi" có " cung Quảng vẽ hoạ nhi hồng" có " góc cao vẽ sao ngưu và sao đẩu sáng láng". Nếu những hình vẽ trên chủ yếu để trang trí, thì ở một số chùa khác lại mang rõ ý nghĩa giáo dục, chẳng hạn bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn ( Thanh Hoá) dựng khi khánh thành chùa cho biết: " Quang tường thuê vẽ dung nghi đẹp đẽ của cực quả mười phương, cùng với mọi hình tướng biến hoá muôn hình vạn trạng không sao kể xiết". Với nho giáo, Nhà nước ngay khi xây Văn Miếu đã cho vẽ chân dung 72 người học trò ngoan và giỏi của Khổng Tử để các sĩ tử noi theo. Chữ Hán với bố cục khối vuông, được viết đẹp cũng là những bức trang chữ thuộc loại " thư hoạ". Thư tịch cho biết vua Lý Nhân Tông " viết bút lông rất khéo, chữ như rồng múa phượng lượn, phép theo tay nghọc của ngài như chim loan vòng, chim thước nhảy". Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã nhiều lần đi thăm các chùa và viết chữ ban cho để khắc vào bia. Nhưng hình vẽ trên đều đã mất, nhưng trên gốm men ngọc của thời này còn giữ được một số hình khắc chìm, tức vẽ bằng vật cứng khi xương gốm mới làm xong, sau đó tô men và nung. Những hình vẽ này thường
nguon tai.lieu . vn