Xem mẫu

  1. HOÀNG ANH MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SỬ DỤNG NGÔN TỪ TRÊN BÁO CHÍ HÀ NỘI – 2003 1
  2. MỤC LỤC ..................................................................................................................................8 VIỆC SỬ DỤNG CHẤT LIỆU VĂN HỌC TRONG TÁC PHẨM BÁO CHÍ.......................32 .....................................................................................................................................49 THỬ PHÂN LOẠI TIÊU ĐỀ CÁC VĂN BẢN BÁO CHÍ....................................................65 NGÔN NGỮ TÁC GIẢ VÀ NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM BÁO CHÍ. .103 2
  3. LỜI TÁC GIẢ Cuốn sách này là tập hợp các bài viết của tác giả đã công b ố trên các tạp chí và các hội thảo khoa học chuyên ngành. Nó đề cập m ột s ố v ấn đ ề khá bức xúc nhưng chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức trong địa hạt ngôn ngữ báo chí - một địa hạt vẫn còn hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Đó là các vấn đề như: đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, sự k ết h ợp khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí, cách thức t ạo giá tr ị bi ểu c ảm trong ngôn ngữ báo chí, sự khác biệt giữa ngôn ngữ văn h ọc và ngôn ng ữ báo chí, ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác gi ả trong tác ph ẩm báo chí, phân loại tiêu đề các văn bản báo chí, ... Vì đây mới ch ỉ là k ết qu ả c ủa nh ững khảo sát bước đầu cho nên cuốn sách không tránh khỏi có những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, tác giả vẫn hy vọng là nó s ẽ mang l ại nh ững đi ều b ổ ích, dù chỉ nhỏ bé, cho các nhà báo, các nhà nghiên c ứu và gi ảng dạy về báo chí, cũng như tất cả những ai có liên quan. Hà Nội, tháng 5 năm 2003 Tác giả 3
  4. TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ BÁO TRONG VIỆC GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT Các phương tiện thông tin đại chúng luôn có rất nhiều người s ử d ụng; thêm vào đó, chúng vẫn thường được coi là mẫu mực trong vi ệc dùng ngôn t ừ. Chính vì thế các sai sót về mặt này của các phương tiện thông tin đ ại chúng r ất nhanh chóng trở thành sai sót chung của toàn xã hội. Và từ đây, nảy sinh m ột vấn đề khá quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức: vấn đề trách nhiệm của nhà báo trong việc nói đúng và viết đúng, nhằm góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, và cũng có nghĩa là góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, mà không ít nhà báo mới chỉ chú trọng phần nội dung chứ ch ưa đ ể ý nhi ều t ới hình thức diễn đạt thông tin. Bởi vậy, họ bỏ qua khá nhiều lỗi về ngôn t ừ ở mọi cấp độ: từ, câu, đoạn văn, thậm chí ở cả bố cục toàn văn bản. Nếu đi ểm qua một vài tờ báo, kể cả những tờ báo lớn, chắc hẳn chúng ta s ẽ tháy rõ đi ều này. Không nói đâu xa, ngay cả báo Văn nghệ, - cơ quan trung ương của Hội Nhà văn Việt Nam, diễn đàn của các bậc thầy về sử dụng ngôn từ - cũng tương đối thường xuyên mắc phải các lỗi như: chính tả thiếu chuẩn xác, câu thi ếu thành phần nòng cốt, từ dùng không đúng nghĩa...1 Có lẽ, chẳng cần phải luận bàn, chúng ta cũng biết là những sai sót như vậy sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng tới mức nào. Ít nhất, chúng cũng làm cho hiệu quả ti ếp nh ận thông tin của người đọc bị giảm sút. Còn cao hơn, chúng có thể làm cho người đọc không hiểu hoặc hiểu sai vấn đề. Song, vượt lên trên t ất c ả là đi ều nh ư chúng tôi đã nói ở trên: những sai sót này không bị phát hi ện ( nghĩa là đ ược xem nh ư đúng ) và chúng lan truyền trong cộng đồng như một thứ dịch bệnh. Vậy nhà báo phải làm gì đây để có thể hoàn thành được trách nhi ệm n ặng nề của mình trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Về vấn đề này, chúng tôi có vài ý kiến nhỏ như sau: 4
  5. 1. Nhà báo cần nắm chắc các tri thức cơ bản liên quan t ới vi ệc s ử dụng tiếng Việt thuộc 4 phương diện chính là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách. Để làm được điều đó, chắc chắn chúng ta phải học một cách bài bản, nghiêm túc. Có thể học ở trường, lớp mà cũng có th ể tự học. Song dù hình th ức học có thế nào đi chăng nữa thì kết quả cuối cùng đạt được phải đáp ứng yêu cầu: nói đúng, viết đúng. Chưa nói đúng, viết đúng thì ch ưa th ể kỳ vọng nói hay, viết hay được. Có những điều tưởng như rất đơn giản, nhưng nếu chúng ta không học, chúng ta vẫn có thể bị mắc lỗi. Chẳng hạn, quan hệ ngữ đoạn trong ngôn ngữ là một vấn đề hoàn toàn không khó, nhưng do không được trang bị kiến thức cần thiết, nhiều nhà báo thường xuyên ngắt đoạn sai khi nói, khi đọc. Ấy là còn chưa kể đến những mảng đầy " gai góc " thuộc phần ngữ pháp mà nếu không đầu tư thời gian và công sức để nghiên cứu và rèn luy ện, chúng ta khó có thể làm chủ được hoạt động ngôn từ của mình. Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Việt đúng với chuẩn mực không đồng nghĩa với sự phủ nhận hoàn toàn những sáng tạo riêng của cá nhân. Có đi ều, những sáng tạo ấy phải tuân thủ những quy luật nhất định, nghĩa là có cơ sở khoa học. Chẳng hạn, khi tạo ra từ mới, người ta phải d ựa vào nh ững t ừ đã có sẵn nào đó mà có quan hệ trực tiếp với nó về ph ương di ện âm thanh hay ý nghĩa. 2. Nhà báo nên hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngoài Có thể nói, chưa bao giờ các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài lại xuát hiện trên báo chí tiếng Việt với mật độ dày nh ư hiện nay. Ng ười ta s ử dụng chúng khá tuỳ tiện, bất chấp người đọc, người nghe có hiểu đ ược hay không. Thật phi lý khi nhà báo là người Việt Nam, mà để hiểu đ ược ngôn t ừ của họ, nhiều lúc chúng ta phải mở từ điển song ngữ ra tra c ứu. Ph ải chăng tiếng Việt của chúng ta nghèo nàn tới mức phải vay mượn tràn lan nh ư vậy? Hoàn toàn ngược lại! Tiếng Việt của chúng ta vô cùng phong phú, và trong tuyệt đại đa số các trường hợp, có thể tìm thấy các t ừ tương đ ương v ới các t ừ vay mượn từ tiếng nước ngoài ( thậm chí nhiều từ tiếng Việt còn có kh ả năng 5
  6. diễn đạt khái niệm tinh tế hơn, rõ ràng hơn ). Sở dĩ một số nhà báo không dùng từ tiếng Việt vì có lẽ họ muốn làm phong phú thêm ngôn từ c ủa mình ho ặc muốn tăng cường tính biểu cảm. Đây là dự định tốt nhưng cách làm chưa hợp lý. Sự phong phú của một chỉnh thể không thể được tạo bởi các thành tố mới lạ nhưng lại phá vỡ tính thống nhất của nó. Tương tự, tính biểu cảm không thể được tạo bởi các phương tiện cản trở quá trình nhận thức. Các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài càng trở nên khó ch ấp nhận hơn khi bị dùng sai, do người dùng chưa hiểu thấu đáo ý nghĩa cũng nh ư cách đọc, cách viết chúng. Vì lúc này chúng không chỉ gây nên những hậu quả như: làm giảm sút hiệu quả tiếp nhận tác phẩm, tuyên truy ền cho cái sai; mà còn h ạ thấp uy tín của tác giả ( người đọc, người nghe khó tránh kh ỏi có ấn t ượng rằng anh ta là người " sính chữ ngoại " )và bằng việc đó, h ạ th ấp uy tín c ủa chính cơ quan báo chí là nơi tác giả làm việc. Vậy nên chỉ còn cách là hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngoài. Không phải tình cờ mà Bác Hồ của chúng ta đã dặn: " Nh ững t ừ không d ịch được thì phải mượn tiếng của các nước. Nhưng chỉ mượn khi thật cần thiết, và đã mượn thì phải mượn cho đúng "2. 3. Nhà báo cần có một trình độ ngoại ngữ nhất định Trình độ ngoại ngữ của nhà báo càng cao càng tốt. Nó mang đến cho nhà báo rất nhiều lợi ích, nhất là trong thời kỳ đa ph ương hoá, toàn c ầu hoá nh ư hiện nay. Tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ bàn đến một lợi ích trong số đó, ấy là ngoại ngữ giúp nhà báo hiểu rõ hơn tiếng mẹ đẻ của mình, để rồi trên cơ sở ấy, có cách ứng xử thích hợp đối với nó. Trong thực tế, sau khi học xong một ngoại ngữ nào đó, dù muốn hay không, chúng ta thường có sự liên hệ nhất định với tiếng Việt. Và dựa vào sự đối chiếu ,so sánh, nhà báo có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng tiếng Việt của chúng ta giàu đẹp chẳng kém bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Và từ đây, anh ta sẽ có tình cảm yêu quý và thái độ trân trọng hơn đối với tiếng mẹ để của mình. Những tình cảm và thái độ ấy, nếu được vun đ ắp th ường xuyên, dần dần sẽ trở thành những phẩm chất văn hoá, thành những giá trị đạo đức 6
  7. của nhà báo, giúp họ trở thành những nhân tố tích cực trong cu ộc đ ấu tranh chống những biểu hiện xem thường, coi khinh tiếng nói và ch ữ viết của dân tộc. Song, bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận các giá trị c ủa ngôn ngữ nước ngoài, mà ngược lại, phải biết tiếp thu chúng để hoàn thiện thêm cho tiếng mẹ đẻ. Chẳng hạn, tính khoa học và tính chính xác cao c ủa các ngôn ng ữ Ấn - Âu ( như Anh, Pháp, Nga,...) sẽ giúp cho nhà báo sử dụng tiếng Việt một cách khúc chiết, mạch lạc, gãy gọn, tránh được sự dài dòng, cầu kỳ không c ần thiết. Như vậy, rõ ràng là hiểu biết về tiếng nước ngoài cũng góp phần quan trọng vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Từ xưa đến nay, người ta vẫn luôn quan niệm rằng trong việc sử dụng ngôn ngữ của một dân tộc bao giờ cũng bộc lộ tầm vóc văn hoá của nó. Mà báo chí lại là môi trường rộng lớn nhất và được xem là mẫu mực nhất để ngôn ngữ dân tộc hành chức. Vì thế, khẳng định trách nhiệm của nhà báo chúng ta trong công cuộc bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiéng Việt, đồng th ời đề xuất những giải pháp để họ hoàn thành trách nhiệm ấy, là việc làm cần thi ết. Hy vọng, với bài viết này, chúng tôi sẽ nhận được nhiều ý kiến quý báu liên quan tới vấn đề trên. Chú thích 1. Nguyễn Văn Nở, Đôi điều mong muốn về tiếng Việt trên báo Văn Nghệ , Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 10 / 1998, tr. 11 - 14. 2. Một số ý kiến của Hồ Chủ tịch về chữ quốc ngữ và tiếng Vi ệt , Tạp chí Ngôn ngữ, 1970, số 3, tr.38. ( Bài in trong: Báo chí- những điểm nhìn từ thực tiễn , NXB. Văn hoá - Thông tin, H., 2000, tập 1 ). 7
  8. CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ Hiện nay, ngôn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong cách ch ức năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng " phong cách là nh ững khuôn mẫu trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen s ử d ụng ngôn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản tiêu biểu " 1, người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ thuy ết ph ục khác nhau, để khẳng định là ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang hàng với các phong cách chức năng khác trong ngôn ng ữ nh ư phong cách khoa học, phong cách hành chính - công vụ, phong cách sinh ho ạt hàng ngày, phong cách chính luận. Vậy đâu là các nét đặc thù của phong cách báo chí? Các nhà nghiên c ứu đã có ý kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này. Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của phong cách báo chí ( nh ư tính chiến đấu, tính thời sự, tính hấp dẫn ), đã chỉ ra các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí thuộc các phương diện như từ vựng, cú pháp, kết cấu 2. Theo chúng tôi, đây phần lớn mới chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại báo chí cụ thể, vì thế chúng chưa đủ tầm khái quát để có thể khắc hoạ diện mạo của cả một phong cách ngôn ngữ trong sự đối sánh với các phong cách ngôn ngữ khác. Còn tác giả Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm về ngôn ngữ của phong cách báo chí bao gồm: 1. Chức năng thông báo, 2. Chức năng hướng dẫn dư luận, 3.Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng, 4. Tính chiến đấu mạnh mẽ, 5. Tính thẩm mỹ và giáo dục, 6. Tính hấp dẫn và thuyết ph ục, 7. Tính ng ắn g ọn và biểu cảm, 8. đặc điểm về cách dùng từ ngữ ( gồm cách dùng từ ngữ và cách dùng các khuôn biểu cảm )3. Dễ dàng nhận thấy là Hữu đạt không có sự phân 8
  9. định rõ ràng giữa các đặc điểm về chức năng của thông tin báo chí và các đặc điểm về ngôn ngữ như là phương tiện chuyển tải thông tin ấy. Chính vì th ế, 8 đặc điểm mà ông đưa ra không đồng loại, chỉ có các đặc điểm thứ sáu và th ứ bảy là có vẻ xác đáng hơn cả. Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên của Đinh Trọng Lạc cũng như Hữu Đạt 4 cho thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, h ọ đ ều xu ất phát t ừ góc độ chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lý, vì chính chức năng ch ứ không phải bất cứ yếu tố nào khác, quy định các phương thức biểu đạt có tính đ ặc thù của từng loại hình sáng tạo. Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản, có vai trò quan trọng hàng đ ầu c ủa báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề c ập các s ự kiện. Không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do v ậy, theo chúng tôi, nét đặc trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là có tính sự kiện. Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ báo chí m ột lo ạt các tính ch ất c ụ thể như: 1. Tính chính xác Ngôn ngữ của bất kỳ phong cách nào cũng phải bảo đảm tính chính xác. Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, nghĩa là có thể gây ra những gây hậu quả xã h ội nghiêm trọng không l ường trước được. Chẳng hạn, sau chuyến tháp tùng một quan ch ức cao cấp sang thăm trung quốc, một nhà báo đã viết một bài phóng sự, trong đó có câu: " Chúng tôi đã chia tay với tình hữu nghị dạt dào của hai n ước Vi ệt - Trung ". Rõ ràng, t ừ " với " ở đây là không thể chấp nhận được (vì cụm từ " chia tay v ới..." bi ểu đ ạt ý nghĩa " từ bỏ, từ giã "), cần phải thay nó bằng từ "trong" . Muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ ít nhất 2 yêu cầu. Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững ngữ pháp; có vốn từ vựng rộng, chắc, và không ngừng được trau d ồi; thành th ạo v ề ngữ âm; hiểu biết về phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự ki ện có th ực và 9
  10. nguyên dạng để phản ánh, không tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu c ầu này có quan hệ qua lại hết sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện thực thì ngôn ngữ có thể " kêu " những rỗng tuếch, thiếu hơi thở ấm nóng c ủa cu ộc s ống v ốn là thứ có sức chinh phục mạnh mẽ đối với độc giả. Ngược l ại, bi ết rõ hi ện thực nhưng kém về ngôn từ thì cũng không thể chuyển tải thông tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí đôi khi còn mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội. Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo không chỉ đạt hiệu quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản ph ẩm của báo chi đông tới mức không xác định được và họ ( nhất là trẻ em ) l ại luôn xem các c ơ quan báo chí là " ngọn đèn chỉ dẫn " trong vi ệc dùng ngôn t ừ, cho nên ngôn ng ữ báo chí càng hoàn thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển. 2. Tính cụ thể Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng hiện thực được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là ng ười trong cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong tác phẩm của mình. Đoạn trích sau đây trong phóng sự " Hai giờ d ưới lòng đ ất " của nhà báo Huỳnh Dũng Nhân là một minh chứng: "...Tôi cố nén sự tự ái, ưỡn ngực tiến tới. Xì, lò thế này mà ngán gì. Đi như hầm địa đạo Củ Chi là cùng. Nhưng... sâu dần, đen dần. Rồi tất cả biến mất. Tôi lọ mọ đi. Hai tay sờ soạng tứ tung. Cốp! Lùn tịt như tôi mà cũng còn va đàu vào đá. Tôi nghĩ bụng và bắt đầu đi lom khom. M ẹ ơi, ch ỉ còn mình tôi thôi sao? Tống, Lực đâu rồi. Đã hết lom khom được. Phải nằm xuống, bò. Có ti ếng nước róc rách. Đường lò ướt nhẹp. Tôi vớ phải một sợi dây cáp ở đầu m ột cái dốc. " Bám vào - ngửa người ra, tụt xuống! ". Một mênh lệnh vang lên. A! Tống, Lực đây rồi. Thì ra hai anh vẫn đi sát tôi, như có v ẻ cố tình th ử thách nhau m ột tý " cho nhà báo có thêm thực tế ". Thấy tôi thở phì phò, thợ lò bảo: " Đây là lò ngắn nhất và dễ nhất mỏ Mông Dương đấy! Dễ nhất! Tôi suýt la lên. Cả tiếng đồng 10
  11. hồ mới lấy được vài xe goòng than đá. Dễ nhất mà thợ lò phải bò như những con rắn mối trong hang". Một bức tranh chân thực và sinh động đã được tạo dựng nh ờ s ự miêu t ả m ột loạt các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả. Khi đọc đoạn văn trên, đ ộc giả thấy mình như cũng đang trải qua một cuộc hành trình đầy gian nan, v ất v ả dưới lòng đất. Và đây chính là khởi nguồn của ni ềm c ảm thông sâu s ắc v ới n ỗi cực nhọc trong côngviệc của những người thợ lò. Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn nằm ở vi ệc t ạo ra s ự xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với m ột không gian, th ời gian xác định; với những con người cũng xác định ( có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ thể ). Đây là cội nguồn của sự thuy ết ph ục, vì nh ờ nh ững y ếu t ố đó người đọc có thể kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu như " một người nào đó ", " ở một nơi nào đó ", " vào khoảng ", " hình như ", v. v... 3. Tính đại chúng Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã h ội, không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính..., đều là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp nh ận thông tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì th ế, ngôn ng ữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính ph ổ cập rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ dãi, thấp kém. Vì, nói như nhà nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga V. G. Kostomarov: " Ngôn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng không c ảm th ấy chán và một em bé có trình độ còn non nớt cũng không thấy khó hiểu "5. Với ngôn ngữ không có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho một đối t ượng h ạn hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào mọi tầng lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do khiến cho 11
  12. trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ng ữ chuyên ngành h ẹp, các t ừ ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài. 4. Tính ngắn gọn Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có th ể làm loãng thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm vào đó, nó còn làm tốn thời gian vô ích cho cả hai bên: cho người viết, vì anh ta s ẽ không đáp ứng được yêu cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời; cho người đ ọc ( người nghe ), vì trong thời đại bùng nổ thông tin, người ta luôn c ố g ắng thu được càng nhiều thông tin trong một đơn vị thời gian càng tốt. Đ ấy là còn ch ưa kể đến việc viết dài dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau, nhất là các lỗi về s ử dụng ngôn từ ( thực tế khảo sát của chúng tôi cho thấy một tỉ l ệ khá lớn các câu sai về ngữ pháp trong các tác phẩm báo chí có liên quan tới vi ệc nhà báo quá ham mở rộng các thành phần phụ mà quên mất các thành phần chính của câu ). Câu nói nổi tiếng của đại văn hào Nga A. P. Chekhov có l ẽ chính xác h ơn c ả với phong cách ngôn ngữ báo chí: " Ngắn gọn là chị của thành công "6. 5. Tính định lượng Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng th ường bị giới hạn trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, vi ệc lựa chọn và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý đ ể ph ản ánh đ ược đầy đủ lượng sự kiện mà không vượt quá khung cho phép vè không gian và th ời gian. Hiện tại, không ít báo yêu cầu phóng viên, cộng tác viên khi vi ết bài không được phép vượt quá một lượng chữ nhất định. Đối với những bài " không đặt trước " biên tập viên buộc phải chỉnh lý, cắt xén cho thích ứng với việc công bố. Rồi ngay trong số các cơ sở đào tạo nhà báo cũng có không ít nơi, khi tuyển sinh, đòi hỏi đối tượng dự thi phải thử nghiệm khả năng định lượng của mình thông qua việc viết một hay một số văn bản với độ dài cho sẵn. Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp cho nhà báo rèn luyện được thói quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm. Nhờ đó, họ có thể dễ dàng thích 12
  13. nghi với mọi điều kiện thời gian cũng như không gian được dành cho vi ệc công bố chúng. 6. Tính bình giá Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện, mà còn ph ải th ể hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua s ự bình giá ( có l ẽ trong các thể loại báo chí chỉ có tin vắn, tin ngắn là không có tính bình giá, t ức là tác giả thể hiên sắc thái biểu cảm trung tính ). Sự bình giá này có th ể là tích c ực mà cũng có thể là tiêu cực, song trong bất kỳ tình huống nào nó cũng đ ược bi ểu đạt trực tiếp qua ngôn từ. Chẳng hạn, có nhiều bài báo đã bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay từ tiêu đề như: " Góc tối ở thành phố cảng ", " Bông hoa Th ủ đô giữa núi r ừng Tây Bắc ", " Lặng lẽ quá ... liên hoan phim ", " Giai đi ệu bu ồn c ủa m ột đêm nhạc trẻ ", " Đó cũng là một cách sống đẹp "...Còn trong các ph ần khác ( c ả m ở đầu, triển khai lẫn kết thúc ) những câu văn mang sắc thái đánh giá của người viết còn gặp thường xuyên hơn, nhất là ở các thể loại như bình luận, xã luận, phóng sự, ghi chép, ký... 7. Tính biểu cảm Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí gắn liền với vi ệc sử d ụng các t ừ ng ữ, lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó sinh đ ộng h ấp dẫn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Ví dụ: " Ở những " cua " cấp tốc, chuyện thầy viết lia lịa lời giải ở trên, trò c ắm c ổ chép như chép chính tả ở dưới vì không có thời gian giảng là " chuyện thường ngày ở huyện ". ( Hà Nội mới cuối tuần, 18 / 4 / 1998 ); " Sông Tô mà không lịch ". ( Văn hoá, 17 / 5 /1999 ). Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí là vô cùng phong phú và đa dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao..., là s ự vay mượn các hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn h ọc ngh ệ thu ật, là lối chơi chữ, nói lái, dùng ẩn dụ, v. v...hay chỉ đơn giản là việc th ể hiện sự bình giá có tính chất cá nhân7. 13
  14. Nếu ngôn ngữ báo chí không có tính biểu cảm, những thông tin khô khan mà nó chuyển tải khó có thể được công chúng tiếp nhận nh ư mong mu ốn, vì chúng mới chỉ tác động vào lý trí của họ. Chính tính biểu c ảm v ốn là hi ện thân c ủa cái hay, cái hấp dẫn mới là nhân tố tác động mạnh mẽ tới tâm h ồn c ủa ng ười nghe, người đọc, làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, để rồi từ đó thực hiện những hành động mà người viết vẫn chờ đợi. 8. Tính khuôn mẫu Trước hết, cần phải làm rõ khái niệm " khuôn mẫu ". Đó là những công thức ngôn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hoá quy trình thông tin, làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính. Chúng bao gồm nhi ều loại và có mặt trong nhiều phong cách chức năng của ngôn ngữ. Chẳng hạn trong văn phong báo chí, khi viết các mẩu tin, người ta thường dùng các khuôn mẫu như: - Theo AFP, ngày...tại...trong cuộc gặp gỡ...Tổng Bí thư...đã kêu gọi... - TTXVN, ngày...người phát ngôn Bộ Ngoại giao... cho biết... Giao tiếp báo chí không thể thiếu khuôn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và công sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời. Song, khác với khuôn mẫu trong văn bản hành chính và văn b ản khoa h ọc, khuôn mẫu báo chí không cứng nhắc, bất di bất d ịch mà r ất linh ho ạt, uy ển chuyển. Chẳng hạn, một thông tin trên báo về nguyên tắc phải thoả mãn 6 câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? nh ưng th ứ tự trả l ời cho các câu hỏi đó có thể được sắp xếp khác nhau tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Bên cạnh đó, các thành tố khuôn mẫu trong ngôn ngữ báo chí lại luôn kết hợp hài hoà với các thành tố biểu cảm cho nên ngôn ngữ báo chí th ường rất m ềm mại, hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ trong văn bản khoa h ọc và văn bản hành chính, là nơi người ta chỉ sử dụng thuần nh ất các thành t ố khuôn m ẫu mà thôi. 14
  15. Trên đây là một số tính chất cơ bản của ngôn ngữ báo chí. V ới nh ững tính chất đặc thù như vậy, ngôn ngữ báo chí hoàn toàn có đủ tư cách để được xem là một phong cách chức năng trong ngôn ngữ. Chú thích 1. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt, NXB. Giáo dục, H., 1997, tr.19. 2. Đinh Trọng Lạc, Sđd., tr. 98 - 111. 3. Hữu Đạt, Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt , NXB. Văn hoá - Thông tin, H., 2000, tr. 224 - 248. 4. Khi bài viết này được công bố, cuốn " Ngôn ngữ báo chí " của nhà nghiên cứu Vũ Quang Hào còn chưa được xuất bản. Tác giả cuốn sách đó cho rằng đặc điểm nổi bật nhất của ngôn ngữ báo chí có khả năng chế định phong cách của nhà báo là sự " chệch chuẩn ". Không xem ngôn ngữ báo chí là một phong cách chức năng riêng, ông đi sâu vào khảo sát 3 phong cách chức năng, mà theo ông, báo chí thường sử dụng là: phong cách chính luận, phong cách khoa học và phong cách hành chính. Xem: Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB. Đại học quốc gia, H., 2001. 5. Kostomarov V. G., Tiếng Nga trên trang báo, M., 1978, tr. 62 ( bằng tiếng Nga ). Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, M., 1984, tr. 287 ( bằng tiếng Nga). 6. 7. Vấn đề này chúng tôi trình bày khá cụ thể trong bài " Những thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí ". ( Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 3 / 2001 ) 15
  16. SỰ ĐAN XEN KHUÔN MẪU VÀ BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ Việc trình bày hay lập mã thông tin được thực hiện khác nhau trong các lĩnh vực giao tiếp khác nhau. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sản xuất - công nghệ người ta thường dùng lối miêu tả kê khai: Tên gọi ... Đặc điểm... Trọng lượng .... Chức năng ... Người sản xuất... Dưới đây là những dòng chữ được ghi trong một giấy chứng nhận sáng chế: " Chiếc đèn nháy điện tử có tên gọi là " Electron " do nhà máy đi ện quang Washington sản xuất là một dụng cụ có trọng lượng 250 g, có khả năng phát sáng với công suất 20 j và làm việc nhờ hệ thống ắc qui ". Song, vẫn thông tin nói trên, khi được đưa trên một tờ báo, l ại có d ạng th ức như sau: " Một trong những nhà máy điện quang của Washington đã tạo nên một sự bất ngờ thú vị cho những người yêu thích chụp ảnh. Ngọn đèn nháy điện tử " Electron " nặng chỉ vẻn vẹn có 250 g. Tia chớp xinh xắn này làm việc nhờ hệ thống ắc qui có thể nạp được điện từ những ổ cắm thông thường ". 16
  17. Dễ dàng nhận thấy là thông tin trên báo sinh động và hấp dẫn h ơn nhiều so với những gì được ghi trên giấy chứng nhận sáng chế. Nguyên nhân thật đơn giản: Trong ngôn ngữ báo chí, người ta đã đan xen một cách hài hoà các thành tố khuôn mẫu với các thành t ố bi ểu c ảm; còn trong ngôn ngữ có tính chất kê khai của một giấy chứng nhận sáng chế, người ta ch ỉ dùng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi. Nếu so sánh các phong cách chức năng trong ngôn ngữ về phương di ện quan hệ giữa khuôn mẫu và biểu cảm, chúng ta nhận thấy: Trong phong cách hành chính - công vụ và phong cách khoa học, tính khuôn m ẫu c ủa cách th ức di ễn đ ạt đạt tới mức tối đa, nghĩa là không còn chỗ cho các thành t ố bi ểu c ảm. Trong phong cách văn học nghệ thuật, tính biểu cảm chiếm ưu thế so với tính khuôn mẫu; đặc biệt, trong một số tác phẩm thơ, tính biểu cảm có th ể đ ạt t ới m ức t ối đa. Riêng trong phong cách báo chí - chính luận, tính khuôn m ẫu và tính bi ểu cảm của ngôn từ nằm trong quan hệ tương đối hài hoà, cân bằng. Các trường hợp đan xen khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ng ữ báo chí, nhìn chung, có thể chia thành 3 kiểu chính như sau: 1. Đan xen trong phạm vi câu Đây là sự đan xen ( chủ yếu là giữa các từ ) trong nội tại câu. Ví dụ: "Không giống như nhiều tập đoàn khác bỏ hàng núi tiền để giành một suất quảng cáo trên truyền hình hay các phương tiện thông tin đại chúng, Piaggio chơi kiểu khác " độc " hơn và " cao tay " hơn: Đổ tiền vào sản xuất các bộ phim hay và khéo léo lồng thương hiẹu của mình vào. Sau khi bộ phim " Kỳ nghỉ thành Rôma " được trình chiếu ( 1954 ) với hai ngôi sao Gregorg và Herburrn luồn lách ngang dọc trên các đường phố Rôma cùng con ong xinh xắn ( Vespa - tiếng ý có nghĩa là con ong ), thì Vespa trở thành biểu tượng của nước ý ". ( Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 10 / 7 /2001 ); " Nhưng “chảo dầu sôi " trên sân Vinh với gần 3 vạn khán giả cuối cùng cũng "nấu chín " đội Công an Hà Nội ". ( Lao động, 31 / 3 /2000 ); 17
  18. " Công - coóc từ trước đến nay vẫn được coi là phi cơ quý tộc vì những tiện nghi và các ưu thế kỹ thuật " độc nhất vô nhị " của nó. ( Quân đội nhân dân, 3 / 9 / 2000 ); " Faustino asprila, " mũi tên đen " hay gây tranh cãi của Clombia mới đây thổ lộ rằng... anh sẵn sàng từ chối một bản hợp đồng hàng triệu đô la tại một vương quốc dầu lửa và muốn kết thúc sự nghiệp của mình tại đội " thường thường bậc trung " Tutu của thành phố quê hương ". ( Thể thao và Văn hoá, 12 / 9 / 2000 ); " Lành mạnh " nhất trong các chiêu lôi kéo khách của những quán cà phê kiểu " tục " là cho tiếp viên ... khoe " của ". ( Người lao động, 16 / 8 /2000 ). 2. Đan xen trong phạm vi đoạn văn Đay là sự đan xen giữa các câu với nhau. Ví dụ: " Trước hết, nợ của Chính phủ Nhật Bản rất cao, khoảng 9,3 % GDP hàng năm. Đây là một quả bom nổ chậm đang ẩn trong nền kinh tế Nhật ". ( Hà Nội mới cuối tuần, 21 / 12 / 1998 ); " Đảo đèn Long Châu đã dược phong danh hiệu anh hùng năm 1972. Người ta gọi nó là " con mắt ngọc " của biển Đông ". ( Lao động, 11 / 4 /1998 ); " Hầu hết các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng và các Phó Giám đốc, Trưởng và các Phó ban đều làm việc chính tại Hà Nội. Đầu tuần, t ất c ả đ ều xuống Quảng Ninh họp giao ban với một xe tuyến và gần hai ch ục xe con dành riêng cho các " sếp ". ( Văn nghệ trẻ, 20 / 8 /2000 ); " Tuy nhiên, theo các nhà quan sát, mọi sự nói vậy mà không hẳn đã là vậy . Trong chương trình làm việc mới được đưa ra kèm theo khoản viện trợ cả gói cho kế hoạch " Cô - lum - bi - a ", Oa - sinh -t ơn th ực ch ất đã thay đ ổi m ột cách căn bản nguyên tắc phối thuộc cùng Bô - gô - ta trong cu ộc đ ấu tranh ch ống l ại nạn buôn bán ma tuý. Từ nay trở đi, người Mỹ không chỉ đứng đằng sau quân đội Cô - lum - bi -a, mà với vai trò cố vấn huấn luy ện, sẽ th ực s ự và trực ti ếp nhúng tay vào công việc nội bộ của Cô - lum - bi -a ". ( Quân đội nhân dân , 10 / 9 /2000 )... 3. Đan xen trong phạm vi kết cấu toàn văn bản 18
  19. Ở đây, các thành tố biểu cảm được sử dụng để xây dựng những mảng màu đối lập ở bậc kiến trúc của toàn bài. Đó có thể là: a, Đối lập giữa tiêu đề với nội dung, ví dụ: Nắm người có tóc Trong vòng vài ngày qua, Đà Nẵng gần như chấm dứt hẳn nạn ùn t ắc giao thông vào các giờ tan học, tan tầm. Hiệu lực chỉ thị nghiêm c ấm h ọc sinh không được đi học bằng xe gắn máy, mô tô của chính quyền, nh ằm vãn hồi tr ật t ự giao thông trên đường phố có tác dụng thấy rõ. Gần chục ngàn học sinh của 7 trường phổ thông trung học đã tự giác đến trường bằng xe đạp thay vì xe máy như trước đây. Có thể nói đây là hiện tượng tích cực mà mà Đà Nẵng là một trong số rất ít đô thị trong cả nước hiện nay làm được nhằm giảm thiểu tai n ạn giao thông đang có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ trên khắp các địa phương trong cả nước... ( Lao động, 13 / 1 / 2003 ). Khôn ngoan chẳng lọ thật thà Hai vợ chồng giàu có vào bậc nhất phố tôi, dạo này buồn rười rượi, r ất năng đi chùa lễ Phật. Hàng xóm thạo tin kháo nhau: Nhà ấy phất nhờ đánh hàng lậu biên giới, vừa bại quả lớn, may mà không phải vào tù. Trời có m ắt c ả, đ ược cái này mất cái kia, lắm tiền " đen ' nên thằng con đầu đi xe máy ngã, c ưa mất một chân, thằng thứ hai, nghiện hút đang đi cai ... ( Hà Nội ngày nay, số 8 / 1999 ). b, Đối lập giữa phần mở đầu và phần triển khai, ví dụ: " Lại nói Tôn Sách là con Tôn Kiên muốn nối chí cha xưng hùng xưng bá ở Giang Đông, nhưng hiềm một nỗi là không có binh mã. Thủ hạ của Sách hiến kế rằng: " Tướng quan nên đem ngọc tỷ của Tôn Phụ để lại, thế chấp cho Viên Thuật, lấy quân mà thu phục Giang Đông ". Sách nghe theo. Viên Thu ật giao cho Sách 3000 quân và 500 ngựa chiến để đổi lấy ngọc tỷ truyền quốc. Có quân mã trong tay, lại được Chu Du giúp mẹo mực, chẳng bao lâu Tôn Sách đã làm ch ủ cả một vùng Giang Đông rộng lớn ". 19
  20. Nay trở lại quy chế lên bán chuyên nghiệp do LĐBĐVN đề ra cho các đội bóng muốn tham dự.." ( Lao động, 21 / 7 /2000 ). c, Đối lập giữa phần triển khai và phần kết thúc, ví dụ: " Thiết nghĩ, Kodak là một công ty lớn, việc kinh doanh đã có uy tín, th ương hiệu sản phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng qua kiểu làm ăn " đánh tr ống rồi... cất luôn dùi với VAFACO như vừa nêu gây thiệt hại cho đối tác hàng ch ục tỷ đồng, đã tự hạ uy tín của mình và chứng tỏ " ông chủ l ớn " đôi khi ch ỉ vì muốn thu lợi cho nhiều mà tính toán rất " nhỏ "... Rõ là: " kinh doanh có ba, bảy đường Anh chơi kiểu ấy khó lường về sau Nên lấy chữ tín làm đầu Giữa đường phản phé thì mau... sụp hầm ". ( Công an Thành phố Hồ Chí Minh, 26 / 8 / 2000 ). Thực tế khảo sát cho thấy, hầu hết các tác phẩm báo chí ( cho dù chúng có thuộc về bất cứ thể loại nào ) đều sử dụng sự đan xen khuôn m ẫu và bi ểu c ảm như là nguyên tắc cấu tạo về ngôn ngữ, song, tất nhiên là với mức độ và cách thức không giống nhau. Chỉ trong một số dạng tin thời sự ph ản ánh các s ự ki ện chính trị - xã hội quan trọng ( hoạt động của các nhà lãnh đạo, các cơ quan quyền lực cao cấp của đất nước ) là có vẻ thiếu vắng các thành tố biểu cảm. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì ở ngay các tin kiểu này cũng không nên ph ủ nh ận hoàn toàn vai trò của việc đan xen khuôn mẫu và bi ểu c ảm, mà ng ược l ại, ph ải biết hướng tới nó, biết vận dụng nó một cách mềm mại, sao cho vừa không làm phương hại đến tính khách quan của thông tin, vừa giúp cho độc giả phần nào bớt được cảm giác là mình đang phải đọc một thông báo khô khan. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó khi đọc các tờ báo lớn, thu hút được một l ượng đ ộc gi ả đông đảo, của nước ngoài. Vậy phải làm thế nào để cho ngôn ngữ báo chí có tính biểu cảm? Hay nói cụ thể hơn, là làm thế nào để tăng cường giá trị biểu cảm cho các thành tố ngôn 20
nguon tai.lieu . vn